Thursday 29 September 2011

Vì sao phim đen không phải là phim đen?

Các nhà phê bình Pháp (Nino Frank) dùng thuật ngữ  film noir (phim đen) chỉ một thể loại phim phát triển ở Hollywood sau năm 1941, có nội dung na ná các tiểu thuyết trinh thám trong Série noire của Pháp. Khoảng cuối thập niên 50 thể loại này lụi tàn. Ngày nay chỉ có những người lớn tuổi còn nhớ hoặc một số nhà nghiên cứu điện ảnh biết phim đen của Hollywood là gì.
Quãng những năm 80 ở Sài Gòn rộ lên các điểm chiếu vi-đê-ô. Trên báo chí bắt đầu xuất hiện các cụm từ vi-đê-ô đen, phim đen... để chỉ tất cả các bộ phim có tính bạo lực, khiêu dâm, phản động... Gần đây cụm từ phim đen chỉ có nghĩa là phim khiêu dâm.
Như vậy nếu dịch ra tiếng Pháp thì phim đen những năm 50 là film noir, phim đen những năm 80 là film sans visa và phim đen bây giờ là film classé X hoặc film érotique, film pornographique.

Xê xê xê pê là cái gì?


Tên chính thức đầy đủ của Liên Xô là Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết, tiếng Nga là Сою́з Сове́тских Социалисти́ческих Респу́блик, viết tắt là CCCP, đọc theo kiểu Việt là xê xê xê pê Dân gian cắt nghĩa CCCPcác chú cứ phá / còn cho còn phá... vì việc sử dụng hoang phí viện trợ Liên Xô đã thành chuyện thường ngày. Xê xê xê pê vì vậy có nghĩa là của chùa, xài không cần tiếc :
Anh ta loay hoay tìm bao thuốc lá, nhưng thuốc lá là vật bất ly thân, Cương đã cho vào túi áo bông, không thể để thành một thứ xê xê xê pê trong buồng lái được (Bùi Ngọc Tấn, 2008:103)

Wednesday 28 September 2011

Xe ba lua là xe gì?

Xe ba lua là xe tải hạng nặng. Gốc Pháp là poids lourd, vào tiếng Việt thành boa luaba lua. Ba lua thông dụng hơn. 

Tuesday 27 September 2011

Mô bin là cái gì?


Từ bobine của tiếng Pháp vào tiếng Việt thành bô bin: bô bin đánh lửa (bobine d’allumage) ; bô bin sơ cấp (bobine primaire)... Bô bin có một biến thể là mô bin :
Đặc biệt Khanh đã hợp lý hóa các thao tác trong công nghệ dệt, phân loại môbin thu hồi để tái sản xuất. (Triệu Xuân, 2007:67)
Hiện tượng chuyển đổi này không có gì khó hiểu: /b/ và /m/ đều là âm môi hữu thanh.

Sunday 25 September 2011

Rau bi na là rau gì?


Bi na là từ gốc Pháp (épinard): rau bi na bờ tường (épinard de muraille), rau bi na dại (épinard sauvage). Rau bi na có tên khoa học là Spinacia oleracea.
Rau bi na được tiếng là giàu chất sắt. Sự thật là năm 1890 cô thư ký của phòng thí nghiệm phân chất rau bi na đã đánh máy sai, nâng hàm lượng sắt trong rau lên gấp mười lần hàm lượng thật. Mãi bốn chục năm sau các nhà khoa học mới phát hiện ra sai lầm này nhưng đã quá muộn. Không còn ai không tin rằng bi na là vô địch rau quả về hàm lượng sắt. («Du fer dans les épinards et autres idées reçues», Jean-François Bouvet, Seuil, 1997)

Saturday 24 September 2011

Bơ phe là gì?


Bơ phe là bơ tươi. Gốc Pháp là beurre frais. Thợ làm bánh dùng bơ phe để bánh có mùi thơm béo và màu vàng đặc trưng.

Friday 23 September 2011

Có bao nhiêu từ bót gốc Pháp?



