Tuesday 31 July 2012

Đọc Chuyện Đông Chuyện Tây 2 (Vương Trung Hiếu)

Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây (P.2)
Vương Trung Hiếu
KTTN 110, ngày 01-6-1993

Tại sao tiếng Pháp đã có Japon để chỉ nước Nhật Bản mà còn lại có tên là Nippon? Hai tên này có gì khác nhau?

AC: Tiếng Pháp Japon cùng với tiếng Anh Japan, là phiên âm theo tiếng Hán giọng Bắc Kinh rì ben (âm Hán Việt là Nhật Bản) của hai chữ 日本. Còn Nippon là phiên âm thẳng từ tiếng Nhật; chữ Nhật, viết theo lối Romaji (La mã tự) cũng là Nippon. Đây là tên mà chính người Nhật dùng để gọi nước mình.

VTH: Có tài liệu cho rằng Japon trong tiếng Pháp là chữ phiên âm từ hai chữ 日本, đọc theo tiếng Quan Thoại ngày nay là rìběn (1). Nhưng trên thực tế, trong tiếng Quan Thoại, hai chữ 日本 được đọc là “rí bèn”, nghĩa là là phát âm từ  với phụ âm đầu là chứ không phải là j. Vì thế, chúng tôi không nghĩ rằng Japon là chữ phiên âm từ hai chữ 日本 đọc theo tiếng Quan Thoại hay giọng Bắc Kinh theo cách diễn đạt của ông An Chi. Theo chúng tôi, chữ Japon và Japan có khả năng bắt nguồn từ tiếng Malaysia hay tiếng Indonesia. Thời xưa, cái từ Japan đến phương Tây bằng con đường buôn bán gọi là Nanban bōeki (?), người Trung Quốc gọi là Nam man mậu dịch 南蛮貿易. Trong tiếng Malaysia và Indonesia, Japan được gọi là Jepang (người Nhật, nước Nhật). Đây là chữ vay mượn từ tiếng Trung Quốc gọi là Jih'pen'kuo (2), có nghĩa là “Vùng đất mặt trời mọc”(3). Cái từ Jepang được những nhà buôn Bồ Đào Nha ở Malacca sử dụng trong thế kỷ 16. Họ đã mang chữ này đến châu Âu (4). Từ Jepang được ghi chép lần đầu trong tiếng Anh vào năm 1565 và được đánh vần làGiapan (5).  Người Anh đã phiên âm từ này thành Japan, còn người Pháp phiên âm thành Japon.

Hai cái tên tiếng Nhật Nippon và Nihon đều được viết bằng bằng cách sử dụng chữ kanji (6). Cái tên Nippon được sử dụng phần lớn trong những mục đích có tính nghi thức, kể cả trong đồng yên Nhật, tem thư và những sự kiện thể thao quốc tế. Còn Nihon là thuật ngữ được dùng trong cách nói hàng ngày ở Nhật. Người Nhật tự cho rằng họ là Nihonjin (Nhật Bản nhân 日本人), còn ngôn ngữ của họ là Nihongo (Nhật Bản ngữ 日本語). Cả hai từ Nippon và Nihon đều có nghĩa là “gốc mặt trời” và thường được dịch là “Đất nước mặt trời mọc”. Cách gọi này có nguồn gốc từ những sứ thần Nhật Bản được phái sang làm việc tại Trung Hoa thời xưa, dùng để nhấn mạnh vị thế phương Đông của họ, đối trọng với triều đình Trung Hoa. Hiện nay, cách gọi chính thức nước Nhật là Nippon-koku hay Nihon-koku (Nhật Bản quốc 日本国).

*
(1): Dumaine, David.Petites histoires des noms de pays. Paris : Flammarion, 2006, p. 56-57.
(2) : C. R. Boxer, The Christian Century In Japan 1549–1650, University of California Press, 1951, pages 1 and 14.
(3): Donald Frederick Lach, Asia in the making of Europe: The century of discovery , University of Chicago Press, 1994, trang 652).
(4) C. R. Boxer, The Christian Century In Japan 1549–1650, University of California Press, 1951p. 11, 28—36, 49—51.
(5): Mancall, Peter C. (2006). "Of the Ilande of Giapan, 1565". Travel narratives from the age of discovery: an anthology. Oxford University Press. pp. 156–157.
(5): Kanji (Hán tự 漢字) là những chữ Trung Quốc được sử dụng trong trong hệ thống chữ viết của Nhật Bản cùng với bảng ký hiệu âm tiết hiragana (ひらがな平仮名), katakana (カタカナ片仮名), chữ số Indo Arabic và việc sử dụng thỉnh thoảng bản chữ cái Latin  (gọi là "rōmaji").

KTTN 110, ngày 01-6-1993

Xin cho biết xuất xứ của mấy tiếng mã tà (lính cảnh sát thời trước).

ACMã tà là do phiên âm từ tiếng Mã Lai manta-mata có nghĩa là cảnh sát. Hình thức gốc ban đầu là ma tà, theo ghi nhận của Huình-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quốc âm tự vị. Về sau, ma đã được phát âm thành mã. Xin nhớ rằng tiếng Việt, nhất là địa phương Nam Bộ, có nhiều từ gốc Mã Lai. Thêm một ví dụ: xà ích, người đánh xe ngựa, là do tiếng Mã Laisaïs.

VTH: Manta-mata không có nghĩa là “cảnh sát” trong tiếng Mã Lai (Malaysia), “mata-mata” mới có nghĩa là “cảnh sát”. Tuy nhiên, đây là từ xưa, hiếm khi được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày ở Malaysia, giống như từ “mã tà” trong tiếng Việt vậy. Hiện nay, trong tiếng Malaysia, khi nói chung về cảnh sát, người ta sử dụng từ “polis” (còn viết là “polisi”) để thay thế cho từ mata-mata. Những từ có liên quan tới cảnh sát đều ghi là “polis” chứ không phải là “mata-mata”. Thí dụ: polis = cảnh sát, nam cảnh sát, nhân viên cảnh sát; anggota polis = nam cảnh sát; polis wanita = nữ cảnh sát; pegawai polis = nhân viên cảnh sát; mobil polisi = xe cảnh sát; balai polis = đồn cảnh sát…

Theo chúng tôi, người Malaysia đã vay mượn nguyên xi từ mata-mata trong tiếng Indonesia nhưng đã biến đổi nghĩa đôi chút, bởi vì trong tiếng Indonesia, mata-mata có nghĩa là “mật thám, thám tử”. Xét về hình thức và nghĩa của từ, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng người Việt đã mượn chữ mata-mata để phiên âm thành “mã tà”. Tuy nhiên, chúng tôi thắc mắc là, tiếng Malaysia và Indonesia có vai trò gì trong lịch sử nước ta, tại sao để người Việt lại dựa vào chữ này để nói về cảnh sát thời Pháp thuộc? Nếu cho rằng người Malaysia và Indonesia gia nhập lực lượng lính Lê Dương Pháp (Légion étrangère) rồi đến nước ta nên người Việt đã mượn từ mata-mata cũng không phải, vì trong danh sách các quốc gia tham gia Lê Dương Pháp trong giai đoạn 1831-1961 (*) có tổng cộng khoảng 600.000 người, những người lính này gọi là légionnaire, nhưng không hề có người Malaysia và Indonesia. Mặt khác, mata-mata có 4 âm tiết, trong khi đó mã tà chỉ có 2 âm tiết, liệu mã tà có khả năng phiên âm từ chữ mata-mata hay không?. Có quan điểm cho rằng “mã tà” là tiếng phiên âm từ chữ “matraque” (dùi cui) trong tiếng Pháp. Do cảnh sát thường sử dụng dùi cui nên người ta mượn chữ matraque để phiên âm thành “ma tà” rồi thành “mã tà”. Cụm từ “bọn mã tà” có thể hiểu là “bọn sử dụng dùi cui”, tức cảnh sát. Xem ra giả  thuyết này khá hợp lý, vì “mã tà” có  hai âm tiết, phiên âm từ tiếng “matraque” cũng có hai âm tiết. Nhìn chung, hiện tượng tiếng nước ngoài được phiên âm thành tiếng Việt với số lượng âm tiết bằng nhau là khá phổ biến. Thí dụ: ô tô, cà phê, mít tinh hay cao su…

Ông An chi cho rằng người Việt đã mượn từ saïs trong tiếng Mã Lai, đọc thành “xà ích” để chỉ người đánh xe ngựa. Nhưng rất tiếc chúng tôi không tìm thấy từ saïs trong tiếng Mã Lai. Chỉ có một từ rất giống là sais, từ này có nghĩa là “người đánh xe ngựa” trong tiếng Malaysia và cả trong tiếng Indonesia. Vậy, chính xác thì “xà ích” có nguồn gốc từ tiếng nước nào? Theo chúng tôi, từ sais trong tiếng Malaysia cũng là từ vay mượn từ tiếng Indonesia. Bởi vì hiện nay người Malaysia thường sử dụng từ kusir để chỉ người đánh xe ngựa chứ hiếm khi sử dụng từ sais, ngược lại người Indonesia sử dụng từ sais thường xuyên hơn, cho dù họ vẫn có từ kusirvới nghĩa là “người đánh xe ngựa” như trong tiếng Malaysia.

*
(*): Danh sách Lê Dương Pháp giai đoạn 1831-1961: Đức (210.000 người), Ý (60.000), Bỉ (50.000), Pháp (50.000), Tây Ban Nha (40.000), Thụy S ĩ (30.000), Ba Lan (10.000), Nga (6.000), Áo (5.000), Hungary (4.000), Hy Lạp (4.000), Tiệp Khắc (4.000), Hà Lan (3.000), Nam Tư (3.000), Luxembourg (2.300), Đảo Anh (1.500), Romania (1.500), Bồ Đào Nha (1.300), Đan Mạch (1.000), Thổ Nhĩ Kỳ (1.000), Hoa Kỳ (700), Bulgaria (500), Phần Lan (500), Thụy Điển (500), Algérie (500), Việt Nam (200), Maroc (200), Tunisia (200), Argentina (100), Brasil (100), Nhật Bản (100), Canada (100), Litva (100), Latvia (100), Na Uy (100), Ai Cập (100). (theo Wikipedia).

KTTN 111, ngày 15-6-1993

Tại sao Phi-líp-pin (Philippines) là một nước Đông Nam Á mà lại có một tên rất Tây? Người Phi-líp-pin nói tiếng gì?

AC: Nguyên Phi-líp-pin là thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1565, dưới triều vua Phi-líp đệ nhị. Để đánh dấu rằng đây là đất đai họ đã chiếm được dưới triều của Phi-líp (đệ nhị), tiếng Tây Ban Nha là Felipe, người Tây Ban Nha đã gọi đó là Islas Filipinas, nói tắt thành Filipinas. Đây là số nhiều củaFilipina, giống cái của Filipino, nghĩa là thuộc về Felipe. Islas Filipinas là các hòn đảo của Phi-líp, người Pháp dịch thành Îles philippines, rồi nói tắt thành Philippines.

Người Phi-líp-pin nói tiếng Tagal (cũng gọi là Tagalog) là thứ tiếng được chọn làm ngôn ngữ quốc gia. Đây là một ngôn ngữ thuộc họ Mã Lai – Đa đảo (malayo-polynésien). Giành được độc lập năm 1946 từ tay Mỹ (Tây Ban Nha đã nhượng đảo quốc này cho Mỹ từ năm 1898), người Phi-líp-pin vẫn dựa theo tiếng Tây Ban Nha là Filipinas mà gọi tên nước mình làPilipinas (tiếng Tagal không có âm f nên đã thay thế âm này bằng p).

VTH: Trong bài trên có hai chi tiết cần xem lại: thứ nhất, cái tên Philippines không phải do người Pháp dịch từ cụm từ “Islas Filipinas” trong tiếng Tây Ban Nha rồi nói tắt thành Philippines. Thứ hai, người Philippines không chỉ nói tiếng Tagalog mà còn sử dụng những ngôn ngữ khác.

