Sunday 29 April 2012

VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH - Nguyễn Tài Cẩn

Đại Việt hay Đại Cồ Viêt ?


VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH


Nguyễn Tài Cẩn



Gần đây đã có những sự bàn bạc khá sôi nổi xung quanh vấn đề quốc hiệu đời nhà Đinh. Chúng tôi đã được một số bạn bè (1) gửi thư và bài đến hỏi ý kiến. Nhưng chúng tôi chưa có đủ điều kiện để giải quyết triệt để, vậy sơ bộ chỉ xin có mấy lời thưa lại như sau, về phương hướng nghiên cứu.

CÙ hay CỒ ?


Trước hết là về vấn đề chữ CỒ (âm Bạch thoại qú) trong Hán ngữ. Chữ này thuộc vận bộ NGU, nhiếp NGỘ. Theo thống kê của chúng tôi, vận bộ NGU, trong cách đọc Hán Việt, đã cho chúng ta 137 chữ đọc với U, 7 chữ đọc với Ô, 5 chữ đọc với O và 11 chữ đọc với ÂU (2).
Vậy đọc CÙ thì thuận theo đa số.
Nhưng Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh đọc là CỒ trong CỒ NHIÊN và Từ điển Phật học Hán Việt (Kim Cương Tử chủ biên, Hà Nội, 1992, tr.276) đọc là CỒ trong CỒ ĐÀM (Gautama) thì đó cũng là điều đã có tiền lệ. Và cũng dễ hiểu vì sao trước nay quốc hiệu đời nhà Đinh thường cũng được chúng ta quen gọi là ĐẠI CỒ VIỆT.
Trên đây là nói về cách đọc Hán Việt. Còn nói về cách đọc Nôm thì dùng một chữ Hán thuộc vận bộ NGU hay vận bộ MÔ để ghi Nôm vần U, vần Ô đều được cả. Ngay thế kỷ 17 chúng ta đã có những cách ghi như sau :
‒ Dùng vận bộ NGU
- ghi Ô như trong CỖ dùng thanh phù CỤ ;
- ghi U như trong RỦ dùng chữ LŨ ;
‒ Dùng vận bộ MÔ
- ghi Ô như trong NỔ dùng chữ NỖ ;
- ghi U như trong BÚ dùng thanh phù BỐ.

(ĐẠI CỒ) + VIỆT hay ĐẠI + (CỒ VIỆT) ?


Có lẽ nên phân tích ĐẠI CỒ VIỆT thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) chứ không nên phân tich thành (ĐẠI CỒ) + VIỆT.
Xin nói rõ ba lí do như sau đi ngược chiều với (ĐẠI CỒ) + VIỆT :
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ ghi nhầm từ một chữ CỒ đặt theo lối hình thanh, bao gồm nghĩa phù ĐẠI và thanh phù CỒ thì trong các bản Nôm càng cổ càng rất ít khi gặp mô hình cấu tạo ấy. Xưa phần lớn người ta thường dùng lối giả tá, mượn một chữ Hán để ghi một tiếng Nôm đồng âm hay có âm gần gũi. Không phải ngẫu nhiên mà cách viết CỒ = đại+cồ, tự điển chữ Nôm của viện Hán Nôm cũng chỉ mới tìm được trong thơ Tú Xương !
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ là cách ghi một dạng cổ song tiết (kiểu như LA ĐÁ = đá ), hay có tổ hợp phụ âm ở đầu (kiểu như BA LẠI = blái > trái) thì hiện có quá ít tiền lệ về trường hợp Đ...K... ! Trong kinh Phật thuyết... có kỵ húy đời Trần, trên tổng số hơn 100 lần dùng kiểu chữ này cũng chỉ có một ví dụ Đ.. K....mà thôi : đó là cách dùng ĐA KỶ // CƠ ? để ghi tiếng GHE với nghĩa là “nhiều” .(3)
‒ Còn nếu cho ĐẠI CỒ là 2 chữ (một Hán Việt, một Nôm) đồng nghĩa với nhau thì tổ hợp đó cũng đã bị nhiều người phản bác, nghi ngờ.
Trong lúc đó cách phân tích thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) có thuận lợi hơn nhiều. Ít nhất ‒ như dưới đây sẽ thấy ‒ sẽ có hai khả năng có thể đưa ra, ủng hộ nó.