Có năm từ bót gốc Pháp.

Từ bót thứ nhất có nguyên từ là poste, giống đực, nghĩa là cái đồn : bót cảnh sát (tiếng Pháp là poste de police), bót gác (poste de garde), bót cút lít (poste de police)... Từ bót này hiện nay được xem là từ cũ.  Ở cửa ngõ thị xã Pleiku ngày xưa có đặt một trạm kiểm soát nên người ta gọi chỗ đó là ngã ba bót công trôn (poste de contrôle), sau này là ngã ba Phù Đổng.
Từ bót thứ hai cũng có nguyên từ là poste, nhưng giống cái, nghĩa là bưu điện. Từ bót này chỉ còn dấu vết trong địa danh Kinh Bót (arroyo de la Poste). Đó là con kinh bưu điện thời Pháp, làm nhiệm vụ vận chuyển thư tín từ Sài Gòn qua Tân An, về Mỹ Tho. Con kinh này về sau được đổi tên thành Bảo Định Hà, tức là kinh Bảo Định.
Từ bót thứ ba có nghĩa là cái bàn chải. Gốc Pháp của nó là brosse. Bót đánh răng (brosse à dents) hay cái bàn chải đánh răng cũng là một thứ.
Từ bót thứ tư chỉ cái ống để cắm thuốc hút. Nó là kết quả mượn âm yếu tố porte trong một số từ ghép tiếng Pháp: bót thuốc lá (porte-cigarette), bót xì gà (porte-cigare).
Từ bót cuối cùng là từ của dân cơ khí. Gốc Pháp là boîte.  Bót lái/bót số (boîte de vitesse), chính là hộp cơ cấu lái trong ô tô

Sunday 18 September 2011

Đèn phô lô là đèn gì?

Phô lô là từ gốc Anh (follow). Đèn phô lô (tiếng Anh: follow spotlight) là loại đèn điều khiển bằng tay để tập trung chiếu sáng một vùng nào đó trên sân khấu.

Thursday 15 September 2011

Tua bin có phải là từ gốc Nga không?

Tua bin gần với âm Nga (турбина) hơn cả, nhưng nó là từ gốc Pháp (turbine). Nó xuất hiện từ trước 1945 trong Danh Từ Khoa Học (Hoàng Xuân Hãn,  1959:182) và được ghi nhận trong các từ điển xuất bản ở miền Nam trước 1975 (Thanh Nghị, 1967:1264).

Monday 12 September 2011

Hoa phăng là hoa gì?


Hoa phăng (tức hoa phlăng) là hoa cẩm chướng tây hay còn gọi là cẩm chướng phăng. Người Pháp đem giống hoa này vào Việt Nam đầu thế kỷ 20. Nguyễn Kim Thản (2005:21261) định nghĩa đúng nhưng quy về gốc Pháp pensée là sai. Tên tiếng Pháp của hoa là œillet de France. Phăng/phlăng là phiên âm của từ France.
Không chịu kém cạnh, các hoa “cẩm-chướng-sim”, “cẩm-chướng-phăng” cũng hòa theo màu xuân, phô hương thi sắc khi đứng trong chiếc bình pha-lê, ang thủy-tinh, lọ đồng hoặc ống sứ...
Hoa-Nam, 1942:26 (Tri Tân Tạp Chí số 34)

Sunday 11 September 2011

Gạch ba banh là gạch gì?

Gạch ba banh là gạch nén. Gốc của nó là từ parpaing tiếng Pháp. Từ này vào tiếng Việt thành pác panh, pa panhba banh. Chỉ có pác panh vào được từ điển Nguyễn Như Ý (1999:1311). Các từ điển khác không ghi nhận dạng nào cả.

Saturday 10 September 2011

Mũ ca nô là mũ gì?


