Friday 5 April 2013

Suy nghĩ về hướng tiếp tục tìm hiểu địa danh Cổ Loa (Trần Trí Dõi & Trần Thị Hồng Hạnh)


Suy nghĩ về hướng tiếp tục tìm hiểu địa danh Cổ Loa
(Qua cách giải thích địa danh này của Giáo sư Đào Duy Anh)

• Trần Trí Dõi & Trần Thị Hồng Hạnh

1. Dẫn nhập

1.1. Cổ Loa là tên làng và cũng là tên gọi toà thành của Thục An Dương Vương, vua nước Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam. Đây là một tên gọi Hán Việt, tương ứng với một tên gọi Hán Việt khác là Loa Thành hay thành Khả Lũ. Di chỉ thành này của An Dương Vương hiện nay thuộc làng Cổ Loa huyện Đông Anh, ngoại thành phía bắc Hà Nội.
Về ý nghĩa cũng như xuất xứ của ba địa danh nói trên, đã có nhiều cách lí giải khác nhau. Nhưng có lẽ giáo sư Đào Duy Anh là người có những giải thích chi tiết, có hệ thống và chứa đựng nhiều thông tin nhất. Trong bài viết này của mình, chúng tôi muốn thông qua cách giải thích của giáo sư xác định một hướng khảo sát bổ sung từ góc nhìn của ngôn ngữ học lịch sử với mục đích tiếp cận vấn đề chi tiết và hệ thống hơn nữa. Vì thế, nội dung của bài viết này thiên về phần đặt vấn đề, còn những lí giải chi tiết cho cách đặt vấn đề ấy sẽ được tiếp tục ở một bài viết khác tiếp theo.
1.2. Trong cuốn “Đất nước Việt Nam qua các đời”, khi trình bày về nước Âu Lạc và vấn đề Loa Thành, giáo sư Đào Duy Anh viết như sau:
“thành An Dương Vương là ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh thuộc Hà Nội ngày nay, thành ấy xây hình trôn ốc cho nên dược gọi là Loa Thành. Thuỷ kinh chú thì nói rằng trong huyện Bình Đạo có dấu cũ cung thành của An Dương Vương… Sách Thái bình hoàn vũ kí (q.170) ở đời Đường (thế kỉ thứ X) thì chép kĩ hơn mà nói rằng thành của An Dương Vương ở Bình Đạo có chín lớp, chu vi chín dặm. Mãi đến thế kỉ thứ XV người ta mới thấy trong thư tịch Trung Quốc có sách An Nam Chí [nguyên] chép đến tên Loa Thành là thành hình xoáy ốc mà tập truyền là của An Dương Vương. Trong thư tịch Việt Nam thì tên Loa Thành xuất hiện đầu tiên ở Lĩnh nam trích quái, điều ấy chứng tỏ rằng tên ấy đã có trong tập truyền của nhân dân từ trước. Lê Tắc (thế kỉ XIII) viết sách An Nam Chí Lược trước khi sách Lĩnh Nam trích quái được biên tập thì gọi thành ấy là thành Khả Lũ. Sách An Nam chí [nguyên] là sách sao tập nhiều đoạn của An Nam chí lược chép rằng Loa Thành cũng có tên là thành Khả Lũ. Cái tên Khả Lũ ấy khiến phải suy nghĩ. Chúng tôi nhận thấy Khả Lũ với Cổ Loa (tên làng hiện nay có di tích Loa Thành) là đồng âm. Nhưng Cổ Loa, theo chúng tôi, không có nghĩa là Loa Thành xưa (cổ). Muốn tìm hiểu ý nghĩa chữ cổ, chúng ta so sánh tên Cổ Loa với những tên Cổ Bôn và Cổ Định” (Đào Duy Anh: 1997, trang 30–31).