Trong thế kỷ 16, khi đến quần đảo Philippines ngày nay, nhà thám hiểm Tây Ban Nha Ruy López de Villalobos  đã sử dụng tên Filipinas, ban đầu chỉ dùng để gọi tên hai đảo Leyte và Samar (nay là hai tỉnh của Philippines). Sau đó quần đảo này còn được gọi bằng nhiều cái tên khác, thí dụ như Islas del Poniente (Quần đảo phương Tây), Nueva Castilla và Quần đảo San Lázaro. Cuối cùng, cái tên Las Islas Filipinas được dùng để chỉ toàn bộ quần đảo này. Đến giai đoạn Cách mạng Philippine (1896–1898) (1), Hội nghị Malolos (2) công bố việc thành lập nước República Filipina (Cộng Hòa Philippine). Từ giai đoạn chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ (1898) và chiến tranh Philippine – Mỹ (1899–1902) cho tới giai đoạn Commonwealth (1935-1946) (3), chính quyền thực dân Mỹ gọi đất nước này là Quần đảo Philippine. Đây là cái tên do người Mỹ dịch từ tên Las Islas Filipinas (tiếng Tây Ban Nha). Trong giai đoạn Mỹ chiếm đóng, cái tên Philippines bắt đầu xuất hiện và kể từ đó nó trở thành tên phổ biến của đất nước này (4). Đến khi độc lập (4 tháng 7 năm 1946), đất nước này có tên chính thức là Cộng Hòa Philippines (tiếng Filipino: Republika ng Pilipinas).

Theo Wikipedia, ở Philippines người ta sử dụng trên 170 ngôn ngữ, hầu hết thuộc nhánh phía Tây của nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian, thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Năm 1987 Hiến pháp Philippines qui định ngôn ngữ chính thức là tiếng Filipino (5) và tiếng Anh. Trên thực tế, có 12 ngôn ngữ khác cũng khá phổ biến, đó là  “Tagalog, Cebuano, Ilokano, Hiligaynon, Waray-Waray, Bikol, Kapampangan, Pangasinan, Kinaray-a, Maranao, Maguindanao và Tausug (phổ biến nhất là tiếng Tagalog). Từ năm 1973, tiếng Tây Ban Nha  không còn được coi là ngôn ngữ chính thức ở Philippines. Trong những thập niên gần đây, người dân Philippines không còn sử dụng tiếng này trong cuộc sống hàng ngày.

*
(1): Người Tây Ban Nha còn gọi cuộc cách mạng này là “Chiến tranh Tagalog”, tức cuộc chiến có vũ trang giữa nhân dân Philippines và thực dân Tây Ban Nha. Kết quả là quần đảo Philippine tách khỏi nhà cầm quyền thực dân Tây Ban Nha. Trong giai đoạn này chữ Philippine chưa có thêm chữ cái s.
(2): Hội nghị của nước Cộng Hòa Philippine đầu tiên do chính quyền cách mạng khởi nghĩa tổ chức, phác thảo Hiếp pháp Malolos. 
(3): Commonwealth of the Philippines là tiền thân của nước Cộng Hòa Philippines từ năm 1935 đến 1946, trong giai đoạn ấy Philippines đã là thuộc địa của Mỹ.
(4): Quezon, Manuel, III. (2005-03-28). "The Philippines are or is?". Manuel L. Quezon III: The Daily Dose.
(5): Filipino là một ngôn ngữ dựa theo tiếng Tagalog, một thứ tiếng được xem là  tiếng mẹ đẻ của một phần ba dân số Philippines. Nhất là xung quanh thủ đô Manila , nhưng hầu như toàn bộ dân Philippines cũng có thể sử dụng ngôn ngữ này (Wikipedia).

KTTN 113, 7-1993

Tại sao biểu tượng SEA Games XVII 1993 tổ chức tại Singapore lại là con sư tử?

AC: Vì SEA Games lần này được tổ chức tại Singapore mà Singapore có nghĩa là Thành phố Sư tử. Singapore (tiếng Anh) và Singapour (tiếng Pháp) là phiên âm từ tiếng Mã Lai Singapura, vẫn được xem là bắt nguồn từ tiếng Sanskrit Simhapura, trong đó Simha là sư tử, pura là thành phố (trong tiếng Mã Lai hiện nay singa là sư tử còn thành phố thì lại là puri).



VTH: Chúng tôi dẫn chứng một quan điểm khác. Theo Wikipedia, từSingapura trong tiếng Malaysia có nguồn gốc từ tiếng Tamil (தமிழ்) (1), trong đó singa xuất phát từ chữ singam (சிங்கம்), một từ có nghĩa là “sư tử”;  còn Oor (ஊர்) trong tiếng Tamil có nghĩa là “thành phố”. Oor là một tiếp vĩ ngữ phổ biến trong nhiều địa danh ở Ấn Độ. Sở dĩ người ta đặt tên này là vì trong bản đồ, nước Singapore có hình dạng giống đầu sư tử (2). Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy sư tử chưa bao giờ sinh sống ở Singapore, ngay cả sư tử châu Á cũng vậy, một loài còn được còn gọi là sư tử Ấn Độ hay sư tử Ba Tư, có tên khoa học là Panthera leo persica. Vào thế kỷ 13, tại Singapore, người ta đã từng thấy một thú lớn 4 chân trông rất giống con cọp, có khả năng đó là cọp Malayan (tên khoa học: Panthera tigris jacksoni) (3).

Theo lịch sử, Singapore còn có một số tên khác trong quá khứ. Vào thế kỷ thứ 2, nhà thiên văn học Hy Lạp Claudius Ptolemaeus đã từng sống ở một nơi gọi là Sabana, khu vực mà ngày nay gọi là Singgapore. Về sau người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến Singapore sinh sống và gọi vùng đất này bằng một số tên khác, đó là Tân Gia Ba  新加坡, Tinh Gia Ba 星嘉坡 (hay星加坡) và hai cái tên rút gọn là Tinh Châu 星洲 (đảo Singapore) và Tinh Quốc 星國 (nước Singapore). Ngoài ra, còn có tên khác là  Thạch Lặc  石叻, có nguồn gốc từ chữ selat trong tiếng Malaysia, có nghĩa là “eo biển”…Trong Thế chiến thứ II, người Nhật đặt tên cho Singapore làShōnantō (Chiêu Nam đảo 昭南島?), xuất phát từ câu Shōwa no jidai ni eta minami no shima" (和の時代に得た), có nghĩa là “hòn đảo phương nam tiếp thu được trong thời kỳ Shōwa”, tức giai đoạn hoàng đế Shōwa trị vì (25/12/1926-7/1/1989). Từ này được sử dụng cho tới ngày người Anh chiếm đảo Singapore (12/9/1945), một tháng sau khi người Nhật đầu hàng.  Trong giai đoạn thế chiến, người Nhật đã Latin hóa từShōnantō thành Syonan-to (hay Syonan), có nghĩa là “Ánh sáng phương Nam”, dịch đúng nghĩa đen của từ Chiêu Nam 昭南.

*
(2): Sommerville, Maxwell (1894). The Encyclopaedia Britannica: a dictionary of arts, sciences, and general literature, 9:22. Adam and Charles Black, London, United Kingdom. p. 101.

KTTN 114, ngày 15-7-1993

ACPhù Đồ (cũng như Phật Đà, Phật Đồ) vốn là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) của tiếng Sanskrit buddha, có nghĩa là Phật. Dần dần nó bị dùng sai đi vì được xem là đồng nghĩa với từ tháp, dạng tắt của tháp bà, phiên âm từ tiếng Sanskrit stupa.

VTH: Phù Đồ 浮圖 là từ phiên âm từ chữ stupa स्तौपिक, chứ không phải từ chữ Buddha बुद्ध trong tiếng Sanskrit. Nói cách khác, Phù Đồ không có nghĩa là Phật 佛, nghĩa của nó là tháp thờ Phật hoặc tháp thờ xá lợi của Phật. Do đó, việc cho rằng từ phù đồ bị “dùng sai đi vì được xem là đồng nghĩa với từ tháp” là điều không chính xác. Dưới đây là dẫn chứng từ Truyện Kiều:

Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước cứu cho một người.

Có hai từ Phật đồ: Phật đồ 佛徒, một dạng viết gọn của Phật giáo đồ 佛教徒, có nghĩa là tín đồ Phật giáo và Phật đồ 佛圖 đồng nghĩa với từ tháp 塔, còn được gọi là Phù Đồ 浮圖 (浮屠). Cả hai từ này (佛徒 và 佛圖) đều không có nghĩa là Phật 佛, chỉ có từ Phật đà 佛佗 mới có nghĩa là Phật 佛 (tiếng Sanskrit: बुद्ध, Buddha).

Trong tiếng Sanskrit, từ stupa स्तुप không có nghĩa là tháp 塔 hay tháp bà塔婆, nghĩa chính xác của nó là búi tóc. Chỉ có từ stupa trong tiếng Anh mới có nghĩa là tháp chứa hài cốt nhà sư. Từ này tương đương với từ staupika स्तौपिक trong tiếng Sanskrit, có nghĩa là hài cốt đựng trong một tháp nhỏ hoặc trong điện thờ (nơi lưu giữ hài cốt của các bậc cao tăng của Phật giáo Tích Lan). 



KTTN 115, ngày 01-8-1993

Tại sao lại gọi là "đồng bóng"? Có phải “đồng” là do “tiên đồng ngọc nữ” hay không? Nhưng nếu thế thì “bóng” là do đâu?

AC: A. de Rhodes đã ghi như sau: “Đồng, cái đồng: Gương, kiếng.Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính” (Từ điển Việt-Bồ-La, Nxb Khoa học xã hội, 1991).
Cứ theo những điều trên đây, thì các ông đồng bà đồng đã được gọi bằng tên của chính cái đồ vật mà họ sử dụng để hành nghề. (…). Khi đồng đã là cái gương, cái kiếng thì bóng tất nhiên là hình ảnh của cảnh và vật phản chiếu ở trong kiếng, trong gương. (…) Vậy đồng bóng là gương và hình ảnh của cảnh vật phản chiếu trong gương. Đó là nghĩa gốc. Còn nghĩa trong ông đồng bà đồnglên đồngđồng cô bóng cậu, v.v… là nghĩa phái sinh.

VTH: Cách giải thích của A. de Rhodes là nói về “phù thủy” phương Tây chứ không phải “ông đồng, bà đồng” ở Việt Nam. Do đó, nhận định “đồng bóng là gương và hình ảnh của cảnh vật phản chiếu trong gương” là không chính xác. Đồng bóng có nghĩa là “bóng của các thần linh trong cõi vô hình, mượn hình đồng để tiếp xúc, phù hộ cho người trần gian”. Các ông đồng, bà đồng cho thần linh hay vong hồn nhập vào họ, lúc ấy  họ không còn là chính mình, nghĩa là đã biến thành thần hay vong hồn để ban phúc lộc, trừ tà diệt ma, chữa bệnh, phán truyền điều gì đấy; còn người nhận những điều ấy được gọi là “con nhang” hay “đệ tử” v.v. Ở Việt Nam, đồng bóng còn được gọi là lên đồng, hầu đồng, hầu bóng…, một hoạt động tín ngưỡng dân gian có tính chất của Saman giáo (*). Về cơ bản, đây là hình thức giao tiếp của ông đồng, bà đồng với thế giới siêu linh bằng nghi thức nào đó. Thí dụ như “trò chơi phụ đồng chổi, thả thơ, đoán mộng, giao tiếp với các siêu linh, vong hồn” hình thức cầu cơ của đạo Cao Đài; nghi thức Đạo Mẫu của Đạo giáo; nghi thức lên đồng trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; hay Thanh Đồng trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần…Nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam cũng có hình thức lên đồng (Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chay, Mông, Thái…). Tùy dân tộc, người lên đồng có thể là thầy Mo, Tào, Then, Pựt, Xídi hay Mỡi...