Từ điển chỉ có ca nô với ý nghĩa là thuyền máy cỡ nhỏ, có mạn cao, khoang có nhiều ngăn chia làm buồng máy, buồng lái,... dùng chạy trên quãng đường ngắn (Hoàng Phê, 2006:112). Đây là một từ gốc Pháp (canot).
Một từ Pháp khác là calot (tức cái mũ chào mào của lính khố đỏ thời xưa; lính này vì vậy còn được gọi là lính chào mào) vào tiếng Việt bằng con đường mượn âm thành ca lô, cà lồca nô. Ca lô là dạng đã ổn định từ lâu và được ghi nhận chính thức trong các từ điển (Thanh Nghị,  1967:172, Nguyễn Như Ý, 1999:220). Cà lồ có sắc thái thân mật. Ca nô nguyên là biểu hiện của những người mắc tật lẫn lộn /n/ và /l/, về sau thành ra phổ biến do người sử dụng không nhận thức được mối liên hệ giữa gốc Pháp và từ Việt:
Anh Nguyễn Công Hoan mặc quân phục, mũ ca-nô tím sao tròn cẩn thận. (Lê Minh, 2008:258)

Saturday 3 September 2011

Có phải dân chủ nghĩa là dân là(m) chủ?


Các từ điển tiếng Việt cuối thế kỷ 19 (Huình Tịnh Của, 1895; Génibrel, 1898) không có từ dân chủ. Mãi đến năm 1931, từ dân chủ mới chính thức xuất hiện trong từ điển (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:149)  và được định nghĩa là “Chủ quyền thuộc về dân”. Cách hiểu này không xa mấy với cách hiểu nôm na “dân là chủ”.
Vấn đề không đơn giản như thế nếu ta tìm đến căn nguyên của từ ngữ.


Khi hoàng đế Meiji (Minh Trị) đưa văn minh phương Tây vào công cuộc canh tân đất nước (1867), các học giả Nhật phải tìm từ ngữ để diễn đạt hàng loạt khái niệm mới mẻ về khoa học, chính trị, kinh tế... Trong số các khái niệm mới về thể chế có democracy của tiếng Anh, tương đương với démocratie của tiếng Pháp, democrazia của tiếng Ý... Khái niệm này được các học giả Nhật dịch bằng chữ Hán là 民主主義  minshushugi (âm Hán Việt là dân chủ chủ nghĩa). Vào thời đó Trung Quốc gửi nhiều quan lại và sinh viên  sang Nhật vì đó là con đường ngắn nhất để học tập văn minh phương Tây. Sau đó những người này trở về phiên dịch sách vở Nhật cho đồng bào họ đọc. Có người như Lương Khải Siêu trung bình mỗi năm dịch 50 quyển, cá biệt như năm 1903 dịch đến 200 quyển. Nhờ vậy minshushugi của tiếng Nhật trở thành minzhuzhuyi của tiếng Trung Quốc. Rồi sách vở mới của Trung Quốc (tân thư) được đưa vào nước ta nhờ công của các nhà buôn Trung Hoa. Các nhà nho Việt Nam đọc tân thư và phiên民主主義thành dân chủ chủ nghĩa.

Thể chế dân chủ ở phương Tây có một lịch sử hàng ngàn năm với nhiều quan niệm phức tạp, không thể được tóm tắt chỉ với một câu “Dân là chủ”. Căn nguyên của nó là δημοκρατία (tiếng Hy Lạp) với δμος nghĩa là dânκράτος  nghĩa là quyền lực, từ thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, được dùng để chỉ chính thể của một số thành bang Hy Lạp thời đó. Nhưng ai được coi là dân? Ở thành A-ten thời cổ, phụ nữ và nô lệ không được coi là dân; người từ nơi khác đến cũng không phải là dân; phải sinh tại A-ten, trên 20 tuổi và là đàn ông mới là dân. Khi cách mạng Pháp thành công năm 1789, chỉ những người đóng thuế trên một mức nào đó mới được coi là dân; phụ nữ Pháp khi đó vẫn chưa phải là dân và họ chỉ mới có quyền đi bầu mấy chục năm gần đây thôi. Nói tóm lại, dân chủ và các khái niệm cấu thành (dân, chủ) đều có tính lịch sử; không thể khăng khăng bám vào từ ngữ tiếng Việt hiện đại để giải nghĩa. Giả sử khi xưa người Nhật dịch democracychủ nghĩa/chế độ đề mô chẳng hạn thì bây giờ người Việt biết căn cứ vào đâu để đòi dân phải là(m) chủ?