GIẢ THUYẾT I : CỒ VIỆT = nước VIỆT hùng mạnh có vũ khí CỒ


1/ Giả thuyết này, nhìn chung, khá quen thuộc. Theo giả thuyết này thì :
‒ CỒ VIỆT đặt theo mô hình của LẠC VIỆT, ÂU VIỆT, NAM VIỆT, MÂN VIỆT v.v... Còn chữ ĐẠI là thêm vào sau để nhấn mạnh : CỒ VIỆT > ĐẠI CỒ VIỆT là một sự sáng tạo thuộc cùng một kiểu như ĐÔNG Á > ĐẠI ĐÔNG Á trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 vừa qua. Cách sáng tạo này xưa nay khá phổ biến, trong từ ngữ thông thường cũng như trong danh từ riêng. Trong cuốn TỪ HẢI có thể dẫn :
* những ví dụ như : bất kính // đại bất kính ; đa số // đại đa số, hòa thượng // đại hòa thượng...
* rất nhiều tên chỉ các chức vụ như : nguyên soái // đại nguyên soái, tư đồ // đại tư đồ, tư mã // đại tư mã...
* và cả những danh từ riêng như : Nhục Chi // Đại Nhục Chi (quốc danh ở Tây vực), Cô Đường // Đại Cô Đường (địa danh ở Giang Tây), Kim Xuyên // Đại Kim Xuyên (tên sông ở Tứ Xuyên), Thanh hà // Đại Thanh hà (tên sông ở Hà Bắc ) v.v.
2/ Nhưng chúng ta hiện có một số cứ liệu khá quan trọng : như cách gọi CỒ VIỆT trong 2 câu đối cổ, trong Việt sử... tứ tự ca, hay cách gọi tắt CỒ VIỆT thành CỒ trong CỒ KINH, CỒ ĐÔ v.v. ( dẫn theo bài của Nguyễn Anh Huy(4)).Vì vậy chúng ta nên xoáy sâu thêm vào tên gọi CỒ VIỆT này.
‒ Như mọi người đều biết, trước nay giới nghiên cứu thường nêu 2 cách hiểu chính :
* CỒ VIỆT = nước Việt to lớn ;
* CỒ VIỆT = nước Việt thờ CỒ ĐÀM, nước Việt theo Phật giáo ;
‒ Có lẽ, nếu đứng đơn thuần về mặt ngôn ngữ mà xét, thì ít nhiều cách hiểu nào cũng đều có thể gắng gượng bảo vệ được cả :
* Phản bác rằng kết hợp tiếng Nôm với tiếng Hán thì không nên, hay đặt tính từ trước danh từ là sai ngữ pháp thì có thể tạm cãi lại với những ví dụ đã có từ lâu như BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG, NHANH TRÍ, YẾU THẾ hay khả năng tạo từ đang xảy ra trước mắt như NHỚT KẾ, VÔI HÓA...
* Còn phản bác rằng CỒ trong CỒ ĐÀM là một tiếng ngoại lai, nói tắt từ Gautama, không thể đặt trước chữ VIỆT thì cũng có thể phản bác lại bằng cách dẫn khả năng tạo ra những kết cấu hiện có như ION HÓA hay GA PHÓ, KÍP TRƯỞNG...
‒ Nhưng dầu sao, cũng chưa cách hiểu nào trên đây được mọi người hoàn toàn nhất trí. Do vậy, Nguyễn Anh Huy mới đề xuất thêm một cách hiểu thứ ba (4) : CỒ VIỆT = nước Việt hùng mạnh có vũ khí CỒ (CỒ là cây giáo).
Nên chăng là dành ưu tiên cho cách hiểu mới mẻ này ? Bởi vì, với cách hiểu này, CỒ VIỆT không những tránh được các sự phản bác trên kia mà lại còn :
* vừa hợp với thời đại : theo Nam Hải dị nhân, Đinh Bộ Lĩnh có gươm, vậy thời đại nỏ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo ;
* vừa có sự ăn khớp với tinh thần thượng võ, tinh thần tự hào trong các tên gọi VẠN THẮNG VƯƠNG, ĐẠI THẮNG MINH HOÀNG ĐẾ ;
* vừa có sự ăn khớp với cả cấu trúc của tên gọi LẠC VIỆT xa xưa. Xin so sánh
+ LẠC VIỆT = vùng Việt có sản vật quí hiếm : có ruộng LẠC trồng lúa nước ? hay có chim LẠC thường về trú đông ? ;
+ CỒ VIỆT = vùng Việt hùng cường có vũ khí mạnh gọi là CỒ.