*
(*): Saman giáo (A: Shamanism, P: Chamanisme) là một thuật ngữ của ngành nhân loại học, nói về tín ngưỡng và hoạt động liên quan tới sự giao tiếp với thế giới linh hồn. Pháp sư là người có khả năng tiếp cận và tạo sự ảnh hưởng đến thế giới linh hồn thiện và ác, người có thể xuất thần bước vào tình trạng lên đồng khi làm lễ để thực hành việc đoán tương lai, chữa bệnh, trừ tà…(xem thêm từ http://en.wikipedia.org/wiki/Shamanism).


Vương Trung Hiếu

NGUỒN GỐC CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH THUỘC NINH THUẬN VÀ BÌNH THUẬN 1 (Chế Vỹ Tân)




Kì01.
CÀ NÁ
Trước đây cũng như hiện nay, Cà Ná là một địa điểm du lịch của cực nam Trung bộ, nổi tiếng về cảnh đẹp núi biển ôm sát nhau. Cà Ná còn là vùng có những cây mai vàng năm cánh rất đẹp. Mỗi độ xuân về, toàn đồi núi khu vực này rực lên một màu vàng nhạt tựa như một bức tranh huyền ảo…
Cách biển một cây số về hướng Tây, tọa lạc một làng Chăm – làng Rabha Ralauw – nay không còn nữa. Phía trên nữa có con suối nước rất trong, chảy róc rách quanh năm; trước kia người dân địa phương gọi là Suối Tiên, ngày nay chính là Suối Vĩnh Hảo…
Lúc bấy giờ, từ “Quốc lộ số 1″ (ngày nay), lại có một con đường tẻ lên làng Chăm và Suối Tiên. Ngã ba đó, người Chăm gọi là Canah kluw (đọc là Chanah klău); Canah có nghĩa là tẻ ra, kluw nghĩa là ba (ngã ba).
Người Việt đọc trại ra thành “Cà ná lâu”, về sau chữ “lâu” này rụng đi, chỉ còn lại “Cà na”.
THỊ NẠI hay NẠI
Dọc theo duyên hải miền Trung Việt Nam, chúng ta tìm thấy nhiều địa danh mang tên Thị Nại hoặc Nại.
Tại tỉnh Ninh Thuận, thôn Dư Khánh thuộc xã Khánh Hải, huyện Ninh Hải, cũng có tục danh là NẠI. Vậy thì “Nại” này có nguồn gốc từ đâu?
Xưa kia, người Chăm sinh sống dọc bờ biển thường làm nghề đánh cá. Mỗi buổi sáng hay buổi chiều đều có các thuyền đánh cá tấp vào một vài nơi nhất định (nơi có những cư dân đông đúc) để bán cá. Do đó, về lâu về dài, những nơi này hình thành những “chợ nhỏ”, chủ yếu là để bán cá tươi cho người địa phương và các dân buôn.
“Chợ nhỏ” đó tên Chăm là darak naih (darak là chợ, naih là nhỏ), đọc là “tàrạk neh”. Người Kinh dịch chữ darak là Thị, còn chữ naih lại ngỡ là danh từ riêng, nên cứ gọi là Né hay Thị Né. (Sự chuyển đổi từ phụ âm cuối Chăm h sang thanh hỏi hay nặng trong tiếng Việt là điều thường gặp).
Vì thế, chữ Né và Thị Né đọc trại ra thành NẠI hay THỊ NẠI, và các từ này tồn tại cho đến ngày hôm nay.
SÔNG DINH
Tại thị xã Phan Rang – Tháp Chàm thuộc tỉnh Ninh Thuận, có con sông Cái từ thượng nguồn chảy về biển, băng ngang qua phía Nam thị xã này. Người địa phương gọi con sông đó là Sông Dinh.
Từ Dinh này có phải có nguồn gốc từ tiếng Chăm không?
Theo chúng tôi, có lẽ từ Dinh xuất phát từ chữ DING (đọc là Tìng) của người Chăm. Ding có nghĩa là phố, nau ding có nghĩa là đi xuống phố.
Con sông chảy ngang phố (phía nam Phan Rang), người Chăm gọi là KRAUNG DING (có nghĩa là Sông Phố), và người Kinh phiên âm ra thành SÔNG DINH, theo âm tiếng Chăm đọc trại ra.
SÔNG MAO
Sông Mao là một địa danh thuộc tây bắc huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận, trước đây (sau giải phóng) là huyện lỵ của huyện Bắc Bình.
Theo hiểu biết của chúng tôi, từ Sông Mao có nguồn gốc khá lí thú! Qua sự giải thích của một thân hào Chăm, chúng ta có thể hiểu như sau:
Trong khu vực Sông Mao bây giờ có đồng ruộng của người Chăm tục gọi là Hamu Pa-auk (đọc là pa-ó, nghĩa là cây xoài). Cạnh ga Sông Mao có một con sông nhỏ người Chăm gọi là kraung pa-auk. Người Kinh dịch thành SÔNG PA-Ó. Chuyển đổi âm từ P của Chăm sang M của Việt: từ Sông Pa-ok được viết là Sông MA-Ó. Vả lại thời Pháp thuộc dấu sắc ở nguyên âm o không thể hiện được trên máy đánh chữ (ó thành o), vì vậy trong các văn bản hành chánh thời đó ta thường thấy viết Sông Ma-o. Sau này, dấu ngang rụng đi do cách đọc gộp thành một âm của những người Pháp (thời Pháp thuộc), cuối cùng ta có từ SÔNG MAO của ngày hôm nay.
*
Trong Tagalau4.
Kì02.
Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết mà các sách địa lý thường gọi là “Tam Phan”, được cả nước biết đến là do đặc điểm ít mưa nhiều nắng nhất nước. Đây là 3 địa danh thuộc cực nam Trung bộ, xưa kia thuộc đất Panduranga, tiểu bang cực nam của xứ Champa cũ.
Theo chúng tôi tìm hiểu thì cả 3 từ này đều có nguồn gốc từ tiếng Chăm.
PHAN RANG là biến dạng của từ Chăm: PA-NRANG, hay còn được gọi là PANDARANG. Đó là từ địa phương viết theo tiếng Chăm hiện đại (akhar thrah) để chỉ vùng tỉnh Ninh Thuận ngày nay. Thông thường các nhà nghiên cứu Việt nam và nước ngoài hay nhầm lẫn giữa 2 danh từ Pandarang và Panduranga vì cho 2 từ này chỉ là một (đồng nghĩa với nhau). Sự thật không phải thế, vì Panduranga là tiếng Phạn (Sanscrit) dùng để chỉ vùng đất chung của cả 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay, đúng hơn là cả một phần của Đồng Nai nữa, vì các sách cổ Chăm luôn nhắc đến Đồng Nai thượng và Đồng Nai hạ, khi nói đến Panduranga (theo E.Durand. P.B.Lafont và L.Finot).
PHAN RÍ: Đây là phiên âm của danh từ Chăm PA-RIK, địa danh chỉ vùng nằm giữa KRONG (tức sông Lòng Sông hay huyện Tuy Phong hôm nay) và PAJAI (tức Phố Hài). Panrang – Kraung – Parik – Pajai là 4 vùng chính của Panduranga cũ đang có đông cư dân Chăm.
PHAN THIẾT: Đây là sự biến dạng của từ Chăm HAMU LITHIT (Ruộng Lithit). Người Chăm thường gọi tắt là Mu Thit, nên trước đây được phiên âm là Man Thiết (thời Pháp thuộc) trước khi trở thành Phan Thiết của ngày hôm nay.
LADI: tức là vùng huyện Hàm Tân bây giờ (thuộc tỉnh Bình Thuận), xưa kia là đất Nưgar LADIK của xứ Panduranga cũ (đọc là La-tik theo âm Chăm). Danh từ LADIK được phiên âm thành La Di ngày nay.
SÔNG LA NGÀ: Đây là con sông bắt nguồn từ bình nguyên Lâm Đồng, chảy qua các huyện phía nam tỉnh Bình Thuận để đổ xuống biển Đông. Vậy, từ La Ngà có nguồn gốc từ đâu? Đây không phải là một danh từ Chăm. La Ngà có nguồn gốc từ tiếng Kơho, vì sông này có dòng chảy băng qua các vùng cư trú của đồng bào Kơho. Vào mùa hạ, sông này khô nước, lòng sông nổi lên nhiều đá cuội đen trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời giống như một bãi phơi hạt mè màu trắng đen vậy. Vì thế mà người Kơho đặt tên con sông này là sông LƠNGA – sông Hạt Mè (Lơnga là hạt mè (vừng – theo Từ điển Việt – Kơho, Sở VHTT Lâm Đồng, 1983, tr.164). Người Việt phiên âm là La Ngà.
Người Kơho còn gọi con trâu trắng có chấm đen li ti là “rơpu lơnga” (con trâu hạt mè).
CỔ HỦ: là tục danh của làng Mỹ Tường thuộc xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Làng này tọa lạc gần biển, và trước đây mang địa danh là BAL HUH của Champa cũ (Bal: thủ đô, đây là thủ đô tạm thời khi phải di chuyển về phía nam do chiến cuộc cũng như sau này chuyển về Bal Ywa, Bal Lai, Bal Caung (1)… trước khi đến Bal Canar ở Phan Rí là thủ đô cuối cùng). Sau này khi không còn Bal nữa, người Chăm chỉ gọi gọn địa danh này là HUH. Chính từ HUH này đã được phiên âm biến thành Cổ Hủ.
HÒA LAI: là một địa danh ở bắc Ninh Thuận thường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải. Trên quốc lộ số 1, du khách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọa lạc phía đông con đường, cách ranh giới Khánh Hòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đã bị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI. Xưa kia địa danh này mang tên là BAL LAI (thủ đô đã điêu mất). Chính từ Bal Lai này đã được phiên âm thành Hòa Lai.
GÒ ĐỀN là tên gọi của một làng Công giáo tọa lạc giữa Hòa Lai và Hộ Diêm, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh NinhThuận. Khu vực này là một gò lớn, và ở giữa gò ấy có một cái đền của người Chăm. Đền này đã đổ nát và ngay trên địa điểm đó bây giờ nhà thờ Công giáo được xây dựng lên. Vậy địa danh Gò Đền mang đặc điểm của khu đât này: đất GÒ có ĐỀN của người dân tộc Chăm.
GÒ SẠN là tên gọi một làng nằm sát phái bắc Gò Đền. Đây cũng là vạt đất gò cao tiếp nối với vạt đất Gò Đền. Vạt đất này là đất sạn (đá sỏi nhỏ). Chính vì đặc điểm này mà người dân địa phương mới đặt tên là Gò Sạn.
CÀ ĐÚ, CHÀ BANG
Đây là tên gọi 2 hòn núi ở phía bắc và phía nam tỉnh Ninh Thuận.
CÀ ĐÚ là hòn núi ở phía tây Đầm Nại, thuộc xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải. Nơi đây có làng mang tên là làng Cà Đú (nay đổi lại thành thôn Lương Cách). Cà Đú là một từ Chăm xuất phát từ tên gọi hòn núi KAĐUK nói trên. Từ Kađuk được phiên âm ra tiếng Việt là Cà Đú.
CHÀ BANG là tên gọi hòn núi ở phía bắc thôn Văn Lâm (cách chừng 7 km) thuộc xã Phước Nam, huyện Ninh Phước. Người Chăm thường gọi là Cơk Cabbang, có nghĩa là hòn núi có ngọn tẻ đôi như “cabbang” (chữ V).
Người Việt phiên âm thành Chà Bang.
PALEI RƠM (đọc là râm). Từ RƠM này rất gần gũi với người Chăm, nhưng rất ít người Chăm hiểu nghĩa chính xác của nó là gì. Xin nói rõ Palei Rơm là tục danh của thôn Văn Lâm (thuộc xã Phước Hải, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Từ trước đến nay đại đa số người Chăm chỉ hiểu từ “râm” là rừng rậm; từ đó suy diễn ra một cách lôgic là trước đây khu vực này toàn rừng rú rậm rạp, đầy thú dữ. Nhưng khi đọc lại các văn bản cổ Chăm, ta mới hiểu từ “râm” còn có nghĩa khác là: “đất gò” (đất cao), nhất là khi tra cứu từ điển Malaysia thì ta càng sáng tỏ hơn, chữ “râm” đúng có nghĩa là “đất gò”.
Vậy “Palei Rơm” có nghĩa là thôn Đất Gò, và nói theo tiếng Chăm thông thường là Palei Tabbok (đọc là tabôk). Rõ ràng chúng ta đang sử dụng từ ngữ đó mà không nhận ra Tabbok Gah: chỉ ấp Gò Dưới, Tabbok Krưh: chỉ ấp Gò Giữa, và Ram Ngauk để chỉ ” ấp Gò Trên” đó sao?
(1) Chú thích: thứ tự này là do tác giả suy luận theo lôgic từ biển lên giữa đất liền, và từ bắc xuôi về nam tại Pandarang, chứ không tìm ra trong tư liệu nào. Vậy tính chính xác không được đảm bảo.
*
Trong Tagalau5.
Kì03.
ĐÀ NẴNG. Là biến dạng của từ Chăm DAKNAN. Theo tài liệu của cụ Bố Thuận (nhà nghiên cứu Chăm, gốc Phan Rí, sống vào đầu thế kỷ XX) thì chữ dak có nghĩa là nước (Chăm cổ), nan hay nưn (tứclanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng.
Tourane. Vào thời Pháp thuộc (và trước đó), địa danh Đà Nẵng thường được gọi là Tourane. Vậy từ Tourane này do đâu mà ra? Cũng theo tài liệu của cụ Bố Thuận thì chữ DAKNAN của Chăm người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó mà phiên âm thành Tourane.
CÙ LAO CHÀM. Đó là một hòn đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Trước đây, cù lao này là nơi cư trú của các dân chài Chăm (tức Chàm) và dĩ nhiên mang tên Chăm. Rất tiếc hôm nay không ai còn nhớ. Về sau, qua biến đổi của lịch sử, người Chăm đã di tản đi nhiều nơi (có lẽ đông nhất là Hải Nam của Trung Quốc) và người Việt gọi địa danh này là Cù lao Chàm, nghĩa là cù lao của người Chăm cư trú trước đây.
SÔNG CAM LỘ. Sông Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, có lẽ có nguồn gốc từ chữ Ca Lo, hay còn gọi là Khu Lu, và danh từ này đã được phiên âm ra thành Cam Lộ của ngày nay.
BỒNG MIÊU. Bồng Miêu là một vùng đồi núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Xưa kia những đồi này có nhiều vàng mà người Chăm đã từng khai thác. Chính vì vậy mà vùng này mang địa danh Chăm là Bbon Amưh (Đồi vàng), và được phiên âm thành Bồng Miêu.
TRÀ BỒNG, SƠN TRÀ, TRÀ KHÚC, TRÀ MI. Đó là những địa danh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Những từ ngữ này gợi lại những âm Chăm: Chữ Trà là phiên âm của chữ phạn Jaya (một trong 4 họ chính thống Ôn, Trà, Ma, Chế của người Chăm).
SÔNG ĐÀ RẰNG. Đó là con sông chảy qua phía nam Thành phố Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên. Từ Đà Rằng mang âm Chăm và có nguồn gốc từ chữ Dairios (tên của con sông này trước kia). Chính từ này lại được phiên âm từ chữ Dak Riong, có nghĩa là sông sâu hầm hố (từng chữ một: hầm hố liên tiếp). Từ chữ Dairios, người Việt phiên âm thành Đà Rằng.
ĐẬP ĐỒNG CAM. Đập Đồng Cam tọa lạc tại Phú Yên, nơi có đồng ruộng lúa nước lớn nhất miền Trung. Đập này xưa kia chắc chắn mang tên Chăm nhưng nay không ai còn nhớ nữa. Người Việt đặt tên đập này là Đập Đồng Chàm, nghĩa là đập của đồng lúa người Chàm trước đây. Nhưng vào thời Pháp thuộc, người Pháp viết là Cam (chữ Cam họ viết theo bộ chữ cái Chăm theo hệ thống latinh hóa của E.Aymonier trong đó chữ C mang âm Ch). Nhưng hôm nay chúng ta đọc theo chữ cái Việt thành “Cam” thay vì Cham.
VẠN GIÃ. Dãy núi trùng điệp tạo ra Đèo Cả ở bắc Khánh Hòa trước đây mang tên Kauthara (cũng là tên Tiểu vương quốc của Thánh địa Po Nagar). Nhiều học giả Chăm khẳng định từ Vạn Giã là biến dạng của chữ Kauthara vậy.
NHA TRANG. Thành phố thuộc xứ Kauthara cũ, người Chăm thường gọi là Ia Trang (Ia là nước, Trang là đan chéo) hàm ý chỉ nơi có hai luồn nước chảy đan chéo nhau. Danh từ Ia Trang được phiên âm ra thành Nha Trang ngày nay. Cũng có một nhận định khác là chữ Trang (trong Ia trang) có nghĩa là lau, sậy. Và từ Ia Trang dùng để chỉ vùng sông nước có nhiều lau sậy.

