Thursday 31 May 2012

Vì sao các nhà soạn từ điển bất công với phụ nữ?


Tiếng Hán có (âm Hán Việt là kỹ), ứng với tiếng Việt là đĩ. Kỹ nữcon đĩ. Kỹ việnnhà thổ (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:269). Đây là nguồn gốc của cách đối xử bất công với phụ nữ khi các nhà soạn từ điển định nghĩa từ đĩ.

Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:269) định nghĩa đĩhạng đàn bà làm nghề rước khách làng chơi. Đến Thanh Nghị (1967:875) đĩ vẫn là gái chơi bời, gái rước khách đàn ông để lấy tiền. Lê Văn Đức (1970a:445) định nghĩa đĩ là điếm, đàn bà làm nghề bán dâm cho khách làng chơi. Gần đây hơn là Nguyễn Kim Thản (2005:555), đĩ vẫn là người đàn bà làm nghề mại dâmđĩ điếmphụ nữ làm nghề mại dâm, nói chung. Hoàng Phê (2006:315) lịch sự hơn thì đĩ  là người phụ nữ làm nghề mại dâm.

Người xưa có câu:
Con sâu bỏ rầu nồi canh,
Một người làm đĩ, xấu danh đàn bà.
Nhưng đó là chuyện đời xưa. Từ nhiều năm nay ai cũng biết là không chỉ có đàn bà bán dâm cho đàn ông mà có cả đàn ông bán cho đàn bà, đàn bà bán cho đàn bà và đàn ông bán cho đàn ông. Vậy tại sao từ điển vẫn không thoát nổi nguyên nghĩa?

Với tư cách là một công cụ chuẩn hóa, từ điển góp phần củng cố một cấu hình tư tưởng được các lực lượng thống trị xã hội ủng hộ. Các quan hệ xã hội (trong đó có quan hệ giữa người bán và người mua trên thị trường nhục dục) bị ép phải lọt qua cái khuôn mẫu đã được từ điển định sẵn, trước khi chạm đến ý thức của người sử dụng ngôn ngữ . Ý thức vì vậy không thể phản ánh hiện thực một cách chân thực. Nhưng đó là cái ý thức mà thế lực thống trị xã hội mong muốn.
Còn mày, mày là con cái đứa đánh đĩ thập phương, là con thằng khố rách áo ôm, cu-li poóc-tê. (Ma Văn Kháng, 2003V:535)
Cái đứa đánh đĩ thập phương chỉ có thể là phụ nữ. Vì vậy khi Ngọc Trinh, nữ hoàng nội y, tuyên bố Tôi còn phải chừa một phương lấy chồng chứ, người ta liên tưởng ngay lập tức đến nghề làm đĩ mặc dù có thể cô không làm nghề ấy. Đây không phải là thiên hạ ghen ăn tức ở gì với cô người mẫu. Chẳng qua chỉ vì chưa đến lúc việc bán dâm được xem như một nghề nghiệp chân chính và Ngọc Trinh lại phải thể hiện suy nghĩ trong khuôn khổ những từ ngữ khinh miệt chính phái tính của mình.

Wednesday 30 May 2012

Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy” (Cao Tự Thanh)

Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy”


Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… là kết quả của việc kiêng húy các vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được nhiều trí thức trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương – Cang, Cảnh – Kiểng, Chính – Chánh hay Uy – Oai, Tiến – Tấn, Tùng – Tòng…
Nếu thống kê chi tiết toàn bộ những An – Yên, Bách – Bá, Càn – Kiền, Chân – Chơn, Dũng – Dõng, Đương – Đang, Giới – Giái, Hợp – Hiệp, Khỉ – Khởi, Lã – Lữ, Mệnh – Mạng, Nhật – Nhựt, Trường – Tràng, Thịnh – Thạnh, Súy – Soái, Vũ – Võ…, thì con số các từ Việt Hán bị đọc chệch âm nói trên sẽ vượt xa tất cả đồng thời chẳng có gì ăn khớp với những cái tên vua chúa Việt Nam (chẳng hạn gần đây có người cho rằng vì kiêng húy các chúa Trịnh Tùng, Trịnh Cương nên dân Việt ở miền Bắc đọc Tùng, Cương ra Tòng, Cang như tam tòng, tam cang (1), song người ta không hiểu vì sao hai ông chúa ấy lại cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là Kiểm không có chút gì là kiêng húy…). Thứ nữa, quan sát địa bàn phân bố của các cặp âm bị đọc chệch ấy qua chứng cứ lịch sử là các địa danh Việt Nam, có thể thấy rằng phần lớn những Phúc Yên, Vĩnh Phúc, Thái Lai, Nghĩa Xá là ở miền Bắc còn Phước An, Bình Phước, Tân Thới, Quảng Ngãi là ở miền Nam, điều này cho thấy đây là sản phẩm của một tiến trình lịch sử. Sau cùng, sự chệch âm ở nhiều cặp vần loại Chính – Chánh, Đỉnh – Đảnh, Lĩnh – Lãnh, Sinh – Sanh (Anh = Inh), Du – Do, Phù – Phò, Vũ – Võ (O = U) hay Uy – Oai, Súy – Soái, Thụy – Thoại (Oai = Uy)… lại mang tính hệ thống khác hẳn việc kiêng húy vài ba cái tên vua chúa lẻ tẻ, tình hình này chỉ có thể là kết quả của các quy luật ngữ âm. Tóm lại, hiện tượng đọc chệch hay nói chính xác là chuyển âm nói trên không thuộc về phạm trù sở thích tự trọng lố lăng của các vua chúa ngày trước và nhiệt tình tôn quân lạc lõng của các nhà Kiêng Húy học hiện đại, mà là một vấn đề ngôn ngữ học trên hai phương diện phương ngữ và ngữ âm.
Thời Bắc thuộc, dân Việt học chữ Hán như một sinh ngữ, nghĩa là phải đọc đúng theo cách phát âm (âm chuẩn) đương đại ở Trung Hoa. Nhưng từ khi nước ta giành được độc lập thế kỷ X trở đi, cách đọc ấy đã bị tách rời với những thay đổi ngữ âm ở Trung Quốc. Cái ranh giới Việt Hán – Hoa Hán trên lãnh vực này dần dần xuất hiện và định hình: về cơ bản người Việt vẫn bảo lưu cách đọc thời Đường (Đường âm) trong khi qua các thời Tống Nguyên Minh Thanh người Trung Quốc đã lần lượt trải qua nhiều cách đọc khác. Chẳng hạn vào khoảng cuối Minh đầu Thanh, ngôn ngữ Trung Quốc đã bắt đầu mất phụ âm đầu D khiến Dân (nhân dân), Diểu (xa) chuyển thành Mín, Miểu hay hiện nay thì nó đã hoàn toàn mất phụ âm đầu Đ để Đả (đánh), Đông (phía đông) trở thành Tả, Tung đẩy một bộ phận lớn những Tiểu (nhỏ), Tịch (chiều tối) qua dãy phụ âm đầu X như Xẻo, Xi song người Việt vẫn đọc là Dân, Diểu, Đả, Đông, Tiểu, Tịch… như thường. Cố nhiên sự thay đổi nói trên không diễn ra một cách đồng bộ và thống nhất ở Trung Quốc, chẳng hạn khi tiếng Bắc Kinh – Quan thoại hiện nay đã mất hẳn phụ âm cuối -m để Điểm tâm (Ăn sáng) chuyển thành Tẻn xin, thì người Quảng Đông vẫn nói là Tỉm xắm, hay họ nói Tài xỉu (Đại tiểu = lớn nhỏ) chứ không phải là Ta xẻo, tóm lại có thể tìm thấy vô số khác biệt tương tự giữa tiếng Bắc Kinh – Quan thoại với các phương ngữ ở Hải Nam, Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu mà ở đây tạm gọi là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Và nếu nhớ lại tình hình chia cắt đất nước thế kỷ XVII-XVIII đã làm tiếng Việt ở Đàng Trong – Đàng Ngoài phát triển khác nhau một cách đáng kể, nếu nhớ lại thực tế đa dân tộc ở thương cảng Hội An đã làm hình thành ở đây một thứ ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam (2), nếu nhớ lại sự kiện nhóm di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch cầm đầu tới tỵ nạn chính trị được cho vào khai phá Biên Hòa, Mỹ Tho cuối thế kỷ XVII, nếu nhớ lại việc Tao đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên thu hút nhiều văn nhân Hoa Nam tới ngâm vịnh xướng họa đầu thế kỷ XVIII…, người ta sẽ thấy ở đây một đợt tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hoa có quy mô và phạm vi rộng lớn, có thể nói là quan trọng bậc nhất sau khi người Việt giành được độc lập thế kỷ X. Đây mới thực sự là lý do làm phát sinh hệ thống những Huỳnh, Phước, Võ… trong cách đọc Việt Hán ở Đàng Trong mà đặc biệt là trên địa bàn từ Quảng Nam tới Nam Bộ, cách đọc chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm qua trung gian là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Quá trình tiếp thu, cải biến, chấp nhận… những cách đọc mới này của người Việt nhìn chung rất phức tạp, vì từ thế kỷ XIX trở đi thì việc đất nước được thống nhất trở lại đã xóa bỏ đi phần nào những khác biệt ngôn ngữ trước đó, mặt khác ngay trong nhóm phương ngữ Hoa Nam cũng có những khác biệt dẫn tới sự đấu tranh với nhau để giành ảnh hưởng một cách tự phát trên địa bàn nói trên. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng trong đợt tiếp xúc ngôn ngữ này người Việt hoàn toàn bình đẳng về chính trị và văn hóa với Trung Hoa, nên ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt, toàn bộ sự chuyển âm nói trên chỉ diễn ra trong khuôn khổ ngữ âm vốn có của các từ Việt Hán. Chẳng hạn hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững, nó đẩy những Mín, Miểu, Tả, Tung, Xỉu, Xi trở lại mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, và ngay mảng từ ấy cũng phải Vi�
��t hóa theo ngữ pháp Việt như nhỏ xíu (Xíu = Tiểu = nhỏ), đồ xịn (Xịn = Tân = mới) mới bước được vào ngôn ngữ Việt Nam ở địa phương.
Điều đáng phàn nàn là nhiều trong các trí thức coi Huỳnh, Phước, Võ… là “kiêng húy” hiện nay đã không biết chữ Hán mà lại không chịu tìm hiểu cả lịch sử việc kiêng húy nên cứ suy diễn rồi phát ngôn không cần địa chỉ nếu không nói là vô trách nhiệm! Thứ nhất, Hán tự có nhiều chữ hoàng, phúc, vũ… và không phải chữ nào cũng chuyển âm thành huỳnh, phước, võ…, chẳng hạn không ai nói kinh hoàng, thần Thành hoàng thành kinh huỳnh, thần Thành huỳnh cả, mà chữ bị đọc chệch âm ra huỳnh (họ Huỳnh) là chữ hoàng (vàng) lại không phải là tên Nguyễn Hoàng – tên ông Thái tổ của nhà Nguyễn này là hoàng (vàng) + chấm thủy. Thứ hai, đã gọi là húy vua chúa thì dân đen có thể vì muốn làm giặc nên không thèm kiêng, chứ quan lại hay đám kẻ sĩ toan làm quan lại thì nhất định phải kiêng cho sáng đạo cương thường, thế nhưng đầu thế kỷ XVIII Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích vẫn hiên ngang đặt tên con trưởng của mình là Mạc Tử Hoàng với chữ hoàng (vàng) + chấm thủy hiện vẫn còn trên bia mộ Mạc Tử Hoàng ở núi Lăng, Hà Tiên: rõ ràng dân Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII chẳng phải kiêng húy tên vua chúa nào cả. Thứ ba, đã gọi là chữ húy thì hoặc là không được dùng, tức không được viết ra (đối với chữ trọng húy) hoặc là phải viết thêm nét bớt nét đổi nét, thế nhưng mấy trăm năm nay dân Việt ở miền Nam vẫn viết Hoàng, Phúc, Vũ… như người miền Bắc hay người Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và viết khắp nơi, vậy việc họ đọc chúng là Huỳnh, Phước, Võ… chỉ là vấn đề ngữ âm. Thứ tư, là triều nào húy nấy, chẳng hạn anh em Thái Đức – Quang Trung không hơi đâu kiêng húy các chúa Nguyễn còn cha con Gia Long – Minh Mạng chẳng ngu gì kiêng húy các vua Lê chúa Trịnh, nếu thần dân nào cứng cổ kiêng húy không hợp thời thì giữ cho còn nguyên được đầu cũng đã khó chứ đừng nói tới chuyện rủ rê quần chúng cùng kiêng. Thứ năm, đã gọi là “quốc húy” thì phải có thông báo bằng văn bản cụ thể theo đúng thủ tục hành chính và có hiệu lực pháp lý hẳn hoi cho dân biết dân làm, không phải chuyện bí mật quốc gia hay hoạt động bí mật để thông báo nội bộ hay rỉ tai nhau trong giới quan lại mà kiêng húy. Và riêng dân Nam Bộ thì đến 1861 có nhận được chỉ dụ cuối cùng của Tự Đức phổ biến về 47 chữ “quốc húy” (từ 1862 – 1867 Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm thuộc địa rồi), trong đó có 20 chữ đã được Minh Mạng thông báo trong chỉ dụ kiêng húy vào loại đầu tiên của triều Nguyễn năm 1825. Ai muốn biết rõ về 47 chữ ấy xin cứ tìm bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn mà đọc, xem có những Hoàng (vàng), Phúc, Vũ, Cảnh, Cương, Chính… và hàng trăm chữ khác mà các nhà Kiêng Húy học trước nay vẫn gán bừa cho tổ tiên ta không.
Đi tìm lai lịch cụ thể của từng âm Việt Hán đọc chệch so với Đường âm là một công việc phức tạp, nếu chưa định hướng được thì đừng nên thao tác. Chẳng hạn nhiều người Nam Bộ trước đây vẫn đọc Hớn Cao tổ, Hớn Sở tranh hùng chứ không đọc là Hán Cao tổ, Hán Sở tranh hùng, mà việc chuyển An – Ơn như San – Sơn, Đàn – Đờn thì lại chưa đủ để coi là có hệ thống. Nhưng vì ngữ âm Nam Bộ vẫn nhất hóa cặp phụ âm cuối -n, -t vào với cặp -ng, -c (như ran rát nói là rang rác) – với lối phát âm ấy mà đọc phò Hán, hảo hán thì nghe kỳ quá nên người ta phải chuyển âm để kiêng một sự húy trong đời thường đấy, các học giả thích kiêng húy vua chúa đừng đi tìm ở cái “quốc húy” nào đó trong cung đình cho mất công!
Tháng 11. 1993
(1) Xem Phan Trọng Hiền, Tên húy và việc phạm húy, báo Phụ nữ Thànn phố Hồ Chí Minh số ra ngày 20. 11. 1993. Tuy nhiên đây rõ ràng là một sự suy diễn khiên cưỡng, vô căn cứ và rất tùy tiện. Thứ nhất, hiện tượng đọc chệch Tùng, Cương ra Tòng, Cang kia chủ yếu xảy ra ở miền Nam chứ không phải ở miền Bắc. Thứ hai, chẳng có bằng chứng lịch sử dù là gián tiếp hay nhỏ mọn nào cho phép nghĩ rằng vào thế kỷ XVI – XVIII thần dân của triều Lê trung hưng bị bắt buộc phải kiêng húy các chúa Trịnh: ngay cả các bộ chính sử được biên soạn bởi các sử thần của Lê Trịnh cũng viết thẳng tên các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm trở đi, chứ chẳng hề tỏ ra tôn kính đặc biệt gì các chữ ấy trên văn bản cả. Thứ ba, tác giả của phát hiện độc đáo nói trên dường như không biết cả chữ Hán lẫn quy ước trong gia tộc họ Trịnh, nên đã đánh đồng tên Trịnh Tùng với Tòng trong tam tòng và tên Trịnh Cương vớiCang trong tam cang, chứ thật ra tên hai ông chúa này được viết với bộ mộc. Nếu đọc Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, người ta sẽ thấy ngay tất cả các chúa Trịnh đều có tên viết với bộ mộc và tất cả các chúa Nguyễn đều có tên viết với bộchấm thủy. (2) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 161 – 166

Tuesday 29 May 2012

Thấy gì qua số phận của từ pa?