GIẢ THUYẾT II : CỒ VIỆT = dạng 2 âm tiết của VIỆT


Chúng tôi cũng xin gợi thêm một giả thuyết : phải chăng, khoảng giữa thế kỉ 10, ở vùng quê hương Đinh Bộ Lĩnh, chữ VIỆT còn được đọc thành Ku/WET nên ĐẠI + VIỆT mới được ghi thành ĐẠI + CỒ / VIỆT ? Giả thuyết này dựa trên lich sử diễn biến của ngôn ngữ nên, đáng lí ra, phải trình bày theo phong cách ngôn ngữ học. Nhưng để tránh quá rắc rối nên chúng tôi chỉ xin chọn vài điểm quan trọng nhất, và gắng viết ra một cách phổ thông, đơn giản nhất.
1/ Chữ VIỆT, cũng như các chữ VI (với nghĩa là “bao vây”), VINH (như trong “vinh quang”), VỰNG (chỉ “vầng khí sáng xung quanh mặt trăng mặt trời”) v.v..., theo giới Hán học, đều thuộc thanh mẫu VÂN. Vào khoảng Đường Tống, thanh mẫu VÂN đã tách ra khỏi thanh mẫu HẠP. HẠP xưa có phụ âm G (đọc theo Quốc ngữ ), còn VÂN thì có một âm H hút vào (5).
‒ Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi :
* có khoảng 10 trường hợp VÂN thuộc khai khẩu (không đứng trước W, không đọc tròn môi ) nên tạm ghi là H ;
* và khoảng 70 trường hợp thuộc hợp khẩu (đọc tròn môi và đứng trước vần mở đầu bằng W) nên tạm ghi là Hu(W).
‒ Với quy ước như trên, có thể nói ở giai đoạn tiếng Hán trung cổ :
* VIỆT có phát âm là HuWET ; VI // VÂY có phát âm là HuWI //. HuWEI
* Nhưng phụ âm Hu hút vào và tròn môi của thanh mẫu VÂN, theo S.A. Starostin, rất linh động, có khi rụng hẳn (6).Khi đó chúng ta chỉ còn lại WET, WI // WEI và chúng sẽ dẫn đến VIỆT, VI // VÂY.
Chuyện bỏ âm đầu, chỉ giữ lại phần sau như vậy đến sau thế kỉ 17 vẫn còn, ví dụ MLỜI bỏ M còn LỜI, TLÍU TLO bỏ T còn lại LÍU LO. Và hiện nay vẫn thế, ví du vay BLEU mà bỏ B, chỉ giữ lại LƠ trong XANH LƠ. Vậy chuyện HuWET đưa đến VIỆT, HuWI //HuWEI đưa đến VI // VÂY là chuyện của một truyền thống đã kéo dài hơn 1.000 năm.
‒ Nhưng Hu cũng có trường hợp không rụng, lại chuyển thành Ku, như trường hợp VÂY đưa đến QUÂY. Trường hợp VỰNG//VẦNG cũng vậy : chúng đưa đến QUẦNG như trong câu tục ngữ QUẦNG HẠN TÁN MƯA... Rõ ràng đã có quá trình KuWEI > KuEI, KuWẦNG >KuẦNG, xóa bỏ yếu tố W ở giữa. Thế kỉ 17, A. De Rhodes cũng cho thấy MLÁC có thể bỏ L, còn MÁC. Và hiện nay chúng ta cũng còn thấy có thể vay CRÈME, bỏ R, còn KEM. Vậy chuyện sản sinh ra QUÂY, QUẦNG cũng đã đi theo một truyền thống có mặt trên 10 thế kỉ.
2/ VIỆT cũng có trường hợp chuyển từ HuWET đến KuWET, nhưng VIỆT không đưa đến QUYỆT theo kiểu của VÂY//QUÂY, VẦNG// QUẦNG. Vì sao ? Đó là vì ‒ theo ngôn ngữ học ‒ chúng ta đã có QUYỆT trong QUỈ QUYỆT, nếu VIỆT còn cho thêm QUYỆT nữa thì gây thêm đồng âm, trở ngại cho việc giao tiếp.
‒ Để bù lại, KuWET sinh ra cách nói CỒ VIỆT. Tiếng CỒ là do phụ âm tròn môi Ku- của từ KuWET được âm tiết hóa mà thành (tức được tách riêng, ghi bằng 1 âm tiết)
‒ Cách làm này cũng giống như TRÔNG, TRỐNG thế kỉ 17 có TL nhưng xưa KL, nên phụ âm đầu K được ghi Nôm thành CÁ, thành CỔ (TRÔNG > CÁ LUNG ở Kinh Phật thuyết ; TRỐNG > CỔ LỘNG ở trên chuông đời Vĩnh Tộ vùng Yên Phong). Hay giống như gần đây, S trong Stalin, KH trong Khrusôp có hồi đã đưa đến hai âm tiết XÍT, KHỜ trong cách phiên âm thành XÍT-ta-lin và KHỜ-rút-sốp. Hoặc, để gần cuộc sống chúng ta hơn nữa, cũng có thể dẫn đến cả chuyện phụ âm C- trong CRÈME đã đưa đến tiếng CÀ trong cách nói CÀ REM mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào trong tác phẩm “Vểnh râu” của mình. Rõ ràng chuyển Ku (trong KuWET) thành CỒ (trong CỒ VIỆT) là một cách làm cũng đã trở thành một mô hình được tuân thủ suốt từ đời nhà Đinh đến nay.
‒ Còn sự tồn tại song song, đồng thời của cả 2 cách nói VIỆT và CỒ VIỆT thì có gây phiền phức gì không ? Xin thưa rằng không ! Bởi vì :
* Nhìn chung, chuyện một chữ gốc Hán mà có đến 2 cách đọc vốn là chuyện bình thường. Hơn nữa chúng ta lại còn có thói quen ‒ còn phổ biến đến tận ngày nay ‒ là trong tiếng thuần Việt, vừa có thể nói CÃI NHÂY vừa có thể nói CÃI CÙ NHÂY, vừa có thể nói ĐI THỌT, vừa có thể nói ĐI CÀ THỌT v.v...
* Mà ở Việt Nam, lối biến một dạng đơn âm thành một dạng song âm như vậy cũng thấy có cả ở từ gốc Hán : trong phần dịch Nôm bản kinh PHẬT THUYẾT chúng ta vừa gặp cả XƯỚNG, XA, KÍNH, THUYẾT vừa gặp cả A XƯỚNG, KHẢ XA, XÁ KÍNH, XÁ THUYẾT ;
* Vậy có khác gì vừa nói cả VIỆT, vừa nói cả CỒ VIỆT !
3/ CHÚ THÍCH THÊM :
‒ Nếu so sánh XA với KHẢ XA, XƯỚNG với A XƯỚNG, KÍNH với XÁ KÍNH, THUYẾT với XÁ THUYẾT chúng ta thấy ở đâu tiền âm tiết cũng chỉ có giá trị ngữ âm : KHẢ ứng với KH // KHa // KHu... ; XÁ ứng với S // Sa // Su... (S đọc X theo Bắc Bộ và quốc tế) ; còn A ứng với một âm tắc thanh hầu ?A // ?U.... Nếu so với cả từ ngữ bản địa thì cũng vậy : VUI lúc ghi BÔI, lúc ghi TƯ BÔI, thêm TƯ chỉ là để phản ảnh âm tiết TA có trong cách đọc cổ TA PUI hiện còn giữ ở Rục. Vậy CỒ trong CỒ VIỆT chắc cũng chỉ có giá trị về ngữ âm như KHẢ, như A, như XÁ như TƯ vừa nói ở trên. Giải thích rằng CỒ có ý nghĩa này, ý nghĩa nọ chắc là chuyện tìm hiểu, phỏng đoán của đời sau.
‒ Chúng ta đã thấy những dạng song tiết được cấu tạo giống như kiểu CỒ VIỆT nhưng có vỏ ngữ âm không giống. Nếu nay muốn có những tiền lệ đọc lên nghe gần gũi hơn thì nên dẫn những ví dụ như :
* CÙ BẤT CÙ BƠ cùng nghĩa với VẤT VƠ. Về âm xin so sánh CÙ BẤT với VẤT ; CÙ BƠ với VƠ.
* Hay so sánh CÙ BÙNG với VỒNG (trong CẦU VỒNG) :
+ CÙ BÙNG có ở trong tục ngữ Sổ CÙ BÙNG lấy thùng mà đựng. SỔ trong A. De Rhodes có nghĩa là “cái mống”.
+ VỒNG có ở trong tục ngữ MỐNG đông VỒNG tây.
VỒNG vốn xuất phát từ chữ HỒNG, cùng một nghĩa như vậy, ở trong tiếng Hán. HỒNG thuộc thanh mẫu HẠP, vốn phát âm là GWONG, nhưng sau chắc cũng đã chuyển thành KuWONG. So sánh chuyện KuWONG (< GWONG ) mà đưa đến CÙ BÙNG // CẦU VỒNG với chuyện KuWET (< HuWET) mà đưa đến CỒ VIỆT thì thấy quả cũng gần gần như nhau ! Còn nếu đọc là CÙ VIỆT thì hai bên lại càng gần nhau hơn nữa !
4/ Nói tóm lại, ý kiến của chúng tôi là :
‒ Chữ VIỆT gốc Hán, vốn có vỏ ngữ âm là HuWET. Nhưng dưới tác động của lối nói năng trong xã hội của người bản địa, nó đã tách đôi đi theo 2 hướng diễn biến khác nhau, đưa đến hai kết quả khác nhau :
* Một hướng diễn biến xẩy ra chung với rất nhiều chữ khác nữa là để rụng mất phụ âm hút vào và tròn môi ở đầu (phụ âm Hu), chỉ còn lưu lại bộ phận WET ở sau. Trường hợp này ta có cách đọc đơn âm là VIỆT.
* Một hướng diễn biến nữa, rất cá biệt, là HuWET chuyển thành KuWET, rồi phụ âm Ku tách ra thành một âm tiết riêng là CỒ, vần WET còn lại vẫn đọc VIỆT. Trường hợp này ta có dạng song âm là CỒ VIỆT.
‒ Hai lối nói VIỆT và CỒ VIỆT không lọai trừ nhau. Thời Đinh Bộ Lĩnh chúng cùng song song tồn tại. Bởp vì xung quanh chúng nó người ta cũng đã có thói quen ‒ lưu đến tận mãi ngày nay ‒ là hay dùng những lối nói nước đôi như CÁI NGOÉO // CÁI CÙ NGOÉO hay như ví dụ CÃI NHÂY // CÃI CÙ NHÂY đã dẫn ở trên kia.
‒ Chắc Đinh Bộ Lĩnh thích lối nói 2 âm tiết nên triều đình ghi quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT. Nhưng lò gạch trong vùng vẫn thích nói gọn nên vẫn ghi là ĐẠI VIỆT(*).
‒ Về sau VIỆT càng ngày càng phổ biến, lấn át hẳn CỒ VIỆT.