Friday 2 September 2011

Thế nào là phản động?


Từ điển Hoàng Phê (2006:765) định nghĩa phản độngcó tính chất chống lại cách mạng, chống lại sự tiến bộ. Trước đó một trang, Hoàng Phê (2006:764) đã định nghĩa phản cách mạngcó hành động hoặc tính chất chống lại cách mạng. Nói tóm lại là trong tiếng Việt hiện thời, phản động đồng nghĩa với phản cách mạng. Bị gọi là phản động đồng nghĩa với việc bị gán cho tội chết.

Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:430) chỉ định nghĩa phản độnghành động trái lại với việc khác. Nó là từ mượn tiếng Hán (   ), đã được định nghĩa trong Hán Việt từ điển là hành động, hoặc vận động trái lại (Đào Duy Anh, 2005:592). Cách hiểu này vẫn còn được ghi nhận trong một số từ điển ở miền Nam trước 1975 (Lê Văn Đức, 1970b:1136). Định nghĩa như vậy chẳng có gì đáng sợ cả.

Lẽ tất-nhiên có một cuộc phản-động lại rất mạnh đối-phó với điều quá đáng. (Nguyễn Tiến Lãng, 1934, “Văn mới của người Tàu”, Nam Phong Tạp Chí, số 210, trang 320)
Người ta chỉ thấy chánh phủ Mãn Thanh bị đánh đổ bởi quân Cách mạng, song không biết kỳ thiệt là chánh phủ ấy tự đánh đổ lấy, chứ không phải bị ai đánh đổ... Vả, cái chế độ cộng hòa là một điều rất tấn bộ trong cuộc chánh trị. Nay dân Tàu ở dưới chánh thể chuyên chế mấy ngàn năm, vùng thót lên đến bực đó, vậy có phải là quốc dân họ tấn bộ chăng? Không, đó chỉ là cái sức phản động mà thôi." (PhanKhôi, “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu”, Đông Pháp Thời Báo, số 748ngày 26-07-1928, Sài Gòn, )


Phản động đối với cách mạng như tả đối với hữu, nhưng không có nghĩa là cách mạng thì đương nhiên tốt và phản động đương nhiên xấu.

Cái đảng dân-chủ lớn đó, - vì dân Pháp vốn có tính tự-chủ, - là gồm cả toàn-thể quốc-dân, khôn-ngoan biết điều lắm, không có thiên về phái cực-đoan nào cả, dù bên tả hay bên hữu mặc lòng. Phái cách mệnh (révolution) hay phái phản-động (réaction), đều không dung cả.
(Phạm Quỳnh, 1932, “Chính-trị nước Pháp”, Nam Phong Tạp Chí, số 169, trang 117)

Từ điển Thanh Nghị (1967:1040) ghi hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là hành động trái với việc khác được xem như là chính nghĩa; nghĩa này gần với định nghĩa còn lại hiện nay. Nghĩa thứ hai là tác động của một vật thể đối với một vật thể khác; đây là nguyên nghĩa, nhưng không được xem là nghĩa chính nữa. Cả hai nghĩa đều có trong các từ điển tiếng Trung Quốc hiện đại.


Từ phản động có thể được xem như một ví dụ điển hình của sự lệ thuộc Trung Quốc trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Từ phản động lẽ ra không đáng sợ đến thế nếu như bên Trung Quốc những kẻ chống đối không bị Mao Trạch Đông diệt sạch. Cái nghĩa nặng nề, chết chóc chỉ xuất hiện trong tiếng ta vì ta trót học làm cách mạng theo kiểu Trung Quốc. Nếu khi xưa các nhà cách mạng nước ta học luật đi đường của phương Tây truớc, họ sẽ nói... lề trái, lề phải.