Trong một tác phẩm xuất bản cách đây chưa lâu, Tô Hoài (2006g:107) có câu :
Anh ra đi với em vài pa.
Người Việt hiện nay chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để phỏng đoán  ý nghĩa của từ pa. Đứng một mình chữ ấy (có muốn) hoàn toàn trong sáng, và trong sạch cũng không được vì không có từ điển tường giải nào thu nhận nó để giảng cho ta biết cái nghĩa trong sáng và trong sạch của nó là gì. Chỉ dân sành ăn chơi, thạo nhảy đầm biết nghĩa của pa và nếu không là dân học tiếng Pháp, thì chắc không biết gốc của nó là từ pas, nghĩa là bước.
Lạ một điều là từ pa đã có mặt trong quyển từ điển Nga Việt xuất bản ở Mát-xcơ-va hơn ba mươi năm trước. Alikanôv (1977b:9) đã dùng từ này để dịch từ па của tiếng Nga.
Phải chăng па vì của tiếng Nga nguyên là pas của tiếng Pháp được nhập vào qua đường mượn âm mà các nhà biên soạn từ điển Nga Việt ở Mát-xcơ-va nghĩ là tiếng Việt cũng nên phiên thành pa? Nếu trong tay các soạn giả ấy không có quyển từ điển Việt nào và cũng không có tác phẩm nào sử dụng từ pa thì pa phải được xem là một từ tân tạo, mượn âm tiếng Nga.
Tuy nhiên ta cũng biết là trong ba người đứng tên tác giả từ điển Nga Việt có ít nhất một người Việt là ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch ủy ban hành chính Hà Nội tỵ nạn ở Liên Xô từ năm 1964. Ông này lấy bút danh là Alikanôv. Ông Nguyễn Minh Cần, tức Alikanôv, có thể biết từ pa từ khi còn ở Việt Nam. Các đồng soạn giả kia có thể cũng biết hoặc có thể không. Nhưng dù tất cả cùng biết hay chỉ một người biết thì họ chỉ có thể biết qua khẩu ngữ của dân nhảy đầm và có học chữ Pháp. Vậy vì lý do gì một từ chưa được chính thức chấp nhận trong các từ điển của Việt Nam lại được đưa vào từ điển Nga Việt?

Monday 28 May 2012

Từ Việt Hán và từ Hoa Hán (Cao Tự Thanh)

Từ Việt Hán và từ Hoa Hán


Năm 1977, tôi làm luận văn tốt nghiệp Đại học, thời bấy giờ có mốt dùng danh ngôn đề từ cho các chương, tới một chương dịch chữ Hán, không biết trời đất run rủi hay ma quỷ xui khiến mà tôi lại bịa ra một câu đề từ “Học ngoại ngữ – đó chỉ là một lối nói. Học lại tiếng mẹ đẻ một lần nữa, phải chăng đó mới là thực chất của vấn đề?”. Giáo viên hướng dẫn là thầy Bùi Duy Tân đọc thấy bèn nhẹ nhàng hỏi “Câu này cậu lấy của ai?”. Tôi ấp úng nói là quên mất rồi, Tân sư phụ nheo nheo mắt nói “Trích dẫn thì phải ghi rõ của ai chứ, thế này là thiếu nghiêm túc”. Lúc ấy thấy sư phụ chế nhạo mình học đòi sáng tác danh ngôn, mặt mũi sượng ngắt, về sau nghĩ lại mới ngờ ngợ là trong cái nheo mắt của ông hình như có ẩn chứa một lời khen (?). Mấy vị sư phụ chữ Hán tôi được thụ nghiệp đều tinh thâm Hán học, ai cũng xử sự với đệ tử theo nguyên tắc khích lệ người nhút nhát mà đè nén kẻ hiếu thắng, nên bây giờ nghĩ lại cũng thấy tự hào, hơn 20 tuổi đã chế tạo được danh ngôn (!) được sư phụ khen ngợi kiểu chế nhạo, nhưng bỏ cái bao bì ấy đi thì vẫn là khen, há chẳng vui ru? Cách đây vài năm lại đọc một bài phỏng vấn anh Cao Xuân Hạo, thấy anh nói một câu đại ý Muốn dịch giỏi phải giỏi tiếng Việt, trong lòng quả có cảm giác Bậc trí giả kiến thức thường giống nhau. Nhưng trong bản dịch Vô ảnh đăng (Đèn không hắt bóng) của Nhật qua bản tiếng Nga thì dịch giả Chiến tranh và hòa bình lại quá trung thành với bản tiếng Nga khi cho nhân vật bác sĩ nói với viên cảnh sát “Chữ thương bộ thủ chứ không phải chữ thương bộ nhân” trong khi hoàn toàn có thể dịch là “Tổn thương chứ không phải chấn thương”. Trong một lần uống rượu với anh Hạo tôi có nhắc tới chuyện này, và vì biết tôi từng được học chữ Hán với cụ Cao Xuân Huy, nên anh buồn rầu nói “Tôi không nối nghiệp được ông cụ về chữ Hán”. Thật ra đó chỉ là một sơ suất rất nhỏ trong thao tác dịch thuật nhưng lại khiến một nhà ngữ học nổi tiếng như Cao Xuân Hạo chạnh lòng nghĩ tới cả học nghiệp lẫn gia thế của mình, đủ thấy giỏi tiếng Việt trong đó có mảng từ Việt Hán là rất cần thiết dù không phải dễ.
Mươi năm trước, nhiều người hăng hái bàn tới việc dạy lại chữ Hán cho học sinh phổ thông, nhưng dù sao thì nói vẫn dễ hơn làm, vả lại muốn dạy chữ Hán thì trước hết phải đào tạo được một đội ngũ thầy cô để dạy chữ Hán, mà thứ kiến thức này xem ra lại không dễ dạy thêm như các môn Anh văn toán lý. Cho nên dường như các nhà Về nguồn học đã chán không muốn đeo đuổi mục tiêu ít thực tế và không kinh tế ấy nữa, có điều mảng từ Việt Hán trong tiếng Việt vẫn tồn tại với nhiều vấn đề khiến những người đọc sách phải quan tâm.
Phát triển nhiều năm trong môi trường văn hóa Việt Nam, mảng từ Việt Hán trong tiếng Việt có rất nhiều khác biệt với mảng từ Hoa Hán. Chẳng hạn cái mà người Việt Nam gọi là sức sản xuất thì người Trung Quốc gọi là sinh sản lực, người Việt Nam gọi là sinh sản (sinh đẻ) thì người Trung Quốc gọi là sinh dục, người Việt Nam gọi là sinh dục thì người Trung Quốc gọi là tính dục. Những biến động lịch sử ở Việt Nam còn làm hình thành trong mảng từ Việt Hán những biệt sắc địa phương khác nhau, chẳng hạn người miền Bắc đọc chữ Hán theo Đường âm thế kỷ IX, X thì nói là Hoàng, Phúc, Vũ, Diến Điện còn người miền Nam từ Quảng Nam trở vào chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm theo chân các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua Đàng Trong tỵ nạn chính trị thế kỷ XVII, XVIII thì nói là Huỳnh, Phước, Võ, Miến Điện. Đây là chưa nói tới mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ loại lạp xưởng (lạp trường), há cảo (hà giảo), xào (sao), ké (ký), xỉu (hưu)… đặc biệt phổ biến trong phương ngữ Nam Bộ, cách đọc quen thuộc này đã xóa nhòa ranh giới Hoa Hán – Việt Hán trong trường hợp tên nữ diễn viên điện ảnh Hương Cảng Trịnh Bội Bội bị đọc thành Trịnh Phối Phối ở miền Nam trước 1975. Tương tự, nếu so sánh mảng từ Việt Hán ở hai miền Nam Bắc trước 1975 cũng có thể tìm thấy nhiều nét khác biệt như miền Nam nói là hoàn tất còn miền Bắc nói là kết thúc, hay quân đội Sài Gòn có sắc lính biệt kích thì quân đội miền Bắc có binh chủng đặc công, mỗi bên lấy một nửa trong các cặp từ đặc biệt và công kích để tạo từ. Ngoài ra qua thực tế sử dụng nhiều từ Việt Hán cũng dần dần được gán thêm những ý nghĩa trang trọng như trường kỷ nghe sang hơn ghế dài cũng như các sắc thái tình cảm – tâm lý riêng biệt, chẳng hạn thương thì khen là kiên trì còn ghét thì chê là cố chấp, hoặc địch thì ngoan cố chứ ta thì nhất định phải là kiên cường… mặc dù các cặp kiên trì – cố chấp, kiên cường – ngoan cố có nghĩa đen hoàn toàn giống nhau.
Nhiều người vẫn nghĩ nếu biết chữ Hán thì sẽ sử dụng các từ Việt Hán tốt hơn, ví dụ sẽ không lầm yếu điểm ra điểm yếu nhưng thật ra không hẳn như thế hay không chỉ như thế. Phía sau chữ Hán là cả một nền văn hóa phong phú về nội dung và đa dạng về phong cách, nên để nói và viết đúng mảng từ Việt Hán trong tiếng Việt hiện nay thì phải chú ý tới vấn đề từ pháp (cách cấu tạo từ). Chẳng hạn vô, bất, phi có vẻ gần nhau nhưng vô nghĩa, bất nghĩa, phi nghĩa thì hoàn toàn khác nhau. Từ trước 1975, người miền Nam đã quen với câu “Không biết thì không có tội” phổ biến trong các truyện võ hiệp. Nhưng các dịch giả đương thời vì sơ suất đã dịch sai, chứ đó vốn là thành ngữ “Bất tri giả bất tội” (Kẻ không biết thì không bắt tội). Vô tội mới là không có tội, chứ Bất tội là Không bắt tội, vì chữ tội trong Bất tội là một động từ (theo phương thức ý động pháp trong Há
n ngữ), không phải danh từ như trong Vô tội. Hay cô = độc nhưng cô + lập thì khác độc + lập, hai từ này không ai dùng sai nhưng hỏi tại sao chúng khác nhau thì ngay cả nhiều vị làm tự điển chữ Hán cũng ú ớ. Bởi cô và độc ở đây có chức năng ngữ pháp khác nhau, độc là tính từ còn cô là động từ, từ pháp khác nhau dẫn tới ngữ nghĩa khác nhau (động từ cô lập cũng có hai thể bị động và chủ động, như bị kẻ khác cô lập và làm cho kẻ khác bị cô lập).
Theo với những thay đổi trong sinh hoạt xã hội, tiếng Việt trong đó có mảng từ Việt Hán hiện nay cũng có những nét mới. Khoảng đầu những năm 80 của thế kỷ trước, Giáo sư Trần Quốc Vượng có một bài viết về văn hóa Việt Nam trên báo Đại đoàn kết, nội dung thì hay nhưng có người chê anh Vượng dùng những từ như Nội lực văn hóa, đó là từ ngữ của truyện võ hiệp. Nhưng hiện nay thì người ta dùng tuốt cả Trưởng lão (cách mạng), Độc chiêu (quảng cáo) mà không ai thấy chướng tai. Có điều trên cái nền đổi mớI ấy vẫn có nhiều người không hiểu hay hiểu không rõ ý nghĩa các từ Việt Hán mà cứ sử dụng bừa đi nên trong rất nhiều trường hợp lại trở thành lố lăng, thậm chí còn là sai trái. Cách đây khoảng hai ba tháng, không nhớTuổi trẻ hay Sài Gòn giải phóng gì đó đưa một cái tin làm tôi giật nảy mình, đại khái là bắt được một nhóm sát thủ 12 – 13 tuổi. Đến khi đọc xong mới biết mấy đứa nhỏ ấy giết người. Trời ạ, sao không viết là giết người hay sát nhân, mà lại viết là sát thủ? Sát thủ là kẻ giết mướn, là một yếu tố trong dây chuyền công nghệ tội ác hiện đại, Việt Nam hiện nay cũng có đám đánh mướn chém mướn và có thể cả giết mướn, nhưng trẻ em 12 – 13 tuổi mà giết mướn thì nước ta đang trong tình trạng xã hội nào vậy, các vị làm báo sao không cân nhắc? Nhiều vị làm báo thích nói chữ Hán cho sang nhưng dốt nên thành nói bậy, nghe rất chướng tai, chẳng hạn đường ống nước ở phố X bị vỡ, nước chảy lênh láng ra đường, nhân dân địa phương đã báo hai ba hôm mà đến nay Công ty cấp nước vẫn chưa có động thái gì. Sao không viết là động tác hay hành động mà lại viết là động thái? Động thái là dáng vẻ của sự vận động, là một ý niệm trừu tượng giống như Hình thái, mà có ai viết Một cô gái có hình thái bên ngoài dễ nhìn không? Đây là chưa nói tới lối tạo từ Việt Hán vô nguyên tắc dẫn tới những vụ phi luân phi loại kiểu tôn Âu Cơ là Quốc mẫu còn gọi Hùng Vương là Quốc tổ, tức mẹ sinh ra ông nội, thật chẳng biết những người đầu tiên chế tác ra cặp từ Quốc mẫu – Quốc tổ ấy thờ cúng ông bà cha mẹ của họ ra sao mà bắt nhân dân phải gánh cái tội điên đảo luân thường tày đình thế này!
Có lần anh Cao Xuân Hạo nói với tôi là đi một đám cưới thấy người ta giới thiệu nhau kiểu “Vị này là hôn phu của cô kia”, nghĩ một lúc mới biết họ muốn nói anh này là vị hôn phu của cô kia. Vị ở đây là chưa, vị hôn phu tức chồng chưa cưới, họ lại tưởng là vị trong ngôi vị, kiểu các vị khách quý, các vị lãnh đạo nên mới ăn nói tréo ngoe như thế, nghĩ mà buồn cười. Cái chữ vị này còn lắm chuyện hay, ví dụ gần đây lại có người lẫn lộn vị tất (chưa nhất định, tức chưa chắc) với hà tất (tại sao phải nhất định, tức cần gì). Dĩ nhiên dùng từ sai cũng chẳng chết ai, có điều nếu thấy người ta toan nổi giận lại can bằng câu Tiên sinh vị tất nổi giận, ai nghe xong mà không nổi giận thật luôn thì đúng là chuyện lạ.
1999 – 2007