Từ ĐẠI CỒ VIỆT đến CỒ VIỆT và đến CỒ...


Còn câu chuyện vì sao sau khi cách đọc đơn âm là VIỆT đã được phổ biến vẫn có tài liệu ghi là CỒ VIỆT hay thậm chí còn ghi tắt là CỒ thì có thể giải thích bằng 2 lí do như sau :
‒ cách viết trong văn tự bao giờ cũng có tính cách bảo thủ, lưu lại vết tích ảnh hưởng lâu dài hơn là cách đọc, cách phát âm ;
‒ và cách ghi của xã hội không phải bao giờ cũng là một cách ghi đơn giản, 100% nhất luật trong mọi hoàn cảnh.
1/ Ví dụ về tính bảo thủ của văn tự :
‒ Như hiện nay, ở phương ngữ miền Bắc chúng ta nói CON GIAI nhưng trong Quốc ngữ vẫn viết CON TRAI ; còn trong chữ Nôm TRAI vẫn viết NAM+LAI hay BA+LAI.
Vậy thì trước kia cũng thế : dầu đã có dạng đơn âm là VIỆT nhưng lúc viết, các thế hệ con cháu về sau có khi vẫn dùng lại dạng cổ song âm là CỒ VIỆT hay thậm chí có khi giữ lại chỉ còn một âm tiết CỒ ở đầu. Gọi tắt tên riêng là một truyền thống. Đầu thế kỉ 20, thời Đông Kinh nghĩa thục, sau khi đã đọc tân thư theo lối người Việt, đã làm quen với những tên xa lạ như MẠNH ĐỨC TƯ CƯU hay như LƯ THOA, các lớp nhà Nho chúng ta vẫn có thể nói đến chủ thuyết của các “ cụ LƯ, cụ MẠNH ”, hoàn toàn theo mẫu của CỒ trong CỒ ĐÔ, CỒ KINH thuở trước !
‒ Chúng ta không nên chê trách cách ghi của các nhà viết sử, các nhà làm câu đối hoặc làm thơ đời xưa.
2/ Ví dụ về cách ghi không đơn giản, nhất luật 100 % :
‒ Như trong cùng một bản giải âm kinh Phật thuyết.....chữ VUI khi ghi bằng BÔI (ví dụ ở trang 13/a), khi ghi bằng 2 chữ TƯ và BÔI viết rời nhau (ví dụ ở trang 46/a), khi ghi bằng cách cọng TƯ với BÔI thành một kí hiệu ghép (ví dụ ở trang 20/a).
‒ Hoặc như gần đây, trong cùng một thành phố, vừa dùng cả tên gọi mới vừa dùng cả tên gọi cũ : THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH // SÀI-GÒN. Các báo SÀI GÒN TIẾP THỊ, SÀI GÒN DOANH NHÂN sở dĩ vẫn giữ lại tên gọi cũ chắc là vì muốn tỏ ra tôn trọng thói quen của quần chúng, tôn trọng một truyền thống đã có từ lâu đời.
‒ Vậy chắc thế kỉ 15 cũng thế : rất có thể Ngô Sĩ Liên vừa viết ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ vừa vẫn tôn trọng tên gọi cũ ĐẠI CỒ VIỆT, tuân theo truyền thống cũ, được bảo toàn trong thư tịch cổ hay trong trí nhớ của dân gian.
3/ Và cũng tất nhiên,đứng trước các cách ghi cổ có khi đời sau đọc lên không thật hiểu và người ta thường đưa ra những cách giải thích khác : đó là giải thích theo cái giới Ngôn ngữ học gọi là từ nguyên thông tục.
Chúng ta hiện chưa biết đâu là cách giải thích đúng theo thực tế lịch sử, đâu là cách giải thích theo từ nguyên thông tục. Chúng ta đang cần phải có một sự dày công nghiên cứu nữa mới mong đưa ra được một ý kiến giải đáp thực sự chắc chắn.. Trước mắt, chỉ mới dám xin nêu lên một số hướng gợi ý, để cùng nhau suy nghĩ, cùng nhau tiếp tục tìm tòi mà thôi.

Nguyễn Tài Cẩn




(1) Chúng tôi đã nhận được bài và/hoặc thư của tiến sĩ Lê Thành Lân (Hà Nội), bác sĩ Nguyễn Anh Huy (Huế) và Phan Văn Thắng, tổng biên tập tạp chí Văn hóa Nghệ An (Vinh). Chúng tôi xin thành thật tỏ lòng biết ơn.
(2) Những cứ liệu thống kê sơ bộ này đều đã được in trong cuốn sách của chúng tôi : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tái bản năm 2000.
(3) Xin xem Hoàng Thị Ngọ : Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Hà Nội,1999.
(4) Xin xem Nguyễn Anh Huy : 1) CỒ VIỆT chứ không phải ĐẠI CỒ VIỆT ; 2) Lộ trình của quốc hiệu CỒ VIỆT.
Bác sĩ Nguyễn Anh Huy đã chú thích đầy đủ về công trình các tác giả đi trước, nên chúng tôi chỉ xin dẫn lại từ bài của bác sĩ.
(5) Theo nhà Hán học nổi tiếng S. A. Starostin, thanh mẫu VÂN có phụ âm H - hút vào, phải ghi bằng kí hiệu khác H - bình thường. Nhưng để tiện cho các bạn đọc không cần đi sâu vào ngữ âm lịch sử, chúng tôi chỉ ghi đại khái, không thêm dấu móc chỉ sự hút vào ở trên kí hiệu h, hoặc tạm không phân biệt cách ghi U đọc theo tiếng Việt với cách ghi U đọc theo tiếng Pháp. Thay vì bảng ghi âm quốc tế, chúng tôi tạm dùng bảng chữ cái Quốc ngữ in hoa. Thanh điệu chúng tôi cũng xin tạm gác, không ghi.
(6) Cũng theo S. A. Starostin, ở thanh mẫu VÂN, trước vần có W, phụ âm rất linh động, có thể khi giữ khi không (Xin xem cuốn Phục nguyên hệ thống âm vị tiếng Hán thời thượng cổ, bản tiếng Nga, Moskva, 1989.
(*) Các cuộc khai quật ở Hoa Lư cho thấy các viên gạch xây dựng đều được làm tại chỗ và mang tên « Đại Việt quốc quân thành chuyên » (chú thích của Diễn Đàn).
Nguồn: Diễn Đàn Forum