Monday 30 July 2012

Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây 1 (Vương Trung Hiếu)

Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây (P.1)
Vương Trung Hiếu
Trước đây, trên Kiến Thức Ngày Nay (KTNN) có mục Chuyện Đông – Chuyện Tây của tác giả Huệ Thiên (An Chi). Mấy ngày nay, tình cờ vào vnthuquan.net chúng tôi thấy đăng lại một số bài viết trong mục Chuyện Đông - Chuyện Tây năm 1992 -1993. Tò mò chúng tôi đọc rồi giật mình vì nhận ra có những chi tiết “đáng ngờ” trong loạt bài ấy. Chúng tôi trích đăng lại ở đây một số nhận định của ông An Chi và nêu quan điểm của chúng tôi để bạn đọc đối chiếu, ngõ hầu làm sáng tỏ đôi điều về chữ nghĩa. Do trích từ bản sao trên mạng nên có thể một số chi tiết trong loạt bài ấy bị lỗi kỹ thuật, không chính xác như bản gốc trên KTNN. Bạn đọc nào phát hiện ra những sai sót so với bản gốc, xin vui lòng gởi email thông báo để chúng tôi kịp thời chỉnh sửa. Xin chân thành cám ơn.

KTNN 95, ngày 01-11-1992

AC (An Chi): Trước hết xin nói rằng đây là rể Đông sàng, dâu Nam giánchứ không phải là "Đông sàn" và “Nam giáng". Sàng là giường: vậy Đông sàng là giường phía Đông. Gián là khe núi: vậy Nam gián là khe núi phía Nam. Vế rể Đông sàng bắt nguồn ở tích Đông sàng thản phúc, nghĩa là nằm thẳng bụng trên giường phía Đông. Chuyện rằng nhà Vương Đạo có nhiều con trai chưa vợ nên Hy Giám mới cho người sang đọ để kén chồng cho con gái. Đám con trai nhà họ Vương biết thế nên anh nào cũng lăng xăng tìm cách làm cho khách để ý. Chỉ có Vương Hy Chi là nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra. Nghe người nhà thuật lại, Hy Giám biết Hy Chi ắt là rể quý, bèn chọn ngày lành tháng tất mà gả con gái cho. (…) Còn vế dâu Nam gián thì bắt nguồn từ lời của một bài trong Kinh Thi của Trung Hoa: Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tânnghĩa là đi hái rau tần bên khe núi phía Nam . Chỉ sự tần tảo của người con gái. Dâu Nam gián là con dâu chịu thương chịu khó. Truyện Lục Vân Tiên có câu:
Xem đà đẹp đẽ hòa hai:
Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng.

VTH (Vương Trung Hiếu): Phần giải thích trên có những chi tiết nhầm lẫn sau:

- Trong điển cố Đông sàng thản phúc 東床坦腹, quan Thái Uý  Si Giám 郗鑒 là người kén chồng cho con gái chứ không phải là Hy Giám. Si Giám chọn rể từ những học trò, con cháu của Vương Đạo王導 chứ không phải từ “đám con trai” của Vương Đạo. Bởi vì, cha của Vương Hi Chi 王羲之 là Vương Khoáng chứ không phải là Vương Đạo. Vương Đạo là bá phụ của Vương Hi Chi, tức anh của Vương Khoáng.

- Nếu chỉ căn cứ vào chi tiết: “Vương Hy Chi nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra” thì làm sao có thể biết đó là rể quý? Thật ra, nội dung điển cố cho biết Vương Hi Chi 王羲之nằm trên giường, ăn bánh và cầm cọ viết thư pháp, không quan tâm đến chuyện chung quanh. Đây mới là chi tiết khiến Si Giám cho rằng Vương Hi Chi có tài, xứng đáng là rể quý.  Đúng như dự đoán của Si Giám, Hi Chi là người học giỏi, có tài viết chữ đẹp, về sau làm đến chức Hữu Quân 右军. Ông còn là nhà thư pháp vĩ đại nhất thời Đông Tấn (317-420), được người đời sau tôn là Thư Thánh.

- “Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tân” là câu sai, viết đúng phải là Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, 于以采蘋, 南澗之濱 (trích từ bài  thơ Thái Tần 采蘋trong Kinh Thi 詩經).

- “Thể” không có nghĩa là “hái”. Những từ Hán có âm Hán Việt là “thể” (婇, 体, 躰, 體, 醍) đều không có nghĩa là “hái”.  Thái 采 mới có nghĩa là “hái”.

- Nam gián là cách viết sai, viết đúng phải là Nam giản. “Gián” không có nghĩa “khe núi”. Tất cả những chữ Hán có âm Hán Việt là  “gián” (谏, 瞷, 覸, 諫, 僩, 閒) đều không có nghĩa là “khe núi”. Giản 澗 mới có nghĩa là “khe, suối, dòng nước giữa hai núi”.  Vì thế, câu Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân có nghĩa là “Đi hái rau tần, ở khe suối phía Nam”.

- Câu “Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng” trích trong Lục Vân Tiên bị sai ở chữ “gián”, viết đúng phải là “giản”.

Lạm bàn: Thoạt nhìn, Đông sàng 東床 có nghĩa “là giường phía Đông”, nhưng nếu biết về nghi thức xưa của người Trung Hoa thì có thể hiểu khác hơn về hai chữ này. Ngày xưa, nơi ngủ của hoàng tử sắp kế vị vua thường được xây ở phía Đông (Đông cung), còn nơi ngủ của giới sĩ phu thường tuân theo nguyên tắc: giường đặt ở phía Bắc, còn đầu giường thì quay về phía Đông. Vậy, có thể hiểu đông sàng là “giường quay đầu về phía Đông” được chăng? Điều này có ghi rõ trong thiên Kí tịch lễ 既 夕禮, trích từ Nghi lễ 儀 禮: Sĩ xứ thích tẩm, tẩm đông thủ vu bắc dong hạ 士 處 適 寢, 寢 東 首 于 北 墉 下 (Phòng ngủ của kẻ sĩ, giường được đặt ở phía Bắc, đầu quay về phía Đông). Câu trả lời xin dành cho những bậc thức giả uyên bác về Hán học.

KTNN 96, ngày 15-11-1992

AC: Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gaulois). Người Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ Gallus trong tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là gallus, có nghĩa là con gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm gallus của tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm "người Gô-loa" lại vừa biểu hiện khái niệm con gà trống". Vậy cứ theo ngôn ngữ này, người ta có thể chơi chữ bằng đẳng thức: Người Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus). (…) Nếu ta biết rằng tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao người Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tượng cho dân tộc mình như thế.

