(VTC News) - Những công dân Liên Xô gia nhập quân đoàn lê dương rồi chạy sang đứng về phía Việt Minh trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai, khi Đức xâm lược Liên Xô, họ bị Đức quốc xã bắt làm tù binh. Sau khi Đức thua trận, họ lưu lại trên lãnh thổ các quốc gia mà quân Đồng minh gồm Mỹ, Anh và Pháp kiểm soát. Cuộc sống khó khăn buộc họ phải tham gia đội quân lê dương.
Ở Việt Nam, có một người lính lê dương là cựu phi công Biblichenko làm việc tại sân bay Gia Lâm. Ở đó, ông đã chiếm chiếc máy bay quân sự của Pháp và bay sang phe du kích ở tỉnh Yên Bái.
Một người Nga khác là Fyodor Bessmernyi đã rời hàng ngũ lê dương với khẩu súng của mình, chạy trốn vào rừng, gặp Tiểu đoàn 307 nổi tiếng và bắt đầu tham gia kháng chiến chống Pháp. Những người đồng đội Việt Nam đặt cho ông cái tên mới là Anh.
Đi tìm những lính lê dương Liên Xô chạy sang Việt Minh
Ảnh: RIA Novosti 
Fedor- Anh nói thạo tiếng Việt, vốn là tay gài mìn xuất sắc nên ông đã tham gia vào việc thiết kế và tiến hành các hoạt động chiến thuật. 
Ông được trao tặng hai huy chương của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiểu đoàn làm mối cho Fedor kết hôn với bà Nguyễn Thị Vinh. Họ có với nhau hai đứa con và trở về quê hương vào năm 1958. 
Sau khi ông mất, người vợ và hai con của ông đã về Việt Nam. Sau này, một trong hai người con trai của ông là Nicholai đã quay lại Liên Xô và định cư ở Donetsk, ngày nay thuộc Ukraina.
Trong tiểu đoàn đó, cùng chiến đấu chống Pháp còn có một người lính lê dương khác là Platon Skrzhinskiy. Khi Đức quốc xã xâm lược Liên Xô, người lính trẻ Platon bị bắt làm tù binh. 
Khi Đức thất bại, ông đang ở trên lãnh thổ do người Pháp kiểm soát. Năm 1946, ông gia nhập lê dương và được gửi đến Việt Nam. 
Ông phục vụ tại Vĩnh Long và sau đó tại Bến Tre – làm tài xế lái xe tải chở nước cho linh lê dương. Tại trạm bơm, ông đã móc nối liên lạc được với du kích Việt Nam và đào ngũ, sang với Việt Minh trong mùa hè năm đó. 
Ông được đặt tên Việt Nam là Thành, đảm nhận nhiệm vụ nhân viên liên lạc, xạ thủ và chỉ huy đội công binh. Tám năm liền ông phục vụ trong lực lượng vũ trang miền Nam. 
Trong thời gian đó, ông gặp một người con gái Bến Tre tên là Mai và kết hôn với cô năm 1948. Năm sau, họ có một con gái đặt tên là Janine.
Năm 1955, trước khi Platon quay về Liên Xô, ông được mời đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Việt Nam đích thân viết thư cho Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, công nhận sự đóng góp của "đồng chí Thành” đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. 
Tại Matxcơva, Platon Thành làm phiên dịch tiếng Việt ở Ban Việt ngữ Đài phát thanh đối ngoại Matxcơva, nay là đài phát thanh "Tiếng nói nước Nga". 
Là người biết tiếng Việt giỏi, hiểu rõ phong tục tập quán của người Việt Nam, ông là cố vấn cho hàng chục chuyên gia Việt Nam học của Liên Xô. Trước khi qua đời vào năm 2003, ông đã có cơ hội một lần nữa sang Việt Nam thăm đồng đội cũ và bà con của người vợ quá cố.
Con gái của Platon Thành là Janine cũng là nhân viên Ban Việt ngữ của Đài phát thanh Matxcơva và "Tiếng nói nước Nga". Janine cũng đã sang thăm nơi mà bà ra đời và trải qua thời thơ ấu. 
Hiện nay bà nghỉ hưu và sống ở Matxcơva cùng với con và cháu. 
Bà Janine nói: "Suốt cuộc đời mình, cha tôi đã gìn giữ tình yêu và sự tôn trọng đối với đất nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Ông luôn nhớ những người đồng đội ngày xưa, thường xuyên nói chuyện về những năm ông đã trải qua tại đất nước các bạn, cũng là nơi mà ông coi như ngôi nhà của mình. Việt Nam cũng là mảnh đất chôn rau cắt rốn của tôi.”
Những lính lê dương Nga đầu tiên ở Việt Nam
Tiến sĩ Anatoly Sokolov, chuyên gia Việt Nam học nói: “Tổng cộng có bốn làn sóng người Nga gia nhập quân đoàn viễn chinh nước ngoài tại Đông Dương. Đầu tiên là hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, làn sóng thứ hai là những năm 20 của thế kỷ trước, thứ ba - trong thời kỳ Thế chiến II, và làn sóng thứ tư là những năm trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất”.
Lính lê dương trong làn sóng đầu tiên về chủ yếu là những cư dân khu vực miền tây của đế chế Nga, rời bỏ đất nước vì những nguyên cớ kinh tế-xã hội hoặc dân tộc, tín ngưỡng và xung vào đoàn quân lê dương ở Pháp. 
Riêng có sinh viên Dmitry Yazev 100 năm trước đã gia nhập quân đoàn lê dương trực tiếp trên đất Việt Nam. 
Thời ấy, Dmitry và bạn bè du ngoạn khắp Trung Quốc, rồi từ đó họ đến Bắc Bộ. Dmitri hết sạch tiền bạc nên đã đăng lính lê-dương, nơi hàng tháng binh sĩ nhận khoản trợ cấp 100 franc – khoảng 500 gram bạc. 
Dmitry phục vụ đầy đủ hạn hợp đồng – 5 năm. Quay trở lại Nga, ông đã kể rất nhiều về đất nước Việt Nam, về thiên nhiên xứ nhiệt đới lạ kỳ. Cựu binh lê-dương này thường hồi tưởng lại chuyện một lần bạn đồng ngũ lê-dương trong đại đội ông đang canh gác thì bị hổ vồ tha vào rừng rậm.
Nhân đây cũng cần nói thêm, nếu với bản thân Dmitry quá trình phục vụ tại Việt Nam đã trôi qua không gặp biến cố gì, thì tai họa đã theo đuổi Dmitry khi ông hồi hương làm một thày giáo dạy toán ở Rostov. 
Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, ông bị đuổi việc và bị tống giam vì đã phục vụ trong quân đội nước ngoài. Không rõ những gì xảy ra sau đó với cựu binh lê dương này.
Năm 1921, có 107 lính lê dương Nga ở Việt Nam. Đến năm 1929, con số này lên đến 129 binh sĩ.
Làn sóng thứ ba những binh sĩ lê dương Nga bắt đầu vào năm 1939, khi Thế chiến II bùng nổ như đã nói ở phần trên. 

Theo Tiếng nói nước Nga