Saturday 28 April 2012

Bàn về khái niệm từ Việt cổ (Nguyễn Đông Hưng)

Chữ Nôm là một sáng tạo độc đáo của dân tộc ta được chế tác trên chất liệu chữ Hán. Cứ liệu lịch sử cho thấy, những chữ Nôm đầu tiên chủ yếu được dùng để ghi tên người tên đất trong các bi kí, mộ chí, gia phả,... Sau đó, khi đã phát triển đến một mức độ tương đối hoàn thiện thì chữ Nôm được dùng để sáng tác văn học, ghi chép văn hóa dân gian, diễn âm các tác phẩm chữ Hán. Rõ ràng, chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu rất lớn của dân tộc ta về nhiều phương diện như ghi chép, giao tiếp, biểu đạt thái độ, tư tưởng, tình cảm,… Ngày nay, tuy chữ Nôm không còn được sử dụng rộng rãi như trước, nhưng vẫn không thể phủ nhận vai trò của nó, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa dân tộc. Vì thế, trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu về chữ Nôm, trong đó, quyển Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm(1) là một trong những công trình được xem là tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống, đồng thời cũng có ý nghĩa(2) và giá trị rất cao!

Đương nhiên, bên cạnh giá trị và đóng góp, công trình nghiên cứu nào cũng có thể mắc một vài khuyết điểm cần sự bổ sung, sửa chữa của nhiều người. Lí thuyết chữ Nôm văn Nômcũng vậy, những ai đọc qua quyển sách ấy sẽ dễ dàng nhận thấy giá trị và đóng góp to lớn của nó, còn ở đây, chúng tôi với tư cách là độc giả tâm đắc của quyển sách, cũng là người có chút tâm đắc với thứ văn tự xa xưa của dân tộc, xin mạn phép trình bày đôi điều chưa thỏa đáng (theo chúng tôi) trong sách.
Những điều chúng tôi trình bày dưới đây xuất phát từ mục Các từ Việt cổ trong văn thơ Nômbắt đầu từ trang 348.
Trước tiên, xin xác định khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ.
1. Khái niệm từ cổ trong tiếng Việt
Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, mục cổ ngữ (tức từ cổ-NĐT): tiếng nói ngày xưa;
Hiện đại Hán ngữ từ điển, Lã Thúc Tương (chủ biên), Thương vụ ấn thư quán xuất bản, Trung Quốc, 1998, mục cổ ngữ: cổ đại đích từ ngữ (từ ngữ xưa);
Tác giả Nguyễn Ngọc San cũng đưa ra nhận định về từ cổ như sau: “Từ cổ theo quan niệm truyền thống không phải là những từ có lịch sử lâu đời nhất trong một ngôn ngữ, mà là những từ đã được lưu lại trong các văn bản viết cổ hay văn bản miệng cổ (ca dao, tục ngữ) mà hiện nay không còn được sử dụng nữa, và để hiểu được chúng, người ta phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và các từ điển điển cố…”(3)
Qua ba định nghĩa trên, chúng ta thấy từ cổ là những từ ngữ (hoặc tiếng nói) được sử dụng vào thời xưa trong ngôn ngữ của một dân tộc. Tuy nhiên, ba định nghĩa trên vẫn chưa xác định đầy đủ tiêu chí của khái niệm từ cổ. Trên thực tế, khái niệm này “vốn là một khái niệm không được rõ ràng”(4). Theo chúng tôi, từ cổ theo nghĩa chung phải là những từ được sử dụng vào thời xưa của một dân tộc, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ một / các ngôn ngữ khác (cùng hệ hoặc không cùng hệ) và hiện nay không còn được sử dụng trong ngôn ngữ của dân tộc đó. (Đúng là để hiểu được chúng, người thời nay “phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và từ điển điển cố”.)
Như vậy, từ cổ trong tiếng Việt là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường, Hán (có thể cả ngôn ngữ Châu Âu) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
2. Khái niệm từ Việt cổ
Từ khái niệm rộng về từ cổ trong tiếng Việt như trên, chúng ta dễ dàng đi đến xác định khái niệm hẹp về từ Việt cổ như sau, đó là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ cùng hệ (Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
Hai khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Chúng không phải là hai vòng tròn giao nhau mà là hai vòng tròn đồng tâm có đường kính khác nhau. Trong quyển sách của mình, Nguyễn Ngọc San đã đánh đồng hai khái niệm trên nên đưa ra danh sách các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm nhầm với rất nhiều từ gốc Hán. Chúng tôi xin trình bày cụ thể như sau:
1. Mượn từ Hán Việt
Từ Hán Việt là bộ phận rất quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Theo nguyên tắc, mỗi chữ Hán đều có một hoặc vài âm Hán Việt, nhưng không phải âm Hán Việt nào cũng du nhập vào tiếng Việt trở thành từ Hán Việt. Tuy nhiên, trong các văn bản Nôm, bên cạnh hệ thống từ Hán Việt thông dụng, đôi khi cũng sử dụng cả một số âm / từ Hán Việt không thông dụng trong tiếng Việt hiện đại. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm có cả hai trường hợp như thế.
1.1 Từ Hán Việt thông dụng:
gián 諫  (can gián, khuyên can): Tính cương ai gián chẳng nghe mọi điều (tr. 391-392);
kham 堪  (cam chịu, chịu đựng): Kham cười anh vũ mắc chưng lồng (tr. 398);
loạn thường亂常  (làm rối loạn cương thường): Xây trồng ra thói trăng hoa loạn thường (tr. 408);
nghiệt孽  (yêu nghiệt, tội ác): Chút còn dư nghiệt ngoài thành khoe khoang (tr. 429);…
1.2. Âm / từ Hán Việt không thông dụng:
chủ quỹ主櫃  (người vợ cả): Hiềm trong chủ quỹ chưa hòa có ai (tr. 370);
mâu眸 (con ngươi, tròng mắt): Mâu tử là đôi con mâu (tr. 371);
na儺  (ôn dịch): Đốt trúc khuơ na dắng lỗ tai (tr. 420);
tẫn mẫu牝牡 (cái và đực): Tẫn mẫu sấp ngửa sắp bày úp che (tr. 452),…