Sunday 27 May 2012

ĐI TÌM ÂM ĐỌC CỔ CHO CHỮ “LƠ THƠ” - Trần Trọng Dương

Trần Trọng Dương Đi tìm âm đọc cổ cho chữ "lơ thơ" (Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.44-53)
Cập nhật lúc 08h20, ngày 05/12/2006
TRẦN TRỌNG DƯƠNG
ThS. Khoa Bảo tàng, ĐH Văn hóa Hà Nội
1. Trước các bản Nôm cổ, người phiên chú ứng xử với hai tư cách: trước tiên là người đi tìm chữ nghĩa, người giải mã; thứ hai - người đọc, người thưởng thức. Tư cách thứ hai dường như luôn là những trở lực đối với việc thực hiện phiên âm. Những câu chữ quen thuộc cứ bám riết vào đầu óc và bắt ta trượt theo. Vì vậy, ta luôn phải ý thức về sự bám riết ấy và cố gắng thoát ra khỏi nó bằng cách luôn nhìn văn bản với con mắt nghi ngờ và thực hiện đúng các thao tác phiên âm trong từng trường hợp cụ thể. Như thế, người phiên chú cũng giống như nhà làm thơ: luôn cố gắng thoát ra khỏi sự nhàm chán thông thường, luôn gắng tìm ra những cái mới lạ trong những điều tưởng như là đã quá cũ càng, dĩ nhiên, một cách hữu lý. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp chữ LƠ THƠ ở câu thơ 269 trong Truyện Kiều: Lơ thơ tơ liễu buông mành / Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Đây là một trong những câu thơ hay và nổi tiếng trong Kiều. Ngữ nghĩa khá trong sáng. Từ điển Truyện Kiều(1) ghi: “LƠ THƠ: Thưa thớt, không rậm. Td. Lơ thơ tơ liễu buông mành, 269.” [1, tr.271]. Từ điển của Đào Văn Tập cũng ghi: “lơ thơ: Thưa thớt: lơ thơ mấy cái râu; lơ thơ tơ liễu buông mành.” Mục từ này Đào Văn Tập tiếp thu từ cuốn Từ điển của Hội Khai trí tiến đức [2, tr. 317]. Cho đến các từ điển tiếng Việt sau này như từ điển Văn Tân, từ điển của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1994 cũng ghi vậy. Một đặc điểm dễ nhận thấy là mục từ “lơ thơ” trong các từ điển của thế kỷ XX đều ghi từ này chỉ có vẻn vẹn một nét nghĩa. Các bản quốc ngữ của Bùi Kỉ, Tản Đà, Bùi Khánh Diễn, Nguyễn Văn Hoàn, Đào Duy Anh…đều nhất loạt phiên là LƠ THƠ(2).
2. Thế nhưng, từ điển J.F.M. Génibrel ghi: “.n. LƠ…id. - thơ, Insouciant, adj. Sans souci blasé, adj. Nonchalamment, adj. Nonchalance, f.--lỉnh, id. - thơ tơ liễu buông mành, Les saules étendent leurs rameaux avec nonchalance.” [3, tr.415]. Tạm dịch là: “. n. LƠ…id. Lơ thơ, chẳng lo nghĩ đến cái gì, vô tư vô tâm, adj. Chán chường không bận tâm, adj. Hững hờ, Adv. Uể oải, f--lỉnh, id. Lơ thơ tơ liễu buông mành. Những cây dương liễu xỏa rộng những cành nhánh của nó một cách hững hờ = liễu hờ hững buông tơ.) [2]
Chúng tôi tò mò tra thử từ LƠ THƠ trong hai cuốn từ điển gần thời điểm sáng tác Truyện Kiều thì thấy: Từ điển của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu năm 1772-1773 ghi: “lơ thơ   : Sự vật bên ngoài chỉ đáng chê.” [4, tr.259]; từ điển Taberd xuất bản năm 1836 cũng ghi: “  lơ thơ, res specie tantùm contemneuda.” [5, tr.269]. Chúng tôi lại tra ngược lên A de Rhodes thì thấy: “Lơ thơ, lơ xơ, ốm yếu, lử thử, lừ thừ.” [8, tr.138, tr.223]. Nhưng từ LƠ THƠ của Nguyễn Du khó có thể mang nghĩa này. Bởi câu thơ đang tả cảnh lúc Kim Trọng trở lại chốn cũ, nơi chàng lần đầu gặp người đẹp. Hoặc có chăng cảnh ấy mang cả tâm trạng của con người thì dịch như Génibrel thì cũng hợp lý.
Như vậy, phải chăng có sự trùng hình, đồng âm giữa từ LƠ THƠ của Nguyễn Du với mục từ “lơ thơ” trong ba cuốn từ điển cổ nói trên ?
3. Từ những nghi ngờ trên, chúng tôi tiến hành khảo sát về tự dạng trong các bản Nôm cổ, kết quả như sau:

TT
Bản
Năm

Tự dạng

Phiên âm(3)
1 
Liễu Văn đường
1866
NKB, NQT: Lơ thơ.
2 
Nguyễn Hữu Lập
1870
 
NQT: Lơ thơ.
3 
Liễu Văn đường
1871
NQT: Lơ thơ.
4 
Duy Minh Thị
1872
閭 舒
NTC: Lơ thơ.
5 
Kiều Oánh Mậu
1902
TA: Lơ thơ.

Ta thấy rằng cách ghi Nôm khá thống nhất: chữ LƠ được ghi bằng ba tự dạng khác nhau, chữ THƠ được ghi bằng hai tự dạng. Một đặc điểm dễ nhận thấy là các từ dùng ghi âm là những từ có cách đọc Hán Việt khá giống nhau:
STT

Tự dạng

Âm Hán Việt
1.
La sơ
2.
Lư sơ
3.
閭 舒
Lư thư
Ba trường hợp có tất cả 5 tự dạng Nôm khác nhau, nhưng chỉ có 4 âm đọc Hán Việt, vì đều đọc là LƯ. Chúng tôi tiến hành đưa ra các khả năng âm đọc trên lý thuyết(4) cho 4 âm này (Xem các bảng 1, 2, 3, 4 trong phụ lục). Cụ thể như sau:
- Các khả năng đọc của âm LA = các biến âm của L x các biến âm của A = 10 x 8 = 80 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm SƠ = các biến âm của S x các biến âm của Ơ = 6 x 3 = 18 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm LƯ = các biến âm của L x các biến âm của Ư
= 10 x 4 = 40 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm THƯ = các biến âm của TH x các biến âm của Ư = 10 x 4 = 40 khả năng.
Như vậy, ta có các kết quả sau:
Tổng khả năng âm đọc của LA SƠ = LA x SƠ = 80 x 18 = 1440 khả năng. Tổng khả năng âm đọc của LƯ SƠ = LƯ x SƠ = 40 x 10 = 400 khả năng. Tổng khả năng âm đọc của LƯ THƯ = LƯ x THƯ = 40 x 40 = 1600 khả năng.
4. Để kiểm tra các cách đọc này có thể xuất hiện trên thực tế hay không, chúng tôi đã tiến hành tra các từ điển cổ. Kết quả, chúng tôi đã tìm được các âm đọc sau (một điều thú vị là các âm đọc này đều là các khả năng đọc trùng cho cả 3 trường hợp): xơ rơ, xơ xơ, sơ sơ, thưa thưa, thơ rơ, thơ thơ, lơ thơ, lơ sơ, lờ rờ. Chưa kể biến âm hiện đại: lưa thưa.
So với tự dạng trong các văn bản, ta có thể loại bỏ các trường hợp: xơ xơ, sơ sơ, thưa thưa, thơ thơ. Vì nếu đã có âm đọc giống nhau chúng khó có thể được ghi bằng hai tự dạng khác nhau. Xét về ngữ nghĩa trong văn bản, chúng ta cũng có thể loại các khả năng đọc như: lờ rờ, sơ sơ. Như vậy, chỉ còn các âm đọc: xơ rơ, thơ rơlơ thơ, ngoài ra có thể đọc theo biến âm khác là rơ thơ, tuy rằng từ này không được ghi trong các từ điển, nhưng nó vẫn có thể tồn tại trong thực tế.
Từ điển A. de. Rhodes ghi: “Cây thơ rơ: cây không có lá, trụi lá.” [8, tr.223]. Từ điển của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu cũng ghi: “ (5) Thơ rơ. Cây trụi lá.” [4, tr.470]. Từ điển Taberd cũng ghi: “thơ rơ, arbor foliis expoliata.” [5, tr.499].
Tra trong từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của thì thấy: “lơ thơ: xơ rơ, thưa thớt” [6, tr.573], “ xơ .n. Rã rời, tan tác, còn cái xác không, cái bã không, cái vỏ không. Xơ xơ: rách rã, tơi bời, tan tác. Xơ rơ (xác rác): thưa thớt còi cụt, trơ trọi, còn nhánh không, (cây cối). Bão bùng cành ngọn xơ rơ.” [6, tr.1198]; “ rơ,… xơ rơ: thưa thớt, xờ xạc, (cây cỏ)” [6, tr.874]; “Thơ rơ: xơ rơ thưa thớt, như cây mùa đông, nhánh lá xơ rơ. Thơ thơ. id.” [6, tr.1018].
Quả là có hiện tượng trùng hình, đồng âm ở đây! Đó là sự trùng hình giữa từ LƠ THƠ cổ từ đầu thế kỉ XIX trở về trước với từ LƠ THƠ (biến thể của từ THƠ RƠ cổ từ nửa sau thế kỉ XIX).
5. Còn một vấn đề nữa chúng tôi muốn nói đến trong trường hợp này là: với ba cách ghi trong ba bản Kiều , 盧 , 閭 舒 thì lại ngược vị trí với cách ghi trong từ điển của Bỉ Nhu và Taberd 冟, . Chúng tôi cho rằng sự đảo ngược vị trí của các chữ Nôm ở đây là biểu hiện (về mặt văn tự) của hiện tượng chuyển đổi trật tự âm tiết để tạo biến thể của từ trong các đơn vị từ song tiết. Các biến thể chủ yếu xuất hiện ở từ ghép đẳng lập và từ láy. Tuy nhiên, “các biến thể này chưa thể vượt qua giới hạn của nó để trở thành một từ đồng nghĩa; mà, trên bình diện ngữ âm, khả năng chuyển đổi trật tự âm tiết của từ sẽ dẫn đến kết quả: 1. hoặc tạo thành hai cặp song tiết vừa có sự đối lập về vần, lại vừa có sự đối lập bằng trắc, như: gang thép - thép gang, mỉa mai - mai mỉa…2. hoặc tạo thành hai cặp song tiết chỉ đơn thuần đối lập về vần (không đối lập bằng trắc, như thầm thì - thì thầm, mênh mông - mông mênh… Sự chuyển đổi âm tiết trong trường hợp này lại chịu ảnh hưởng của cơ chế láy” [11, tr.249]. Mục đích của việc đảo âm như vậy là nhằm thay đổi diện mạo ngữ âm trong việc tổ chức hoạt động lời nói cụ thể (nhất là trong thơ), bảo đảm tính hài hòa về âm điệu cho lời nói. Với cách đảo tự dạng Nôm của từ THƠ RƠ ta sẽ có một biến thể lâm thời của nó là RƠ THƠ. Ngay trong Truyện Kiều hiện tượng này cũng đã xảy ra trong câu 270: bên cầu tơ liễu bóng chiều tha la. Các bản Nguyễn Hữu Lập 1870, Kiều Oánh Mậu 1902 đều ghi là   / Ảnh minh họa, (LA THA(6)), các bản Liễu Văn đường 1871 và Duy Minh Thị ghi là [Ảnh minh họa] Ảnh minh họa / Ảnh minh họa, (THA LA/THA RA).
Đến đây ta có thể đi đến kết luận rằng:
(1). Trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII (1773) đầu thế kỉ XIX (1838) (nói rộng hơn là từ 1838 trở về trước), tiếng Việt đã từng tồn tại từ LƠ THƠ với nghĩa là “ốm yếu, lử thử. lừ thừ” hay “sự vật có bộ mặt đáng khinh” và được ghi bằng chữ Nôm ; đồng thời, từ THƠ RƠ (âm cổ của LƠ THƠ) được ghi bằng chữ Nôm với tự dạng là , , có dùng bộ khẩu báo hiệu đọc chệch âm để phân biệt (tại từ điển của Bỉ Nhu và Taberd). Các bản Nôm Liễu Văn đường 1866 và 1871 ghi với tự dạng là cũng nhằm mục đích ấy. Như thế, ta có thể khẳng định rằng cách viết với cách phiên Nôm là RƠ THƠ là cách đọc cổ của thời đại Nguyễn Du.
(2). Sang đến nửa sau thế kỷ XIX (sau 1838), từ LƠ THƠ với các nghĩa cổ “ốm yếu”, “sự vật có bộ mặt đáng khinh” đã biến mất khỏi vốn từ vựng tiếng Việt, và lúc này THƠ RƠ có sự biến dịch ở vỏ ngữ âm, điều này được ghi nhận trong các từ điển. (Xem phụ lục 5). “Sự biến dạng vỏ ngữ âm của từ (mặt biểu hiện của nó) có một giới hạn là từ đồng nghĩa. Đó là những trường hợp mặt biểu hiện biến đổi đi, nhưng biểu vật và nghĩa thì vẫn giữ nguyên” [Ju. Stepanov, chuyển dẫn theo 10].
(3). Trong tiếng Việt giai đoạn này cùng tồn tại các từ tương tự: THƠ RƠ, XƠ RƠ, LƠ THƠ. XƠ RƠ, LƠ THƠ là những từ do THƠ RƠ/ RƠ THƠ cổ phái sinh ra. Lúc này, cách viết được chuyển sang dùng phổ biến để ghi âm LƠ THƠ. (Nhưng từ điển Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi thì ba âm “thơ, rơ và xơ” đều cùng được ghi bởi chữ sơ  . Như vậy, THƠ RƠ nếu viết đầy đủ thì có tự dạng là , XƠ RƠ viết đầy đủ cũng có tự dạng là (7)). Theo như con số thống kê của chúng tôi, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của, chữ THƠ RƠ xuất hiện 1 lần, chữ LƠ THƠ xuất hiện 1 lần, chữ XƠ RƠ xuất hiện 7 lần trong đó 2 lần dùng để chú nghĩa cho THƠ RƠ, LƠ THƠ, 5 lần xuất hiện trong các ví dụ minh họa. Có thể lý giải hiện tượng này như sau: đến cuối thế kỉ XIX, THƠ RƠ đang lùi dần vào “hậu trường” để nhường chỗ cho các từ mới do nó phái sinh. Lúc này, từ XƠ RƠ là một từ phổ dụng; còn từ LƠ THƠ mới bắt đầu được hình thành, và nó mượn luôn hình thức chữ viết của từ LƠ THƠ cổ.
Và như thế, việc trùng hình đồng âm giữa hai chữ hoàn toàn không có tính tương tự, mối liên hệ về mặt ngữ âm lẫn tính tương tự, mối liên hệ về mặt nghĩa đã dẫn đến sự lầm lẫn ở trường hợp này.
Đến cuối thế kỉ XIX, như Génibrel vẫn còn ghi mục từ: “Thơ rơ, Dépouillé de ses feuilles” [3, tr.845], “Xơ rơ, Dépouillé, ad D’un arbre dépouillé de ses feuilles.” [3, tr.978]. Nhưng qua cách ghi Nôm chính xác trong các bản Kiều muộn thì có thể nhận định rằng: cuối thế kỉ XIX, LƠ THƠ đang dần được phổ dụng, nó thay thế các từ có âm đọc cổ hơn. Việc từ điển Génibrel còn ghi mấy mục từ trên là do từ điển này đã tiếp thu từ Huỳnh Tịnh Paulus Của. Tình hình cũng tương tự như vậy đối với các mục từ THƠ RƠ, XƠ RƠ trong từ điển G. Hue (1937). Sang đầu thế kỷ XX (1931), cuốn từ điển đầu tiên chỉ ghi LƠ THƠ mà không ghi âm đọc THƠ RƠ là từ điển của Hội Khai trí tiến đức. Kể từ đó, âm LƠ THƠ được định hình, từ LƠ THƠ phổ dụng từ đó đến nay. Từ điển này cũng ghi biến thể hiện đại của LƠ THƠ là LƯA THƯA, “lưa-thưa. Cũng có nghĩa như “lơ thơ”: sao mọc lưa- thưa.” [2, tr.325].
Đi theo hướng tái lập các âm đọc cổ cho Truyện Kiều qua phương pháp ngữ âm lịch sử là một hướng đi hết sức lý thú và hiệu quả. Và còn phải kể đến kiến thức về cơ sở từ vựng học (tra qua các bộ từ điển cổ). Với phương pháp thứ ba, chúng ta có thể đưa ra các giải pháp âm đọc cổ một cách khá chắc chắn kể cả khi có những bất lợi về văn tự và văn bản học, khi các văn bản Nôm cổ đã mất hoặc đã bị sửa chữa khá nhiều. Với nhận thức như vậy, chúng tôi thử tiến hành kiểm tra lại từ MỈA MAI trong câu “Con oanh học nói trên cành mỉa mai”.
Bá Đa Lộc Bỉ Nhu ghi: “Mỉa. Similis, e. Mỉa mai.Ảnh minh họa Mỉa dạng. Mỉa tợ. Mỉa mỉa. Mỉa chiệng. [4, tr.292]. Taberd tiếp thu: “Mỉa. Similis. Mỉa mai .Mỉa dạng. Mỉa tợ. Mỉa mỉa. Mỉa chiệng.” [5, tr.305]; Huỳnh Tịnh Paulus Của cũng ghi: “Mỉa .n. Mường tượng, gần giống, không khác gì bao nhiêu. Mỉa mai. Mỉa giống. Mỉa dạng. Mỉa Tợ. Mỉa chiệng. Id. [6, tr.646]. Đến Génibrel là “MỈA.1. Semblable à; À peu prés. Mỉa mai, id. Mỉa dạng, id. Mỉa tợ, id. Mỉa chiệng, id. Nói mỉa mai, Parler par figures. Ví mỉa mai, id. 2. Mỉa, (T), Publier quelque chose à la honte de qqn. Mỉa mai, id. Nói mai, id. Mai nhau, S’injurier mutuellement.” [3, tr.452] Tạm dịch là: “Mỉa.1. Giống nhau, tương tự. Mỉa mai, id. Mỉa dạng, id. Mỉa tợ, id. Mỉa chiệng, id. Nói bằng hình ảnh. Ví mỉa mai, id. 2. Mỉa, (T), nói về mọi điều với giọng chế nhạo. Mỉa mai, id. Nói mai, id. Mai nhau, xúc phạm lẫn nhau.”
Ta có thể đi đến kết luận bước đầu như sau: Từ Huỳnh Tịnh Paulus Của về trước MỈA MAI chỉ có một nghĩa là “giống như”; kể từ sau Génibrel mới có từ MỈA MAI nghĩa là “chê bai”, từ này đồng âm với từ MỈA MAI cổ, nhưng cũng kể từ sau Génibrel MỈA MAI cổ đã biến mất. Tuy nó có xuất hiện năm 1937 trong từ điển của G.Hue, nhưng việc đó chỉ chứng minh một điều là G.Hue đã kế thừa mục từ này của Génibrel.
Câu hỏi được đặt ra: để diễn đạt ý “mỉa mai” trong câu thơ trên, Nguyễn Du đã dùng từ gì ? Ắt đó phải là một từ có âm đọc gần giống với MỈA MAI. Nhưng trước tiên ta thử khảo sát về tự dạng của từ này trong các bản Nôm.