VTH:  Trước hết, cần khẳng định rằng người Pháp không căn cứ vào tiếng Latin để chọn gà trống làm biểu tượng cho dân tộc mình và người Pháp không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Có lẽ người đầu tiên nhận thấy sự đồng âm của từ gallus là  Gaius Suetonius Tranquillus. Vào thời La Mã cổ đại,  trong bộ De Vita Caesarum, Suetonius đã nhận xét rằng trong tiếng Latin, gà trống (gallus) và người Gaulois (Gallus) là từ đồng âm. Tuy nhiên, kể cả ông và người Pháp cũng không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Cách chơi chữ này do chính kẻ thù của nước Pháp đặt ra từ thời Trung cổ nhằm để chế giễu người Pháp. Song, việc cho rằng gà trống là biểu tượng của dân tộc Pháp là điều không chính xác, vì thời đó gà trống không được xem là sự nhân cách hoá dân tộc của người Pháp và nó cũng không phải là con vật thiêng của người Gô –loa trong thần thoại của họ. Mặt khác, không có khái niệm “quốc gia Gô -loa”, chỉ có sự liên kết lỏng lẻo những quốc gia thuộc vùng Gaule (*). Oái oăm thay, những vị vua của nước Pháp vào thời kỳ ấy lại chấp nhận cách chơi chữ gallus và phát triển nó để củng cố vững chắc cho biểu tượng của Cơ Đốc giáo, đó là hình ảnh của con gà trống.  Trước khi bị bắt, Chúa Jésus có nói với thánh tông đồ Peter về tiếng gà gáy.  Tiếng gáy vào mỗi sáng được xem là biểu tượng chiến thắng hàng ngày của ánh sáng trước bóng tối và sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Ngoài ra, nó còn là sự biểu trưng cho thái độ thận trọng và sẵn sàng của người Công giáo đối với sự trở lại đột ngột của Chúa, hiện tượng phục sinh sau khi Chúa qua đời và sự phán quyết cuối cùng của nhân loại. Đó là lý do tại sao, trong thời Phục Hưng, gà trống trở thành biểu tượng của nước Pháp, vì nước này chủ yếu là người Công giáo. Gà trống đã trở thành hình ảnh Công giáo phổ biến trên những cái chong chóng chỉ hướng gió (weathervanes). Tóm lại, người Pháp chọn biểu tượng gà trống Gô-loa cho dân tộc mình không phải xuất phát từ tiếng Latin, mà vì chính họ là người Công giáo.

*
KTNN 96, ngày 15-11-1992

AC: Sở dĩ sách xưa không có tên Hồng Hà vì đây là một cái tên rất mới do chính người Việt chúng ta dịch từ tiếng Pháp, gọi nôm na hơn một chút là sông Hồng. Sông Hồng có đặc điểm nổi bật là nước của nó về mùa lũ thì rất đỏ, nên người Pháp dựa vào đó mà gọi nó là fleuve Rouge (sông Đỏ). (…) Vậy Hồng Hà hay sông Hồng chỉ là những "bản dịch" sang tiếng Việt của tiếng Pháp fleuve Rouge mà thôi. Xin phân biệt với Hồng Giang, một chi lưu xưa của sông Hồng, chảy qua tỉnh Hải Dương.

VTH: Hồng Hà không phải là cái tên dịch từ tiếng Pháp. Nó là tên con sông 红河 bắt nguồn từ Trung Quốc, được người Việt gọi theo âm Hán Việt là Hồng Hà. Chính người Pháp đã dịch cái tên Hồng Hà hoặc 红河 sang tiếng Pháp là fleuve Rouge (sông Đỏ). Theo Wikipedia, Hồng Hà bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam rồi đi ra biển Đông. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc gọi là Nguyên Giang 元江, đoạn đầu nguồn gọi là Lễ Xã Giang 禮社江. Đoạn trên lãnh thổ Việt Nam còn được người Việt gọi là sông Hồng hay sông Cái (người Pháp phiên tên gọi này thành Song-Koï). Sử Việt còn ghi tên Hồng Hà là Phú Lương. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Xin lưu ý, ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc cũng có một con sông khác với tên gọi là Hồng Hà 洪河, đây là chi lưu của Hoài Hà 淮河 (hay Hoài Thủy 淮水).

KTNN 99, ngày 01-01-1993
Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giángsinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này.

ACYule là hình thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại geol, với biến thể geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà tiếng Phần Lan láng giềng đã mượn và phát âm thành joulu. Theo Eric Partridge, hình thái cổ đại geol bắt nguồn từ một hình thái tiền thân là geol, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại còn có danh từ geola để chỉ tháng December (tháng Chạp dương lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. Còn geol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng geola, tức là ngày Giáng sinh.

VTH: Theo sử gia người Anh Bede (thế kỷ thứ 8),  trong lịch Anglo-Saxon có tháng geola hay giuli tương ứng với tháng 12 hoặc tháng 12 và tháng giêng trong dương lịch. Vì thế có thể khẳng định rằng Yule không chỉ là ngày lễ của tháng geola. Mặt khác, ngay từ lúc mới xuất hiện với tư cách là lễ hội, Yule  cũng không phải là từ dùng để chỉ ngày Giáng sinh của đạo Cơ Đốc.

Theo Wikipedia, Yule hay Yuletide là từ dùng để chỉ giai đoạn mùa đông và là lễ hội mà người Đức sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Ấn Âu (Germanic peoples) và vài dân tộc láng giềng khác tổ chức, xem như một lễ hội tôn giáo, về sau được đánh đồng với lễ Giáng sinh (Christmas, 25 tháng 12) của người Cơ Đốc giáo. Dấu tích xưa nhất cho sự kiện này là dựa theo lịch địa phương Đức (Germanic calendars). Vào thế kỷ thứ 4, Yule là tên tháng xuất hiện trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), gọi là  fruma jiuleis. Nhìn chung, Yule là một lễ hội hoạt động kéo dài từ giữa tháng 11 đến đầu tháng Giêng, giai đoạn tập trung nhất là vào khoảng giữa mùa đông (winter solstice). Những nhà nghiên cứu đã nối kết lễ này với thần thoại dân gian cổ Wild Hunt và thần Odin để tăng thêm hoạt động có tính siêu nhiên và sự kiện đêm Modranicht của người Anglo-Saxon ngoại giáo.

Xét về từ nguyên, Yule trong tiếng Anh hiện đại có nguồn gốc từ những chữ trong tiếng Anh cổ: ġéol hay ġéohol và ġéola hay ġéoli, với nghĩa cổ là “lễ hội Yule 12 ngày”, sau đó có nghĩa là nghĩa “mùa Giáng sinh” (Christmastide, từ 24/12 đến 06/01) và cuối cùng là nghĩa “tháng Yule”. Vì thế  ǽrra ġéola có nghĩa là giai đoạn trước lễ Yule (tháng 12), còn æftera ġéola là giai đoạn sau lễ Yule (tháng Giêng). Cả hai từ ġéol và ġéola được tin là có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Germanic và có cùng gốc với từjiuleis trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), từ jól trong  tiếng Đức cổ, từ jul trong tiếng Đan Mạch và Thụy Sĩ , từ jul hoặc jol và ýlir trong tiếng Na Uy (1). Tuy nhiên, gốc từ nguyên của Yule không còn dấu tích đáng tin cậy, mặc dù đã có một số nghiên cứu cố gắng suy đoán về những từ cùng gốc trong hệ ngôn ngữ Ấn Âu bên ngoài nhóm  Germanic (2). Danh từ Yuletide (mùa giáng sinh, mùa Nô en) được chứng thực lần đầu tiên vào khoảng năm 1475 (3). Ngày nay, trong những quốc gia nói tiếng Anh,Yule là từ được dùng trong phạm vi hẹp để nói về mùa Giáng sinh. Thí dụ, trong mùa Giáng sinh, có những tục lệ như  Yule log, Yule goat, Yule boar, Yule singing…, ngoài ra cũng có những thuật ngữ khác xuất phát từ chữ Yule.

*
(1): Bosworth & Toller (1898:424); Hoad (1996:550); Orel (2003:205).
(2) Proto-Germanic (thường viết tắt là PGmc.) hay Common Germanic là tiền ngôn ngữ của tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Germanic được tái thiết, thí dụ như tiếng Anh hiện đại,  tiếng Frisian, Hà Lan, Afrikaans, Đức, Luxembourgish, Đan Mạch, Na Uy, Icelandic, Faroese và Thụy Điển. Proto-Germanic là giai đoạn ngôn ngữ tạo thành hình thức sơ khai phổ biến nhất gần đây của nhóm ngôn ngữ Germanic. Proto-Germanic có nguồn gốc từ ngữ hệ tiền Ấn Âu (Proto-Indo-European - PIE).
(3): Barnhart (1995:896).

KTNN 100, ngày 15-01-1993

ACtư trong "tư niên” thì lại không liên quan gì đến tư trong "ngày tư ngày tết" cả. Nó là tư trong tư bề, tư mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứlà bốn. Tư bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tư mùa là suốt bốn mùa, nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lý từ bốn sang mọi, sangquanh trong nghĩa của tư bề, tư mùa đã dẫn đến cách hiểu sai lệch rằngtư có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, v.v.. Với cách hiểu sai lệch này, người ta đã nói tư niên mà hiểu là quanh năm.


VTH không phải là nghĩa biến âm của tứ (bốn), do đó nó không liên quan gì với chữ tư trong tư bề và tư mùa. Trong tiếng Hán, tư  thuộc bộ thảo, có nghĩa là “năm”. Chữ niên  thuộc bộ Can , cũng có nghĩa là “năm”. Chính từ sự giống nhau giữa  (năm) với niên (năm) nên người ta mới ghép chung thành “tư niên” (từ ghép đẳng lập), dùng để nhấn mạnh khái niệm thời gian nói chung là “năm”. Từ ghép đẳng lập kiểu này xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt. Thí dụ: bằng 朋 (bạn cùng chí hướng) vàhữu友 (bạn quen biết), gọi chung là bạn bè; Hiểm 險 và  trở 阻 đều là chỗ trọng yếu hay hiểm yếu, gọi chung là nơi trọng yếu hay hiểm yếu…

KTTN 103, ngày 01-3-1993
Tại sao người Việt Nam lại gọi người Trung Hoa là “Tàu”?

AC: Chúng tôi cho rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa là “quan”. Trong thời kỳ Bắc thuộc, nói chung quan cai trị là người Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng người Trung Hoa là tàu, nghĩa là quan. (…) Do quan niệm trên mà về sau tất cả mọi người Trung Hoa dù không làm quan – đây là tuyệt đại đa số - cũng được "vinh dự" gọi là Tàu.

VTH: Phần đầu bài viết, ông An Chi cho biết: “Đã có nhiều người liên hệ tên gọi này với từ tàu trong tàu bè. Xin chép Huình-Tịnh Paulus Của làm dẫn chứng: “Người An Nam thấy tàu bè khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nước Tàu, người Tàu” (Đại Nam quấc âm tự vị, t.II, Saigon, 1896, tr.346)”. Theo chúng tôi, đây là cách giải thích hợp lý, thế nhưng ông An Chi lại bác bỏ ý kiến này rồi khẳng định “tàu có nghĩa là quan” như trên. Chúng tôi không đồng ý cách giải thích của ông An Chi. Thứ nhất, chúng tôi không nghĩ rằng “tàu là âm cổ Hán Việt” (ông An Chi không có dẫn chứng về nhận định này); thứ hai, trên thực tế, người Hoa sinh sống tại Việt Nam không thích bị gọi là “người Tàu” hay “ Ba Tàu”, vì theo họ đó là hai cách gọi có tính chế giễu, miệt thị. (Nếu “tàu” có nghĩa là “quan” thì tại sao họ lại không thích chứ?).  Ngày xưa người Trung Hoa dùng tàu chở hàng hóa sang nước ta buôn bán khá nhiều nên dân ta thường gọi họ là “người Tàu” và gọi hàng hóa của họ là “hàng Tàu, đồ Tàu”.  Trong khi đó, quan niệm cũ trước đây ở nước ta là “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương”. Phải chăng, vì thế mà người buôn bán “bị” xem là có đẳng cấp thấp trong xã hội? Nếu thật vậy thì cách gọi “người Tàu”, có thể hiểu là chê người Hoa thuộc thành phần thấp kém nên họ không thích. Mặt khác, người Hoa là người Việt gốc Hoa, họ không muốn bị xem là “người lạ”, “người ngoại quốc” trên đất Việt Nam. Còn “Ba Tàu” xuất phát từ “ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu.” (trích từ mục Tạp vụ trong Gia Định báo, số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870).