Ngoài ra, còn có thể kể ra nhiều từ khác như đàn hặctiên sàmgia nương,… đều là từ Hán Việt. Nhưng mỗi trường hợp chúng tôi chỉ nêu ra vài ví dụ minh họa. Những từ ngữ trên tuy xuất hiện trong văn bản Nôm nhưng không phải ghi từ Việt cổ mà là những đơn vị từ vựng được ghi bằng chữ Nôm vay mượn cả âm và nghĩa chữ Hán (từ gốc Hán). Những chữ này khi xuất hiện trong văn bản chữ Hán thì chúng hoàn toàn là chữ Hán. Chỉ khi nào chúng xuất hiện trong văn bản Nôm mới được gọi là chữ Nôm. Nếu liệt kê những từ ngữ trên vào danh sách từ Việt cổ thì có lẽ tất cả từ Hán Việt mà hiện nay tiếng Việt sử dụng cũng đều là từ Việt cổ.
2. Mượn từ Tiền Hán Việt
Từ Tiền Hán Việt cũng là một bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Bộ phận này nếu không phân biệt kĩ sẽ dễ nhầm lẫn với từ Hán Việt Việt hóa và nghĩa của chữ. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm không có sự nhầm lẫn như thế nhưng lại xem lớp từ này là từ Việt cổ.
bượp (âm Hán Việt là phạp 乏: thiếu): Đời bượp văn chương uổng mỗ danh (tr. 362). Phạpvà bượp có mối quan hệ về ngữ âm, chúng biến đổi theo một quy luật ngữ âm nhất định. Chúng tôi xin đưa ra một vài ví dụ tương tự về sự biến đổi ngữ âm giữa từ Hán Việt – từ Tiền Hán Việt để chứng minh cho quy luật này như sau (mỗi từ phía dưới chúng tôi cũng làm giống như vậy):
nạp 納― nợp / nượp (nờm nợp / nườm nượp);
[lâmlạp [林]拉 ― [lườmlượp (đông đảo);
hạp 盒― hộp;
nam 南― nôm / nồm;…
chiềng (âm Hán Việt là trình 呈: tâu trình, tuyên bố): Chiềng làng chiềng chạ thượng hạ tây đông (tr. 368). Ví dụ tương tự:
tỉnh 井― giếng;
kính 鏡― kiếng;
chinh 正― giêng;
chinh 鉦― chiêng;
thinh linh / thanh lanh 清靈 ―thiêng liêng;
thành 城清靈 ― thiềng;… - nàn (âm Hán Việt là nạn 難: điều rủi ro nguy hại): Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương (tr. 422). Ví dụ tương tự:
loạn 亂― loàn;
tự自 ― từ;
nguyện 願 ―nguyền;
dụng  dùng;
niệm 念 ― niềm;
vạn  vàn;
nệ   nề;
cộng  cùng;… - tày / tầy(5) (âm Hán Việt là tề : ngang bằng): Chúc thánh cho tày Nghiêu Thuấn nữa (tr. 451). Ví dụ tương tự:
tê (tê giác)  tây;
thế ― thay(6);
lễ  lạy;
phi  ¯ bay;
thi  thây;…
Các từ bượpchiềngnàntày rõ ràng không phải là từ Việt cổ vì chúng chẳng những có quan hệ về ngữ âm mà còn có quan hệ về ngữ nghĩa với các từ phạptrìnhnạntề trong tiếng Hán. Mặt khác, nếu đó là những từ Việt cổ thì tại sao hiện nay không ít từ vẫn còn được sử dụng trong tiếng Việt (như phàn nàntày trời, hay như đìa (ao hồ), cúng dàngxum vầy,… mà tác giả đã liệt kê trong sách)?
Theo chúng tôi, những từ Hán Việt và Tiền Hán Việt trên đây không phải là từ Việt cổ, riêng những từ hiện nay không còn sử dụng (natẫn mẫubượp,…) chỉ có thể gọi là từ cổ trong tiếng Việt.
3. Dịch nghĩa chữ Hán
Xét các mục từ được giải thích trong sách như sau:
con tuyết: kĩ nữ: Cắp cầm con tuyết tình cờ đến (tr. 371);
nhà tĩnh: nơi ở của các sư tăng: Không môn già lam, tĩnh xá:nhà tĩnh (tr. 429);
nước trăng: kinh nguyệt: Tự nhiên phải khí dương âm, nước trăng tự ấy ai cầm chẳng ra (tr. 435);…
Chúng tôi thấy xếp các từ ấy vào dạng từ cổ là chưa thuyết phục. Vì: thứ nhất, chúng không thật sự khó hiểu đối với người hiện nay; thứ hai, chúng là những từ được chuyển dịch từ chữ Hán thì đúng hơn.
con tuyết được dịch từ tuyết nhi雪兒(nhi là ‘con’), nghĩa là người con gái trẻ xoa kem trắng trên mặt, chỉ những cô gái làm việc trong lầu xanh(7).
nhà tĩnh được dịch từ tĩnh xá 靜舍 hoặc tĩnh thất (xá là ‘ngôi nhà đơn sơ’, thất là ‘nhà ở’) nghĩa là ngôi nhà yên tĩnh để tu tập.
- Về từ nước trăng chúng tôi lí giải như sau: kinh nguyệt 經 月 là hiện tượng sinh lí của phụ nữ, có yếu tố nguyệt là trăng, tháng. Kinh nguyệt còn một từ đồng nghĩa là kinh thủy 經 水(8), có yếu tố thủy là nước. Vậy nước trăng là dịch kết hợp từ chữ thủy trong kinh thủy với chữnguyệt trong kinh nguyệtNước và trăng (cũng như thủy và nguyệt) đều là những từ thông dụng hiện nay, và nước trăng chỉ là một cách dịch chữ Hán của người xưa để chỉ kinh nguyệt chứ không phải là từ Việt cổ.
Bên cạnh đó, ngoài từ Hán Việt và Tiền Hán Việt đã nói trên, chúng tôi thấy sách còn thu nhận cả từ Hán Việt Việt hóa, đó là vỗ(9) (âm Hán Việt là phủ ) trong câu Đức muôn vỗ chúng ân ngàn trị dân (tr. 473).
Trên đây chúng tôi trình bày một vài thiển ý mong có thể phần nào làm sáng tỏ vấn đề từ Việt cổ và những từ đ?ợc cho là từ Việt cổ trong Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, nếu có gì sai sót xin quý vị độc giả chỉ giáo để chúng tôi có dịp học hỏi thêm.
Chú thích
(1) Nguyễn Ngọc San, Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb. Đại học Sư phạm, 2003.
(2) Quyển sách được in với sự tài trợ của quĩ hỗ trợ và phát triển văn hóa Việt Nam-Thụy Điển.
(3) Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Đại học sư phạm, 2003.
(4) Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, sđd.
(5) Trong Tiếng nói nôm na (Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1999), Lê Gia cho rằng chữ này có nguồn gốc từ chữ tài 裁 (cắt cho bằng), đó cũng là điều nhầm lẫn.
(6) Trong Tìm về cội nguồn chữ Hán (Nguyễn Văn Đổng dịch), Nxb. Thế Giới, 1997, Lý Lạc Nghị cho rằng thay là âm Hán Việt Việt hóa của thế.
(7) Trong Bắc mộng tỏa ngôn có ghi câu chuyện khác: Tuyết Nhi là vợ lẽ của Lý Mật, giỏi ca múa. Mỗi khi tân khách có văn chư?ng hay, Lý Mật đều bảo Tuyết Nhi hiệp âm luật để ca múa làm vui.
(8) Theo Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, Đài Loan, 1963 và Từ hải, Trung Hoa thư cục ấn hành, 1967.
(9) Trong Tiếng nói nôm na, sđd, Lê Gia cho rằng vỗ (vỗ về) có nguồn gốc từ chữ vũ là múa. Theo chúng tôi, như vậy không đúng.
Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ  và Đời sống, số 11 năm 2006