STT
Bản
Năm

Tự dạng

Phiên âm
1.
Liễu Văn đường
1866
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
NKB, NQT: Mỉa mai
2.
Nguyễn Hữu Lập
1870
Ảnh minh họa 枚
NQT: Mỉa mai
3.
Liễu Văn đường
1871
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
NQT: Mỉa mai
4.
Duy Minh Thị
1872
Ảnh minh họa 枚
NTC: Mỉa mai
5.
Kiều Oánh Mậu
1902
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
TA: Mỉa mai

 Nhất loạt các tự dạng Nôm đều ghi thống nhất về thanh phù, kèm theo bộ khẩu. Chính bộ khẩu là yếu tố gây nhiễu ở đây. Như ta biết, trong chữ Nôm, chữ “khẩu” tồn tại với hai tư cách: tư cách thứ nhất là bộ thủ dùng để chỉnh trường nghĩa, tư cách thứ hai là một kí hiệu báo hiệu đọc chệch âm. Nếu là “nói mỉa”, dùng bộ khẩu thì không sai. Nhưng đây, chữ khẩu tồn tại với tư cách thứ hai: bộ khẩu báo hiệu đọc chệch; mặt khác, về mặt hình thức, nó dùng để phân biệt với tự dạng của chữ mỉa mai (, ) nghĩa là “giống như”.
Vậy âm đọc chệch ở đây là gì? Đó là từ BẺ BAI mà chúng ta rất hay gặp trong các văn bản Nôm: “bẻ bai. Đg. Vừa chê bai vừa bắt bẻ. Làm thì chẳng thấy mặt nào, Ăn thì khối kẻ xen vào bẻ bai (cd).” [7, tr.13]. Bá Đa Lộc Bỉ Nhu ghi: “Ảnh minh họa Bẻ bai. Chê trách.” [4, tr.36] Taberd ghi: “Ảnh minh họa Bẻ bai, vafer.” [5, tr.21]. Tự dạng Nôm ở hai từ điển trên càng chứng tỏ rằng: có sự phân biệt về hình thức cũng như âm đọc và ý nghĩa giữa BẺ BAI và MỈA MAI. Câu 2851 cũng có từ này: “Bẻ bai rầu rĩ tiếng tơ, Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm.” Từ điển Truyện Kiều ghi: “Bẽ bài. Gốc ở từ Khơ me bekbuôi là châm chọc, không phải từ láy âm. Châm chọc làm cho tủi thẹn. td. Bẽ bài rầu rĩ tiếng tơ.” Các bản Nôm đều ghi với tự dạng là Ảnh minh họa Ảnh minh họa, nên các bản phiên âm đều phiên là BẺ BAI.
Tóm lại, với cách đi như trên: dùng phương pháp tổng hợp (ngữ âm lịch sử, văn tự học, từ vựng lịch sử), chúng tôi tạm đưa ra cách đọc cổ cho hai trường hợp chữ Nôm trong câu 269 như sau: RƠ THƠ(8) tơ liễu buông mành; Con oanh học nói trên cành BẺ BAI. Cũng cần nhắc lại rằng, cách đọc “lơ thơ”, “mỉa mai” là cách đọc phổ biến từ nửa sau thế kỷ XIX, đọc thế tất nhiên không phải là sai xét về mặt ngữ nghĩa. Nhưng xét từ phương diện ngữ âm lịch sử và tự dạng thì chúng ta nên đọc với các âm RƠ THƠ và BẺ BAI thì hợp lý hơn, đây đều là các cách đọc được ghi nhận trong các từ điển ra đời thuộc tiếng Việt trung đại. Trên đây là những tìm hiểu của chúng tôi về trường hợp ngôn ngữ khá nhạy cảm này. Rất mong được các nhà nghiên cứu, quan tâm phủ chính.
Phụ lục: 1. Bảng thống kê khả năng các âm đọc của LA

L/ A

i
e
ưa
ơ
a
ua
ai
ui
S
Si
Se
Sưa
Sa
Sua
Sai
Sui
X
Xi
Xe
Xưa
Xa
Xua
Xai
Xui
T
Ti
Te
Tưa
Ta
Tua
Tai
Tui
Tr
Tri
Tre
Trưa
Trơ
Tra
Trua
Trai
Trui
Ch
Chi
Che
Chưa
Chơ
Cha
Chua
Chai
Chui
Gi
Gi
Gie
Giưa
Giơ
Gia
Giua
Giai
Giui
D
Di
De
Dưa
Da
Dua
Dai
Dui
R
Ri
Re
Rưa
Ra
Rua
Rai
Rui
Nh
Nhi
Nhe
Nhưa
Nhơ
Nha
Nhua
Nhai
Nhui
L
Li
Le
Lưa
La
Lua
Lai
Lui
2. Bảng thống kê các khả năng đọc của SƠ
S/Ơ
ư
ưa
ơ
S
Sưa
X
Xưa
Th
Thư
Thưa
Thơ
Ch
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Giư
Giưa
Giơ
R
Rưa
3. Bảng thống kê các khả năng đọc của LƯ và LƯ

L/ư

e
ư
ưa
ơ
S
Se
Sưa
X
Xe
Xưa
T
Te
Tưa
Tr
Tre
Trư
Trưa
Trơ
Ch
Che
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Gie
Giư
Giưa
Giơ
D
De
Dưa
R
Re
Rưa
Nh
Nhe
Như
Nhưa
Nhơ
L
Le
Lưa
4. Bảng thống kê các khả năng đọc của THƯ 舒

Th/ ư

e
ư
ưa
ơ
V
Ve
Vưa
H
He
Hưa
S
Se
Sưa
X
Xe
Xưa
Th
The
Thư
Thưa
Thơ
T
Te
Tưa
Ch
Che
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Gie
Giư
Giưa
Giơ
D
De
Dưa
Đ
Đe
Đư
Đưa
Đơ

5. Sự tồn tại và diễn biến của LƠ THƠ, THƠ RƠ, MỈA MAI, BẺ BAI trong một số từ điển.

Từ điển

Năm

LƠ THƠ

THƠ RƠ

MỈA MAI

BẺ BAI

De Rhodes
1651
Lơ thơ, lơ xơ. ốm yếu, lử thử, lừ thừ (?) [138, 223]
Thơ rơ. Cây không có lá, trụi lá [223]


Bỉ Nhu
1772- 1773
Lơ thơ. Sự vật bên ngoài chỉ đáng chê. [259] Lơ láo [ 259]
Thơ rơ. Cây trụi lá. [470]
Mỉa mai. giống như [292]
Bẻ bai. Chê trách [36]
Taberd
1838
Lơ thơ. res specie tantùm contemneuda [269]. Lơ láo [269]
Thơ rơ. [499]
Miả mai. giống như [646]
Bẻ bai. Vafer [21]
Huỳnh Tịnh Paulus Của
1895
1896
Lơ láo. [546, 573] Xơ lơ xáo láo [573]
Xơ rơ. Thơ rơ. Lơ thơ. (cây cối) [573, 874, 1018, 1198]
Mỉa mai. giống nhau [452]
Bẻ bai. Chê bai, nhiều tiếng nói [44]
Génibrel
1898
Lơ láo. Insolent, négligent, dégouté [415]
Lơ thơ. hờ hững [415], Xơ rơ (cỏ cây) [978], Thơ rơ [845]
Mỉa mai. giống [452]
Bẻ bai [30]
Mỉa mai [452]
Khai trí
tiến đức
1931
Lơ láo [317] Lua láu [ 320]
Lơ thơ. [317]. Lưa thưa. [325]. Xơ rơ. Trơ trụi (làng) [658] Thơi rơi [576]
V
Bẻ bai. Chê bai [42]. Mỉa mai. Nói cạnh như mỉa [342]
Gustave Hue
1937
Lua láu. Inconvennant, incorrect [524]
Thơ rơ [1016]
Mỉa mai. giống như [566]
Mỉa mai. Nói mỉa mai [566]. Bẻ bai. [37]
Thanh Nghị
1951
Lơ láo [368]
Lơ thơ [762]. Lưa thưa [776], xơ rơ.(làng) [1479]

Bẻ bai. Chê bai [83]. Mỉa mai [817]
Đào Văn Tập
1951
Lơ láo [368]
Lơ thơ. [368]
Lưa thưa [374]
Xơ rơ. Trơ trụi (làng) [718]

Bẻ bai [44], Mỉa mai. [392]
Viện Ngôn Ngữ học
1994
Lơ láo [564]
Lơ thơ. Ít và rất thưa [564]. Lưa thưa. [576]. Xơ rơ (ph.) [1118]

Bẻ bai [52]
Mỉa mai [609]
TĐ từ láy (Viện Ngôn ngữ học)
1995
Xơ lơ. Lơ láo [575]. Xơ lơ xáo láo.(Ph), Lơ láo [304], Láo lơ [229]
Lơ thơ [305]. Xơ rơ .[575], Lưa thưa [326] Lua tua [313]. Thơ thớt [514]