KTTN 105, ngày 01-4-1993

Xin cho biết vắn tắt sự tích của ông Thần Tài.

AC: Theo truyền thuyết thì thần tài chính là Triệu Công Minh, người đã sống vào thời nhà Tần. Ông đã lánh đời mà dốc lòng tu tiên ở núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên soái, coi việc xua ôn đuổi dịch, cứu bệnh trừ tai. Lại nữa, phàm ai bị oan ức đến cầu cứu nơi ông đều được ông giúp làm cho sáng tỏ. Người buôn bán cúng ông để cầu tài cầu lộc cũng được ông giúp cho như ý muốn. Người ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, mình cỡi trên lưng một con cọp đen. Người ta cũng thường hay vẽ hình ông trên ảnh đăng (một loại đèn cù) và còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hoặc Triệu Công Nguyên Soái.

VTH: Cách giải thích trên có hai điểm chưa chính xác như sau: thứ nhất, người Việt Nam và Trung Quốc thờ nhiều vị thần tài chứ không phải duy nhất một thần là Triệu Công Minh. Thứ hai, Triệu Công Minh không phải là “Tài Bạch Tinh Quân”.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, tài thần (hay thần tài) được chia thành những nhóm sau:



- Văn tài thần文財神: gồm có Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君,Tỉ Can 比幹, Phạm Lãi 範蠡, Phúc Lộc Thọ Tam Tinh (Tam Đa) và Tài Hòa Hợp nhị tiên (hai nữ tài thần của người sản xuất đồ gốm sứ, chạm khắc gỗ, thợ nung vôi và người bán quạt).

- Vũ Tài thần 武財神: gồm có Quan Thánh Đế quân 關聖帝君 (tức Quan Vũ - 關羽, Quan Vân Trường  關雲長) và Triệu Công Minh 趙公明.

Thiên Tài thần 偏財神: gồm có Ngũ Hiển Tài thần 五顯財神 và Ngũ Lộ Tài thần 五路財神.

- Chuẩn Tài thần  准財神 : Lưu Hải Thiềm 劉海蟾.

- Các tài thần trong Phật giáo Mật tông: gồm có Hoàng Tài thần黄财神, Tài Nguyên Thiên Mẫu 財源天母, Ngũ Tính Tài thần 五姓財神 - còn gọi là Ngũ sắc tài thần 五色財神.
Ở đây, chúng tôi xin phép trình bày về hai vị tài thần có liên quan với bài viết của ông An Chi, đó là Triệu Công Minh và Tài Bạch Tinh Quân.

- Triệu Công Minh 趙公明: là Thần tài âm phủ, có gương mặt đen sạm, bộ râu rậm rạp, tay cầm chiếc roi sắt cưỡi trên lưng con cọp đen (gọi là Hắc Hổ Huyền Đàn 黑虎玄壇). Vị Thần tài này là một vị võ tướng có khả năng phục yêu trừ ma, có thể chiêu tài lợi thịTheo Đạo giáo, Triệu Công Minh là người Chung Nam Sơn 終南山, sống vào thời nhà Tần (秦朝). Ông sinh ngày mùng 5 tháng giêng, được Ngọc Hoàng Đại đế phong là Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Súy 正一玄壇元帥, do đó ông còn có tên gọi là Triệu Huyền Đàn. Nhưng theo “Phong Thần bảng”, Triệu Công Minh sinh vào thời Ân Thương 殷商, sống ở động La Phù 羅浮 núi Nga Mi 峨眉, được phong là Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân quân 金龍如意正一龍虎玄壇真君, thống lĩnh bốn bộ hạ là Nạp Trân Thiên tôn Tào Bảo 納珍天尊曹寶, Chiêu Tài Sứ giả Trần Cửu Công 招財使者陳九公, Chiêu Bảo Thiên tôn Tiêu Thăng 招寶天尊蕭升 và Lợi Thị Tiên quan Diêu Thiếu Tư 利市仙官姚少司. Bộ năm này có nhiệm vụ coi việc tài phú trong dân gian. Hiện nay, ở miền bắc Trung Quốc, phần lớn các cửa hàng đều thờ cúng Triệu Công Minh, còn miền nam thì đa số thờ Quan Công.

- Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君: là Thần tài trên trời. Tài Bạch Tinh Quân còn được gọi là Tăng Phúc Tài thần增福財神, một vị thần tài phổ biến và tôn quý nhất. Tương truyền ông là sao Thái Bạch 太白, thuộc Kim Thần 金神, có chức vụ trên trời là Đô Thiên Chí Phú Tài Bạch Tinh Quân, chuyên quản kim ngân, tiền tài. Ông là vị thần có vẻ ngoài phúc hậu, đầu đội mão Tể Tướng, mặt trắng, có 5 chòm râu dài, mặc áo hồng bào, thắt dây lưng ngọc đái, tay cầm một cái bồn chứa đầy vàng bạc, trên bồn có bốn chữ Chiêu Tài Tiến Bảo  招財進寶. (Có tài liệu cho rằng ông cầm thỏi vàng Nguyên Bảo trên bàn tay trái, bàn tay phải cầm cuộn sớ cũng ghi chữ Chiêu Tài Tiến Bảo hoặc tay cầm bảng Thiên Quan Tứ Phúc 天官賜福).

Vương Trung Hiếu

Y-éc-xanh là ai? (Thùy Ngân - Thanh Niên)

Tác-giả: Thùy-Ngân
Báo Thanh niên, 02/05/2012 3:08 GMT+7
Viết đúng, phát âm chính xác tên của một người là thể hiện sự tôn trọng, phép lịch sự trong giao tiếp. Đối với tên riêng nước ngoài, điều này thật sự càng có ý nghĩa. Có nhiều câu chuyện cho thấy tầm quan trọng của việc gọi đúng tên, đúng người.
Theo Dale Carnegie, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Đắc nhân tâm (How to win friends & influence people), một trong 30 nguyên tắc dẫn đến thành công là “Luôn nhớ rằng tên của một người là âm thanh êm đềm, thân thương và quan trọng nhất đối với họ”. Ông đã dẫn chứng trong lịch sử thế giới, nhiều người thành công vì biết rằng “mỗi cái tên dù đơn giản đến đâu, cũng chính là điều quan trọng và niềm vui của người ấy”.
Để khuyến khích sinh viên viết đúng tên riêng nước ngoài, cố Giáo sư Cao Xuân Hạo hay kể câu chuyện một chuyên gia ngôn ngữ học người nước ngoài thường yêu cầu mọi người hãy viết chính xác tên của ông. Ông có thể bỏ qua nếu tên bị đọc sai đôi chút nhưng không thể chấp nhận viết sai.
Nguyên tắc đơn giản nhưng quan trọng này dường như bị xem thường trong cách giáo dục của chúng ta. Lâu nay, từ sách giáo khoa (SGK) đến một số văn bản khác vẫn dùng lối phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt theo kiểu chữ viết một đằng, phiên âm một nẻo. Điều này dẫn đến hậu quả là chúng ta chẳng những đọc sai mà còn khó viết đúng tên riêng, địa danh tiếng nước ngoài.
Trong SGK hiện hành có vô số những trường hợp phiên âm và từ nguyên bản khó khớp nhau, thậm chí phần phiên âm sai so với nguyên bản. Có những trường hợp, nhiều khi để nguyên bản còn dễ đọc hơn cả phiên âm.
Trong sách tiếng Việt lớp 3, tập 2 hiện hành có những từ phiên âm khiến chúng ta vừa buồn cười vừa lo ngại cho con cái. Vì nếu quen đọc theo kiểu này, về sau nếu tiếp xúc từ nguyên bản làm thế nào học sinh có thể đọc đúng? Chẳng hạn tên bác sĩ Yersin được phiên âm thành Y-éc-xanh, tay đua xe đạp nổi tiếng thế giới Armstrong đọc là Am-xtơ-rông… Tên nhà bác học Edison chắc hẳn không khó để những người làm SGK phiên âm thành Ê-đi-xơn? Những người tên tuổi đã vậy, với những cái tên bình thường như Cô-rét-ti, Xtác-đi, Nen-li… người đọc đành “bó tay” nếu muốn biết từ nước ngoài. Buồn cười nhất là trong thời đại này mà vẫn phiên âm in-tơ-net cho từ internet! Chắc hẳn không ít người đã từng bối rối khi muốn biết từ tiếng Anh của các thành phố trong SGK môn địa lý như thành phố Lốt An-giơ-let, Côn-ca-ta, Xơ-un, Tê-hê-ran, Niu Đê-li, Gia-các-ta…
Cách phiên âm này có thể phù hợp trong một giai đoạn, khi nước ta chưa có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, trình độ dân trí còn thấp, mức độ hội nhập chưa cao… Ngày nay, tình hình đã khác. Theo chương trình giáo dục hiện hành, trẻ lớp 3 đã bắt đầu học ngoại ngữ. Chưa kể ở các thành phố lớn, trẻ đã tiếp xúc với ngoại ngữ (tiếng Anh) từ mẫu giáo, lớp 1 nên rất khập khiễng khi chúng ta vẫn dùng lối phiên âm theo kiểu mấy chục năm trước. Cuộc sống đã có quá nhiều thay đổi nhưng nhiều điều trong nền giáo dục của ta rất cũ, đứng im từ bao nhiêu năm qua. Khi đối tượng học sinh ngày nay đã tiếp xúc ngoại ngữ từ rất sớm, tiếp cận internet từng phút mà chúng ta vẫn dùng cách phiên âm từ nước ngoài theo kiểu đã tồn tại hàng mấy thập niên thì sẽ không tránh khỏi những bất cập. Chính vì thế dù SGK dạy vậy nhưng khi phải vận dụng trong thực tế, những người hiểu biết đều không theo cách phiên âm đã được dạy. Và nhiều văn bản chính thống khác vẫn không chuộng cách phiên âm của sách SGK.
Cần phải thay đổi. Theo cách nào đó thì những người quản lý giáo dục và nhà ngôn ngữ học nước nhà phải tính, nhưng chắc chắn người học ngày nay không thể chấp nhận những điều đã quá lạc hậu so với cuộc sống.

Sunday 29 July 2012

Văn minh kinh xáng (Nhâm Hùng)


Biên khảo: NHÂM HÙNG 
Mở đầu kế hoạch khai thác lớn ở miền Hậu Giang, người Pháp tiến hành đào kênh xáng Xà No xuyên qua cánh đồng hoang vu rộng, lớn nằm giữa 2 tỉnh Cần Thơ - Rạch Giá. Với việc thi công cơ giới bằng 4 chiếc máy xáng, chỉ trong vòng 3 năm (1901-1903) công trình thủy nông được cho là lớn nhất Nam kỳ đã hoàn thành, mang lại nhiều lợi ích. Tính theo độ dài 34 km, mặt kênh rộng 60 m, chỉ cần mỗi bên đưa nước tưới tiêu vô sâu 1 km, thì sẽ cần gần cả trăm ngàn mẫu (ha) được hưởng lợi từ dòng kênh này.

Kênh xáng Xà No ngày nay. Ảnh: HIỀN THANH

Khởi đầu từ phía Vàm Xáng, ngay cái nôi miệt vườn Phong Điền - bờ Tây sông Hậu; lại sát chợ Cái Răng, gần thủ phủ Cần Thơ nên kênh xáng Xà No có thêm điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tác dụng. Trong một thời gian ngắn, đã làm thay đổi diện mạo một vùng đất úng ngập, ứ phèn quanh năm; sinh sôi biết bao giá trị mới trong phát triển kinh tế và nâng cao đời sống văn hóa.

Trong sách biên khảo “Tìm hiểu đất và người Hậu Giang” (NXB Phù Sa, 1959), Nhà Nam Bộ học Sơn Nam từng đưa ra khái niệm về “... một hình thức văn minh ngộ nghĩnh”, ông tạm gọi là “Văn minh kênh xáng” theo sau những dòng kinh mới đào bằng cơ giới. Xuất phát điểm của những nét “Văn minh kênh xáng” ấy, phải chăng từ vùng đất chịu ảnh hưởng của dòng nước Xà No, rồi lan tỏa khắp nơi?