(*) ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp. HCM.

Friday 27 April 2012

ĐIỂM QUA VỀ TÌNH HÌNH TỪ CỔ TRONG CUỐN TỪ ĐIỂN CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA - Hoàng Thị Ngọ

48. Điểm qua về tình hình từ cổ trong cuốn từ điển CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA (TBHNH 2001)
Cập nhật lúc 22h51, ngày 22/03/2007

ĐIỂM QUA VỀ TÌNH HÌNH TỪ CỔ TRONG CUỐN TỪ ĐIỂN CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA

HOÀNG THỊ NGỌ

Tiến sĩ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Hiện nay, vấn đề từ ngữ cổ là một trong những vấn đề nan giải đối với người đọc, người học khi tiếp xúc, tìm hiểu các văn bản Hán Nôm. Không thể hiểu thấu đáo một văn bản nếu không hiểu hết được nghĩa của các từ cổ trong văn bản. Đặc biệt, với các văn bản Nôm càng cổ, vấn đề lại càng đặt ra bức thiết hơn. Cho đến nay, ngày càng có nhiều người quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu này. Nhưng các công trình hiện có chưa thể bao quát được toàn bộ từ cổ trong các văn bản Hán Nôm, cần phải có sự bổ sung, đóng góp công sức của nhiều người, nhiều thế hệ. Trong Hội nghị này, chúng tôi xin điểm qua kết quả tìm hiểu về từ cổ trong cuốn từ điển song ngữ cổ nhất hiện còn là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
Trước hết xin nhắc lại về khái niệm từ cổ. Từ cổ là những từ ngữ từng được sử dụng trong lịch sử nhưng qua quá trình phát triển của ngôn ngữ đến nay không còn được sử dụng nữa, nó chỉ còn lưu lại dấu vết ở 3 trường hợp sau:
- Chỉ còn trong các văn bản cổ (ví dụ: áng (cha), nạ (mẹ), mựa (chớ, đừng)...
- Trong các tổ hợp song tiết đẳng lập nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ và chỉ được xác định giá trị, ý nghĩa trong mối tương quan với yếu tố kia (ví dụ: han trong hỏi han, nghê trong ngô nghê...).
- Nếu còn xuất hiện trong tiếng Việt hiện đại thì cũng đã có sự thay đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa và khả năng kết hợp từ (ví dụ: Phủ phê --> phả phê; xấu thiết tha (chỉ mức độ xấu lắm) --> thiết tha (chỉ tình cảm gắn bó sâu sắc hoặc sự mong muốn, khẩn cầu); con (chỉ người: con bãi, con bợm, con chơi, con mày, con đòi trai... --> chỉ cả đồ vật, vật: con dao, con cá, con lươn...
Với những tiêu chí về từ cổ như trên, từ trước đến nay có thể tra tìm chúng trong một số từ điển như: Việt Bồ La của A. de Rhodes, 1651; Việt - Pháp Sài Gòn của M. Génibrel. 1898, Đại Nam quốc âm từ vị của Huỳnh Tịnh Của; Việt - La tinh của Pigneau de Behaie, 1772; Việt - La tinh của Taberd, 1838... Gần đây, năm 2001 mới thực sự có 2 cuốn từ điển từ cổ: Từ điển từ Việt cổ của hai tác giả Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện và Từ điển từ cổ của tác giả Vương Lộc. Nhưng thực sự các cuốn từ điển trên chưa thể bao quát được toàn bộ số từ cổ có trong các văn bản của kho thư tịch Hán Nôm. Hơn nữa các từ cổ này lại thường được ghi dưới dạng chữa Nôm, sau này một số được ghi bằng chữ quốc ngữ cổ nên việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Nó phải được phát hiện trong từng văn bản cụ thể và được xác định ý nghĩa trong càng nhiều ngữ cảnh càng tốt. Chúng tôi đã khai thác từ cổ trong một số tác phẩm thông qua sự rà xét chữ Nôm và lần này chúng tôi tiến hành trên văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Đây là một cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt cổ nhất hiện còn, lần đầu tiên được Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm giới thiệu năm 1985. Trong phần khảo cứu, tác giả đã giới thiệu và phân tích, khẳng định một số từ cổ. Dựa vào kết quả phiên âm của Trần Xuân Ngọc Lan, các tác giả của hai cuốn Từ điển từ cổ in năm 2001 cũng đã tìm thêm được nhiều từ nữa. Trên cơ sở chữ Nôm có đối chiếu với phần chữ Hán tương ứng, có tham khảo bản phiên âm, chú thích của Trần Xuân Ngọc Lan, chúng tôi đã tìm được 218 từ cổ, xuất hiện với tổng số 496 lần trong văn bản. Từ đó, chúng tôi đã có một bảng thống kê đầy đủ theo thứ tự, âm đọc, chữ Nôm, nghĩa chữ, tần số xuất hiện, xuất xứ, ngữ cảnh. Trong bài này chúng tôi chỉ xin điểm qua như sau:
Trong CNNÂ có mặt tương đối đầy đủ những từ cổ thường gặp trong các bản Nôm như: áy, ghẽ, ghê, ghín, mựa, chỉn, chưng, đăm, chiêu, đề đa, hoà, kẻ chợ, ngõ ngang, nữa, óc, sốt, tạn, thuở,... những từ này được thống kê đầy đủ nhưng xin phép không đề cập đến ở đây.