Mai mỉa [331] Mỉa mai [339] Bẻ bai [38]

Chú thích:
(1) Xin xem: Nguyễn Du, Kim Vân Kiều (Đoạn trường tân thanh), Bùi Khánh Diễn chú thích (lần 3), Nxb. Sống mới, Sài Gòn, 1960, tr.50; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Bùi Kỷ hiệu khảo, H. 1960 tr.24; Nguyễn Du, Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải, Nxb. Hương Sơn, 6 Đại lộ Gia Long, H. 1952 (in lần 1, Tân dân. H. 1940), tr.31; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn chủ biên, Nxb. Văn học. 1965 (tr.30), Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa, Nxb. KHXH, H. 1987, tr.271 & tr.530; Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh - Truyện Kiều, đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, Thế Anh phiên âm & khảo dị, Nxb. Văn học.1999, tr.41; Nguyễn Du, Truyện Kiều, bản Nôm cổ nhất: Liễu Văn đường 1871,
            Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, Tp. Hồ Chí Minh. 2002 tr.56; Nguyễn Tài Cẩn, Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia H. 2002 tr.90; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản Kinh đời Tự Đức 1870, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, 2003 tr.88; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản cổ nhất khắc in năm 1866 - Liễu Văn đường, Tự Đức thập cửu niên, Nguyễn Khắc Bảo & Nguyễn Trí Sơn phiên âm và khảo đính 10 bản Nôm cổ, Nxb. Nghệ An, Nghệ An 2004, tr.53. Paul Schneider, Dictionnaire historique des ideogrammes Vietnamiens, Domaine Carlone- 98, boulevard Edouard Heriot- BP 209- 06204 NICE Cedex 3 (France) trang 436 ghi: lơ / LƠ. LƠ THƠ, LƯA THƯA. Clairsemé, rare. HD 20I1. Bóng nảy lơ thơ chiều cảnh muộn (Les fleurs), sépanouissent claisemées, dans un paysage de crépusule.” LƠ THƠ từ thế kỉ XVII về trước lại mang nghĩa khác. Từ điển Việt - Bồ - La của de Rhodes ghi: “Lơ thơ: ốm yếu, lử thử, lừ thừ.” [8, tr.223], “Lơ thơ, lơ xơ: ốm yếu.” [8, tr.138]. Câu thơ này tả cây sen cuối hè lúc đã tàn, nhánh lá xơ xác trong chiều hôm. (Xem Hồng Đức quốc âm thi tập.AB.292). Câu này nên phiên là: bóng nấy rơ thơ chầu cảnh muộn, mình hằng đeo đẳng bén mùi hương.
(2) “Lơ thơ” với nét nghĩa là “hờ hững” như từ điển của Génibrel là một nét nghĩa hơi khác trong quá trình biến đổi ngữ nghĩa của từ này, cần phải tìm hiểu thêm. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi tạm chưa đề cập đến.
(3) NQT: Nguyễn Quảng Tuân, NKB: Nguyễn Khắc Bảo, NTC: Nguyễn Tài Cẩn, TA: Thế Anh; xin xem: Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh - Truyện Kiều, đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, Thế Anh phiên âm & khảo dị, Nxb. Văn học, 1999, tr.41; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Bản Nôm cổ nhất: Liễu Văn đường 1871, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, Tp.Hồ Chí Minh, 2002 tr.56; Nguyễn Tài Cẩn: Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2002, tr.90; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản Kinh đời Tự Đức 1870, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học. 2003, tr.88; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản cổ nhất khắc in năm 1866 - Liễu Văn đường, Tự Đức thập cửu niên, Nguyễn Khắc Bảo & Nguyễn Trí Sơn phiên âm và khảo đính 10 bản Nôm cổ, Nxb.Nghệ An, Nghệ An 2004, tr.53.
(4) Các tự dạng Nôm của Béhaine chúng tôi lấy từ nguyên bản chép tay, phần dịch trích theo bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên.
(5) Xin xem Nguyễn Tài Cẩn, Thử tìm cách đọc Nôm cho hai chữ SONG VIẾT, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985 [tr.181-210], Khảo sát quá trình diễn biến của chữ Nôm thông qua mô hình ngữ âm của chữ (Nguyễn Tài Cẩn, N.V. Xtankevich), nt, [tr.138-tr155].
(6) GS. Nguyễn Tài Cẩn cho rằng bản này khắc ngược thành LA THA. Nhưng với cách ghi tương tự như ở bản Nguyễn Hữu Lập thì chúng tôi cho rằng LA THA là một biến thể của THA LA mà thôi. Nguyễn Quảng Tuân, Thế Anh đều phiên theo mặt chữ là LA THA, nhưng không chú thích gì cả. Trong các từ điển (Génibrel và G.Hue) chỉ thấy ghi chính thể là THA LA mà không thấy ghi biến thể của nó là LA THA. Tuy nhiên, theo khảo sát sơ bộ của chúng tôi, các từ điển cổ không thấy ghi nhận hiện tượng này.
(7) Việc hai âm tiết khác nhau (tuy là gần âm) nằm trong cùng một từ song tiết lại được ghi bằng một mã chữ Nôm là điều không xảy ra trong thực tế. Thường thì, chỉ có trường hợp từ song tiết là từ láy âm mới được ghi như vậy, ví dụ như cạy cạy được ghi bằng , sớm sớm được ghi bằng  . Huỳnh Tịnh Paulus Của chỉ ghi mã chữ Nôm cho mục tự, còn các mục từ (từ song tiết) ghi ở dưới thì lại không có chữ Nôm, nên mới có hiện tượng này.
(8) Ngữ liệu bổ sung: trong cuốn Thiền tông khóa hư ngữ lục do Huệ Tĩnh giải nghĩa (thế kỉ XVII, trước sau 1631?), kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm AB.268, từ THƠ RƠ xuất hiện hai lần, cả hai lần đều được dùng để dịch từ y hy trong nguyên văn chữ Hán: Thơ rơ mặt nước, sang rỡ rỡ đóm nháng  疎 闾 �� 渃 浪 焒 焒 ? 盎 .55a4 [nv. , nghĩa là: lơ thơ mặt nước mấy con đom đóm đang bay qua]; Thơ rơ mà rừng trúc rây vàng, thấp thoáng trong sân hoa mà chơi ngọc 舒 疎 麻 棱 竹 篩 黃, 濕 光 中 �� 花 麻 制 玉. 62a5 [依 稀 而 林 竹 篩 金, 隱 暯 而 花 庭 弄 玉]. Tự dạng Nôm ở hai ví dụ này cũng là những cứ liệu hết sức thú vị, bổ sung cho nhận định ban đầu của chúng tôi về cách ghi âm của chữ Nôm cho từ THƠ RƠ.
Từ điển tra cứu & tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa, Nxb. KHXH, H. 1987.
2. Hội Khai trí Tiến đức: Việt Nam tự điển, HANOI Imprimerie Trung-Bac Tan-Van. Mặc Lâm xuất bản.1931.
3. J.F.M. Génibrel: Dictionnaire Annamite - Français (大 越 國 音 漢 字 法 釋 集 成), SaiGon Imprimerie de la mission à Tân Định.1898.
4. Pierre Pegneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu): Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1772 (Tự vị An nam La tinh), Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, Nxb. Trẻ, 1999.
5. L.J. Taberd: Dictionarium Anamitico- Latinum (南 越 洋 合 字 彙 Nam Việt Dương hiệp tự vị), //.1838.
6. Huỳnh Tịnh Paulus Của: “大 南 國 音 字 彙 Đại Nam quấc âm tự vị, SaiGon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’Adran, 4. 1895-1896; Nxb.Trẻ. 1998 (theo ấn bản 1895-1896).
7. Vương Lộc: Từ điển từ cổ, Trung tâm Từ điển học & Nxb. Đà Nẵng. Hà Nội -Đà Nẵng 1999.
8. A. de. Rhodes: Từ điển Việt Bồ La, Thanh Lãng dịch, Nxb. KHXH, H. 1994.
9. Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1985.
10. Vũ Đức Nghiệu: Những từ có liên hệ với nhau về nghĩa và lịch sử âm đầu trong tiếng Việt (Luận án PTS. KH. Ngữ văn), H. 1995.
11. Nguyễn Thúy Khanh, Đào Thản: Khả năng chuyển đổi trật tự âm tiết để tạo biến thể của từ trong các đơn vị từ vựng song tiết, trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, H. 1986./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.44-53)