Để góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề, ta hãy đi tìm những lý giải lần qua các “manh mối”:

* Văn minh trong mở mang kinh tế

Trước tiên là phương thức sản xuất nông nghiệp theo hình thức “điền”! Cần phân biệt rõ: kiểu đồn điền “thời đàng cựu” của Triều Nguyễn làm chức năng kinh tế kết hợp với quốc phòng (đồn + điền). Trong khi đó, hình thức “điền” dưới thời Pháp thuộc chỉ đơn thuần canh tác nông nghiệp, nó giống như “nông trại”, “trang trại” nhưng hầu hết đất đai đều khoán cho tá điền canh tác. kênh xáng Xà No đào xong, nhiều dạng điền theo đó ra đời như dân gian quen gọi:

- Điền Tây: vùng đất ruộng do người Pháp làm chủ, như: điền Tây Albert Gressier (nhiều người còn kêu là điền Tây Be, điền Ông Kho, điền Bảy Ngàn). Đây là điền lớn nhất trong vùng Xà No, canh tác gần 30.000 mẫu. Tại khu vực xã Nhơn Nghĩa, còn có điền Tây Duval và Guery sở hữu 2.500 mẫu.

- Điền hảng: tức khu vực đất ruộng do các công ty của Pháp đầu tư, quản lý, khai thác như điền của Công ty Đông Pháp, điền của Công ty Bat-tam-băng, điền của Ngân hàng Đông Dương v.v... diện tích chung khoảng 10.000 mẫu.

- Điền của người Việt, thường là ruộng đất của các ông Hội đồng, Phủ hàm, quan chức địa phương.

Mặc dù các chủ điền luôn có các thủ đoạn bóc lột, vơ vét nhưng có thể nói: hình thức canh tác trong các điền vùng kênh xáng Xà No, đã cho thấy những bước tiến mới, mang lại hiệu quả rõ nét:

Để mở rộng diện tích ruộng đất hai bên bờ kênh, các chuyên gia nông nghiệp Pháp cho đào tiếp: cứ cách 500 m, xẻ 1 kênh nhỏ; cách 1.000 m đào một con kênh lớn hơn theo lối đào “xôm lươn” để điều hòa dòng chảy. Vô sâu 1.000 m, đào nối bằng những con kênh sườn, khép kín các khu đất như những ô bàn cờ. Nhờ phương pháp thủy lợi này, việc tưới tiêu nhanh chóng, góp phần biến đất hoang thành đất thuộc, mở rộng thêm diện tích, gia tăng năng suất, sản lượng lúa.

Khi ổn định sản xuất, khoảng từ 5-10 năm sau ngày đào kênh xáng Xà No, các chủ điền mạnh dạn đầu tư cho ngành công nghiệp xay xát lúa gạo. Điển hình nhất là nhà máy xay lúa Ông Kho (Bảy Ngàn) với hệ thống kho lớn đặt trên diện tích rộng gần 2 mẫu, công suất xay mỗi ngày đến 300 tấn. Có tài liệu nói đây là Nhà máy xay xát lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Lần hồi các nhà máy xay Vàm Xáng, Vị Thanh tiếp tục ra đời. Đặc biệt, tại chợ Cái Răng - người Hoa kiều bỏ vốn lập hàng chục nhà máy xay bên cạnh các chành lúa khổng lồ, được mua gom từ phía Rạch Giá, Bạc Liêu và vùng lân cận theo kênh xáng Xà No đưa về xay xát, rồi chở lên Chợ Lớn xuất cảng. Do bước phát triển mới này - chợ Cái Răng trở thành một đô thị công nghiệp lúa gạo đầu tiên ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ đứng sau Chợ Lớn.

Nhịp nhàng với sự phát triển nông, công nghiệp - hoạt động thương mại gắn với kênh xáng Xà No cũng nhanh chóng lớn mạnh, theo xu thế kinh tế hàng hóa. Mỗi điền Tây, điền Ta đều có đoàn ghe chài, ghe tam bản luồn sâu vô làng, xóm mua gom lúa gạo. Riêng điền Tây Be có đến 30 ghe chài lớn. Từ chợ Cái Răng, các chủ nhà máy, chủ chành lúa, ghe chài, thương lái, nhân công có mặt khắp vùng nông thôn, theo kênh xáng Xà No đi mua gom lúa gạo, cạnh tranh với các điền.

Sinh hoạt mua bán lúa gạo nhộn nhịp, khiến một bộ phận nông dân tách ra làm công nhân, thợ thuyền, phu khuân vác; một bộ phận khác vừa sản xuất, lại vừa kiêm thêm nghề mua bán khi mạng lưới chợ hình thành. Chỉ tính dọc theo kênh xáng Xà No, đến giữa thế kỷ XX, đã xuất hiện nhiều khu chợ sung túc như: chợ Vàm Xáng (lập năm 1907), chợ Một Ngàn, chợ Bảy Ngàn, chợ Cái Nhum, chợ Hỏa Lựu v.v... Đáng kể là do nhu cầu kinh tế phát triển, chợ trên bờ quá tải đã thúc đẩy sự ra đời của chợ nổi Cái Răng, tiếp sau là chợ nổi Phong Điền. Lúc này, trên các sông, kênh, rạch quanh vùng... ghe thương hồ luôn có mặt, sẵn sàng cung ứng cho mọi người các hàng hóa thiết yếu. Tại các ngã ba, ngã tư sông, nơi dân cư đông đúc, nhiều ghe, xuồng đi bán đồ ăn, thức uống, chè, cháo, bánh, trái... tạo nên một nghề đặc trưng: nghề “bán vàm”!

Chỉ sau một thời gian ngắn, vùng kênh xáng Xà No đã trở thành một địa bàn chiến lược, đi đầu trong mở mang, phát triển miền Hậu Giang trên cả ba lĩnh vực gắn kết một cách liên hoàn giữa nông nghiệp, công nghiệp và thương mại - dịch vụ.

* Văn minh cư trú và lối sống người kênh xáng - Hậu Giang

Kênh xáng Xà No đào tới đâu, mọi người kéo nhau tới đó dựng lều, giành đất mặt tiền cất nhà ở để thuận tiện cho việc sinh sống, làm ăn. Khi các kênh ngang, kênh sườn đào tiếp sâu vô hai bên bờ, số người đến lập nghiệp càng đông đảo, tạo thành làng xóm ở dọc theo mặt tiền các con kênh, gọi là đất bờ xáng. Lần hồi, đất bờ xáng càng có giá trị, bởi sự “liền canh, liền cư”, lại cao ráo, thích hợp với nghề làm vườn, ít bị ngập lụt trong mùa mưa. Giá đất ở bờ xáng cao gấp nhiều lần so với đất ở bờ sông, rạch. Khi mặt tiền bờ xáng Xà No hết chỗ, người ta lấn sâu vô trong cất nhà ở đến 2, 3 lớp. Tại các ngã ba, ngã tư sông dân cư ở tập trung, mở chợ, xây đình, cất trường học mà đầu tiên là Vàm Xáng, xã Nhơn Nghĩa (1907).

Sự tập trung gia cư dọc theo đất bờ xáng tạo nên hình thức cộng đồng mới; một nét văn minh cư trú được kết nối từ những thành quả; bước tiến mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế. Nhiều tài liệu cho thấy: thời trước, các lớp người khẩn hoang thường đi sâu vô trong ruộng để dễ bề canh tác. Họ ở xa bờ sông rạch vì ở đó thường là rừng rậm, nhiều sấu, cọp, hiểm nguy. Đến khi các con kênh xáng được đào, đất được khai hoang thì kiểu cách cư trú trong ruộng, được dịch chuyển ra đất bờ xáng.

Hình thức cộng đồng mới bên bờ kênh xáng đã tạo nên nét sinh hoạt, lối sống, tính cách của “người kênh xáng”, hay còn gọi là “người Hậu Giang” mà trung tâm là vùng sản xuất nông nghiệp phát triển phía bờ Tây sông Hậu thuộc các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu v.v...

Định cư nơi sông sâu nước chảy, đất ruộng thẳng cánh cò bay, nông dân - tá điền tuy có vất vả, nhưng cuộc sống cũng khá đủ đầy, có người cho rằng đất miền Hậu Giang tốt “làm chơi mà ăn thiệt” theo lối ruộng sạ bỏ đó, cuối mùa cũng gặt hái 5-7 giạ một công. Do vậy, họ không lo nghèo, sợ đói.

Người kênh xáng - Hậu Giang quan niệm “có làm phải có chơi”, nhất là dịp tết lúc nông nhàn, họ bày ra nhiều kiểu giải trí, “chơi bời” vừa lành mạnh lại vừa tiêu cực:

Giới địa chủ, phú nông, hương chức làng thường hay bày cuộc chơi đờn ca tài tử vào dịp cưới hỏi, giỗ quảy, thôi nôi, đầy tháng... vùng kênh xáng Xà No có Ban đờn ca tài tử Ái Nghĩa nổi danh, nhiều nghệ nhân tên tuổi.

Ban đêm đờn ca, ngày thì đá gà, đá cá lia thia; già, trẻ, lớn, bé, đều ưa thích. Tất nhiên, không ít người sạt nghiệp, trắng tay vì máu mê cờ bạc. Theo các vị cao niên: ở kênh xáng Xà No có “trường gà” thầy Tường là sòng đá gà nổi danh, thu hút nhiều tay chơi xa, gần.

Trong các dịp hội hè, hương chức làng thường tổ chức thi tài hò đối đáp giữa trai và gái, các vị bô lão, người sành điệu được mời chấm thi. Nhờ lối tổ chức ngày sinh hoạt hò đối đáp phát triển mạnh trên các kênh rạch. Trong làng không chỉ có “lò” đờn ca tài tử mà còn có thầy dạy hò tiếng tăm. Từ cách sinh hoạt, giải trí đa dạng nên lối sống, tính cách người kênh xáng - Hậu Giang rộng rãi, hào phóng nhiều khi khá “hào hoa”. Gặp khách phương xa tới nhà chơi, họ có thể nghỉ làm vài buổi để tiếp đãi, hàn huyên. Thấy người hoạn nạn, khốn khó hơn mình họ sẵn sàng ra tay “nghĩa hiệp” như cho mượn lúa, mượn gạo ăn tới mùa sẽ trả. Mặt khác, chuyện tình duyên đôi khi cũng khá giản đơn. Chỉ cần cảm nhau qua vài câu hò, lời ca tài tử họ có thể “gá nghĩa trăm năm”.


* Sự phong phú về địa danh và tiếng Việt Nam bộ

Kênh xáng Xà No, rồi các cụm kênh Ngã Bảy, Ngã Năm nối tiếp ra đời không chỉ kích thích các hoạt động kinh tế, mà còn góp thêm sự phong phú về địa danh và tiếng Việt Nam bộ.

Trong 100 năm hình thành, kênh xáng Xà No đã sản sinh nhiều địa danh dân gian khá thú vị:

Ngay đoạn máy xáng khởi đào nối rạch Cần Thơ, địa danh “Vàm Xáng” đã xuất hiện, lần hồi lại phát triển thêm tên chợ Vàm Xáng, nhà máy xay lúa Vàm Xáng v.v...

Khi xáng đào bứt đoạn rạch Xà No, dân gian lại có thêm địa danh “Xà No bứt”.

Đáng chú ý là từ chiếc máy xáng, kênh được đào trở thành kênh xáng. Rồi từ con kênh xáng, lại “nở” thêm nhiều địa danh, tên công trình công cộng có chữ xáng kèm theo:

- Cầu Xáng: cầu bắc ngang kênh xáng.

- Chợ cầu Xáng: chợ gần cây cầu Xáng.

- Xáng Mới: địa danh nơi kênh xáng vừa mới đào. Huyện Châu Thành A có ấp Xáng Mới gần chợ Rạch Gòi.

- Xáng Chìm: địa danh xóm, khu dân cư có chiếc xáng bị chìm.