Chúng tôi xin nêu những trường hợp chỉ thấy xuất hiện trong CNNÂ. Một số trường hợp tuy xuất hiện chỉ có một, hai ngữ cảnh nhưng ý nghĩa rõ ràng và số ít có ghi trong từ điển của A. de Rhodes.
* Dùng cáicon:
Dùng cái để gọi hầu hết những động vật nhỏ mà sau này được gọi là con như: Cái ba ba, cái bạng, cái bọ hung, cái cáy, cái chả khoang, cái chích choè, cái chim công, cái còng, cái cua, cái cua càng, cái cuốc, cái da, cái dạm, cái dế, cái don, cái dơi, cái dơi vàng, cái đỉa, cái đười ươi, cái giá, cái giun, cái hà đồ, cái hến, cái lươn, cái mại, cái mối, cái muỗi, cái ngan, cái ngao, cái nhặng, cái rùa, cái ruồi, cái sam, cái sắc, cái sên, cái sò, cái sứa, cái tê tê, cái tò vò, cái tôi tôi, cái tôm vàng, cái trai, cái trạch, cái vích, cái vịt.
* Dùng từ con chưa có sự phân biệt rõ tính chất, giới tính, cách gọi rất khác ngày nay, có thể thấy như:
con bợm: con hát nói chung (11 - 11b)
con bãi, con chơi: gái mãi dâm (9 -11b,10 -11b)
con đòi trai: người hầu, người ở là con trai (5 -11b, 13b)
con đòi gái: người hầu, người ở là con gái (12 - 10b)
người con chèo: người lái đò (13 - 31)
con mắt cá tay: mắt cá tay (16 - 15b)
hai chân con ngươi: hai mắt cá chân (4 - 16a)
con sâu: con ngươi trong mắt (7 - 15a)
Từ con đã được dùng để gọi những động vật lớn như:
- Trường nhĩ hiệu là con lừa (1 - 58b)
- Ninh dương, đồng dương con dê (1 - 58b)
- Hoàng mi hiệu óc con nai (2 - 58b)
- Chương kinh chỉn thực con mang (7 - 58b)
Nhưng trong loại Mao trùng lại thấy ghi cái đười ươi.
* Dùng từ song tiết để gọi một số các động thực vật như:
bà cắt: chim cắt (9 - 56a)
bồ cắt: chim cắt (10 - 57b)
bồ cò: con cò (8 - 56a, 57b)
bồ cóc: con cóc (13 - 63a)
bệnh rết: con rết (7 - 66a)
bồ đài: mo cau (10 - 71b)
bồ nâu: củ nâu (7 - 71b)
bồ ngưu: hoa bồ ngưu (5 - 69a)
bồ nông: chim bồ nông (10 - 56b)
bồ cu: chim cu (5 -56b)
lồ mướp: mướp (7 - 77a)
lồ vừng: vừng (7 - 76a)
la đá: đá (6,7 - 6a)
* Dùng những từ rất khác ngày nay để gọi các bộ phận trong cơ thể người, ngoài các trường hợp đã nêu trên như con mắt cá tay, con ngươi (mắt cá chân), con sâu (con ngươi trong mắt), còn có các trường hợp như:
càng hàm : xương quai hàm
cằm ấn đường : xương bên trên chỗ hai lông mày giáp nhau
trái tay: bắp tay (7 - 17a)
trái chân: bắp chân (8 - 16a)
trái trôn: mông (12 - 17a)
* Chỉ các đồ vật:
cang la: cái thúng có quai đeo (13 - 44a)
cũi bát: chạn bát (9 - 44a)
dao tu rích: gươm ngắn (15 - 45a)
đầu lốc: hòn đá chườm (14 - 79b)
lù và: tù và (3 - 53a)
mặt mả: mặt nạ (3 - 55a)
miệt: giầy, dép (16 - 23b)
ống: súng (1 - 52a, 3 - 51a)
* Chỉ cỏ cây, mầu sắc:
gian: mầu, nhiều màu sắc (16 - 22b, 6 - 22a)
mùi tui: rau mùi, rau ngổ (12 - 72a)
cải lú bú: cải củ (9 - 76a, 12 - 78a)
nang: cau (12 - 41b)
nếp ác: nếp đen(12 - 34a)
nếp vang: nếp đỏ (12 - 34a) (12 - 34a)
nghệ máu: nghệ đỏ (11 - 77b)
lòm: đỏ(11 - 75a)
xanh mò: xanh sậm, xanh đen (12 - 66a, 16 - 64b)
* Chỉ mức độ, tính chất, tính cách, tâm lý:
song: lắm (5 - 50b, 1 - 522a)
mèn: nhỏ (6 - 53a)
chan: nhiều (2 - 74b)
hèo: hiệu nghiệm(5,16 - 74a; 8, 11- 79a)
tít: thít, thắt (13 - 70b)
dịu dàng: mịn màng (3 - 24b)
đang dạ: ưa thích (16 - 20a)
yêu đang: yêu đương (6 - 15a, 13 - 69a)
Điểm qua một số các từ ngữ cổ thấy trong CNNÂ, ít thấy trong các văn bản khác, chúng tôi sơ bộ có một số nhận xét sau:
- Với số lượng 218 từ ngữ cổ trong CNNÂ, có thể nói đó là sự bổ sung, góp mặt đáng kể vào các từ điển từ cổ, để từ đó làm cơ sở giải mã những tồn nghi hoặc xác định lại các từ đã bị thay thế khi phiên âm các văn bản từ Nôm ra quốc ngữ. Cũng có thể nói đây là một trong số rất ít những văn bản có sự đậm đặc nhất về từ ngữ cổ. Nhiều từ cổ thấy trong các văn bản: Khoá hư lục, Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập... thì cũng được tìm thấy trong CNNÂ. Có nhiều từ ngữ cổ chỉ thấy xuất hiện trong CNNÂ như chúng tôi trình bày ở phần trên.
- Trong CNNÂ có nhiều từ cổ chỉ xuất hiện 1 lần nhưng qua chữ Nôm và đối chiếu với phần chữ Hán tương ứng nên có thể xác định được mặt nghĩa, còn âm đọc thì phải có thêm cứ liệu để khẳng định.
- Những từ ngữ cổ trong CNNÂ đã phản ánh được khá rõ tình hình ngôn ngữ tiếng Việt ở thời điểm văn bản ra đời. Đó là nguồn cứ liệu vô cùng quý giá cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu và là một trong những giá trị lớn của cuốn từ điển cổ nhất này.
Chúng tôi đã sơ bộ điểm qua tình hình từ cổ trong văn bản CNNÂ, xin được trở lại vấn đề này kỹ hơn trong một dịp khác.
Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.404-410