- Xáng Nổ: địa danh xảy ra sự cố nổ máy xáng khi đang thi công đào kênh.

- Xáng Bộ: địa danh có con kênh thi công từ loại máy đào chạy trên bộ. Kênh xáng Bộ cắt ngang kênh xáng Lái Hiếu (ngã tư xáng Bộ, huyện Phụng Hiệp).

Lúc đầu, người ta gọi nguyên tên như kênh xáng Xà No, kênh xáng Lái Hiếu, kênh xáng Nàng Mau... về sau, họ nói rút gọn chỉ còn ba từ: xáng Xà No, xáng Lái Hiếu, xáng Nàng Mau...

Một điểm khác đặc biệt là sự xuất hiện của các địa danh bằng chữ số, dọc theo kênh xáng Xà No. Do cách đo đạc, tính toán lưu lượng dòng chảy phục vụ việc tưới tiêu - các chuyên gia nông nghiệp đã cho thi công: cách 500 m đào một kênh nhỏ, cách 1.000 m đào một kênh lớn hơn. Ở giao điểm các kênh đào này thường tập trung dân cư, đặt cơ sở làng hay trung tâm chợ, nhà máy... Từ đó nhiều địa danh chữ số ra đời, theo dấu mốc kênh đào ở một số cụm dân cư:

- Một Ngàn: con kênh Xà No ở dấu mốc (cây số) đầu tiên đưa nước tưới tiêu vô sâu trong ruộng. Sau này do cư dân đông đúc nên hình thành chợ Một Ngàn, nay là thị trấn, huyện lỵ - huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

- Bốn Ngàn: địa danh có khá nhiều dân cư sinh sống.

- Bảy Ngàn: địa danh trung tâm kênh xáng Xà No, nơi đặt nhà máy Ông Kho và “trụ sở” điền Tây Be, lớn nhất trong vùng.

- Tám Ngàn: cũng là điểm dân cư tập trung, cách điểm Bảy Ngàn 1 km. Ngày nay, Tám Ngàn một bên thuộc huyện Châu Thành A, một bên thuộc huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.

- Mười Một Ngàn: điểm dân cư dọc theo kênh Mười Một Ngàn, một phần trên địa bàn xã Vị Thanh, một đoạn thuộc xã Vĩnh Trung, huyện Vị Thủy.

- Mười Bốn Ngàn: điểm dân cư gần phía hạ nguồn kênh xáng Xà No... Nay thuộc xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Phát triển từ tên số các con kênh, dân gian còn đặt thêm nhiều địa danh khá ngộ nghĩnh như: Bốn Ngàn Rưỡi, Tám Ngàn Dài, Tám Ngàn Cụt... Việc hình thành các địa danh chữ số, do mọi người quen gọi, lâu dần thành địa danh dân gian, đôi khi được nâng nên thành địa danh hành chính. Đây cũng là một nét đặc trưng về văn hóa địa danh hiếm thấy ở Nam bộ.

Bên cạnh sự nở rộ của địa danh, tiếng Việt Nam bộ ở vùng kênh xáng cũng cho thấy sự phong phú. Nhiều lời ăn tiếng nói có kèm theo từ “xáng” trong sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày người ta vẫn hay sử dụng.

Khi các máy xáng thi công, tên “xáng” bằng tiếng Pháp lập tức được Việt hóa: tên máy xáng Loire được mọi người kêu là “Xáng La”; chiếc xáng Nantes, trở thành xáng “Năn”. Họ phân biệt kiểu đào kênh khá rõ qua các từ như: xáng cạp, xáng múc, xáng thổi, “sở xáng”, “hãng xáng” là công ty tàu cuốc chuyên đào kênh của Pháp.

Từ thực tế địa bàn, đời sống cư dân vùng kênh xáng Xà No - kiểu hình thành địa danh và tiếng Việt Nam bộ, gắn với kênh xáng dần lan tỏa ra nhiều vùng. Do đó nơi nào có đào kênh xáng nhất thiết sẽ ra đời những địa danh na ná như nhau. Trên đường Quốc lộ 1A từ TP.Hồ Chí Minh về miền Tây, qua địa bàn xã Long Định, huyện Châu Thành (Tiền Giang) có cây cầu Xáng khá dài. Ở Tri Tôn (An Giang) cũng có địa danh kênh xáng. Vùng Cà Mau có kênh xáng Đội Cường, kênh xáng Bà Kẹo. Thế nhưng, chỉ ở vùng Cần Thơ, Hậu Giang mới có nhiều địa danh gắn với chữ xáng, vì nơi đây có nhiều kênh xáng được đào.

* Văn nghệ dân gian theo dòng kênh xáng

Chuyện kể là hình thức văn học truyền miệng xuất hiện ngay khi kênh xáng Xà No mới đào.

Theo các vị cao niên, ở khoảng giữa chợ Một Ngàn và Vàm Xáng có một đoạn kênh hơi lệch gần 200. Vì sao? Là do lúc các chuyên gia Pháp phóng kênh trúng vô nhiều đất của một ông Hội đồng, nên ông này nhờ tay thông ngôn nói với viên quan Tây vẽ cho đoạn kênh này lệch qua. Nếu được ông Hội đồng sẽ gả con gái cho anh thông ngôn. Cuối cùng lấy lý do để giảm sức nước chảy, người thông ngôn đã thuyết phục được viên quan Tây. Tất nhiên, sau này anh ta trở thành chàng rể quý của ông Hội đồng.

Theo nhà “Nam Bộ học” Sơn Nam: gọi là kênh xáng Xà No bởi vì kênh khởi đào từ rạch Xà No; một khu xóm của bà con Khmer, cạnh xóm làng người Việt. Nơi đây, có nhiều cây điên điển, tiếng Khmer gọi là Snor (Xà No). Xa hơn về phía hạ nguồn, tại xã Tân Hòa (huyện Châu Thành A), nay vẫn còn một khu dân cư người Khmer sinh sống, có ngôi chùa phật tồn tại khá lâu.

Trong khi đó, trong các dịp “trà dư, tửu hậu”, lại có người kể rằng: chữ Xà No bắt nguồn từ câu chuyện vùng đất này khi xưa có một con mãng “xà” rất lớn. Ngày nọ, nó nuốt vào bụng cả một con nai to, đến “no nê”... nên người ta mới đặt luôn cho địa danh “Xà No”.

Cùng với chuyện kể, tục ngữ, ca dao là một hình thức văn học gắn liền với kênh xáng Xà No, mang nội dung hết sức phong phú:

Kênh xáng Xà No vừa đào, khung cảnh thi công nhộn nhịp, khiến người ta đã mượn ngay chuyện đào kênh để tỏ tình:

“Kênh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao Quỳnh khó câu”

Trước đó, vùng rạch Cần Thơ ai cũng quen câu ca dao: “Cái Răng - Ba Láng - Vàm Xáng - Phong Điền”. Đến khi đào kênh xáng Xà No, nội dung chùm ca dao trên nhanh chóng được biến đổi thành:

“Cái Răng - Ba Láng - Vàm Xáng - Xà No
Anh có thương em thì mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh”


Nhận biết được văn minh phương Tây, người kênh xáng - Hậu Giang lấy sự bền vững các phương tiện cơ giới để chứng tỏ cho lời hẹn thề trai, gái:

“Quả năm ngăn trong lòng son đỏ
Mấy lời to nhỏ bỏ bậu sao đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia liệt máy anh mới đành bỏ em”

Kênh xáng Xà No ra đời, nghề mua bán lúa gạo phát triển. Những đoàn ghe chài dọc ngang vô sâu trong điền mua gom lúa gạo, khiến một bộ phận nông dân chuyển sang làm bạn ghe, chèo ghe, vác lúa. Công việc quá cơ cực, nặng nhọc đến nỗi có lời ca dao khuyên can một cách tế nhị:

“Đừng ham hốt bạc ghe chài
Nhịp cầu cao (?) bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi”


Dân cư đông đúc tại các ngã ba, ngã tư kênh xáng nổi lên nghề bán vàm. Từ đây, lối rao hàng dần biến thành các điệu hò sông nước qua lời rao: “Ai ăn bánh bò không...” dần phát triển thành “Ai ăn bánh bò hông...” rồi “Ai ăn bánh bò hơ...”

Có người quanh năm suốt tháng gắn bó với nghề bán vàm:

“Tháng giêng, tháng hai tôi đi bán sương sa, sương sáo
Tháng năm, tháng sáu tôi đi bán bánh bò bông”

Trên dòng kênh xáng, nghề thương hồ cũng lắm lúc khó khăn khiến người ta buông câu than vãn:

“Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê”


Hoặc như:

“Chèo ghe đi bán cá vồ
Nước chảy ồ ồ chẳng thấy ai mua”

Bình thường, nói đến điền Ông Kho (Bảy Ngàn) ai cũng biết là lớn lao, đồng ruộng mênh mông bát ngát, ghe chở lúa gạo bán mua dập dìu. Vậy mà cũng có lúc điền chủ lao đao, tá điền lâm vào cảnh khốn khổ do mùa màng thất bát, khiến họ nhớ đời:

“Hỡi anh còn nhớ Bảy Ngàn
Củ co ăn với củ bàng thế cơm!”


Bên cạnh ca dao, nhiều tục ngữ về đời sống cũng gắn liền với từ xáng, như:

“Ăn như xáng múc
Làm như lục bình trôi”


Rõ ràng, từ khái niệm “máy xáng” rồi “kênh xáng” đã gợi mở cho dân gian “sáng tạo” nên những giá trị văn học bình dân đặc thù, có mặt thường nhật trong đời sống xã hội. Có lẽ, khởi đầu việc hình thành những giá trị này là từ vùng kênh xáng Xà No, bởi ở đây đào kênh xáng sớm nhất. Sau đó, nhân rộng đến vùng Ngã Bảy, Ngã Năm, rồi trở thành những nét văn hóa đặc trưng phổ biến rộng khắp miền Hậu Giang cho đến ngày nay. Từ truyền thống này, nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đương đại vẫn nối tiếp ra đời theo dòng chảy kênh xáng Xà No, làm đẹp thêm cho gương mặt miền Hậu Giang xưa và Tây sông Hậu hôm nay.

* * *

Bàn về “văn minh kênh xáng” cũng là bước đi về nguồn, tìm hiểu và góp phần đúc kết những thành quả của các thế hệ tiền nhân ở nhiều chiều, nhiều dạng:

“Văn minh kênh xáng” bắt đầu từ việc cơ giới hóa khâu thủy nông, thúc đẩy hình thức sản xuất khép kín trong các điền - nét văn minh ấy còn mở ra bước tiến mới cho ngành công, thương, dịch vụ góp phần quyết định để miền Hậu Giang trở thành trung tâm lúa gạo lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ. Chỉ 5 năm sau ngày đào kênh xáng Xà No, lúa gạo miền Hậu Giang đưa đi xuất cảng tăng vọt: chiếm đến 900 ngàn tấn, trong tổng số 1 triệu 300 ngàn tấn của toàn Nam kỳ.

Những con kênh xáng còn tạo ra một dạng đời sống xã hội đặc trưng, qua nét văn hóa cư trú, văn hóa thương hồ mang đậm bản sắc sông nước miệt vườn. Từ đó, hình thành một cách rõ nét về lối sống, tính cách “người kênh xáng - Hậu Giang” trong cộng đồng cư dân Nam bộ - Đồng bằng sông Cửu Long.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
SÁCH - TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tự vị tiếng nói miền Nam, Vương Hồng Sển (NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 1999)
- Tìm hiểu đất Hậu Giang, Sơn Nam (NXB Phù Sa - Sài Gòn 1959)
- Tạp chí xưa và nay số 286 (2007)
- Cuộc đời, sự nghiệp các văn nghệ sĩ Cần Thơ, Sở VHTT TP.Cần Thơ (2006)
- Lịch sử Đảng bộ huyện Châu Thành, Huyện ủy Châu Thành (1999)
- Văn minh miệt vườn, Sơn Nam (NXB Văn Hóa, 1992).

NHÂM HÙNG