Đoạn trích trên đây của giáo sư cho chúng ta những thông tin rất hữu ích để tìm hiểu cặn kẽ không chỉ ý nghĩa mà cả dạng thức ngữ âm của những địa danh liên quan đến Cổ Loa. Theo chúng tôi, khi phân tích một cách chi tiết những thông tin quan trọng ấy ta thấy gồm có một số nội dung chính sau đây:
– Thứ nhất, tên gọi Cổ Loa, Loa Thành và Khả Lũ là những tên gọi Hán Việt và chúng xuất hiện trong thư tịch ở Việt Nam và Trung Quốc sớm nhất cũng chỉ thuộc vào từ (hoặc sau) thế kỉ XIII. Điều đó xác nhận rằng người ta có quyền suy ra trước thời điểm những tên gọi ấy có trong thư tịch, địa danh này sẽ là một tên gọi nôm theo cách gọi của dân gian người Việt. Và dường như những tên gọi Hán Việt có trong thư tịch về sau này chỉ là “sự Hán Việt hoá” tên gọi nôm đó theo những cách khác nhau mà thôi. Nhiệm vụ của chúng ta chính là gắng nhận biết những cách Hán Việt hoá khác nhau như thế của quá khứ.
– Thứ hai, trường hợp địa danh Loa Thành được giải nghĩa là “thành hình xoáy ốc” và ý nghĩa này liên quan đến ý nghĩa Hán Việt của từ Loa Thành. Theo đó, có thể địa danh là một từ Hán Việt được người ta dùng để ghi lại nghĩa của một tên nôm trước đây; nhưng cũng có thể ngược lại, địa danh là một từ Hán Việt chỉ thuần tuý ghi lại âm đọc của tên nôm, còn ý nghĩa là do suy ra từ nghĩa của từ Hán Việt sau khi nó đã trở thành địa danh. Tuy nhiên khi giáo sư Đào Duy Anh cho rằng “Cổ Loa không có nghĩa là Loa Thành xưa (cổ)”, ông đã gián tiếp cho chúng ta biết cái ý nghĩa “thành hình xoáy ốc” nghiêng về khả năng là do người ta diễn giải ra do suy từ nghĩa của chính từ Hán Việt khi nó đã trở thành địa danh để đánh dấu toà thành của Thục An Dương Vương.
– Thứ ba, theo giáo sư, Khả Lũ và Cổ Loa là “đồng âm”. Cách nói “đồng âm” này có nghĩa là hai địa danh đó có thể là hai dạng thức ngữ âm về sau khác nhau của cùng một dạng thức ngữ âm trước đây. Trong hai dạng thức ngữ âm khác nhau ấy, Khả Lũ và Cổ Loa, tên gọi nào có trước, tên gọi nào có sau rõ ràng là một vấn đề rất quan trọng và sẽ khá thú vị. Vì đó sẽ là một trong những chứng cớ có giá trị giúp chúng ta hiểu đúng ý nghĩa cũng như xuất xứ của các địa danh này.
Như vậy về mặt âm đọc để từ đó nhận biết xuất xứ, nếu theo cách giải thích của giáo sư Đào Duy Anh, trong ba địa danh Hán Việt đó, địa danh Loa Thành là một trường hợp có cách xử lí ngữ âm riêng, cách xử lí ngữ âm theo kiểu của người Trung Quốc; còn lại hai địa danh Khả Lũ và Cổ Loa hình như có một cách xử lí ngữ âm khác. Về mặt ý nghĩa, địa danh Cổ Loa và Khả Lũ được xếp vào một bên, còn Loa Thành thuộc vào một bên khác; đồng thời giữa chúng hình như không liên quan gì với nhau; vì thế, hai địa danh Cổ Loa và Khả Lũ không thể mang ý nghĩa là “thành hình xoáy ốc” của Loa Thành mà hình như chúng có ý nghĩa riêng của mình.
1.3. Tiếp tục với mạch giải thích vừa phân tích ở trên, giáo sư Đào Duy Anh đi sâu lí giải “ý nghĩa” yếu tố Cổ trong tên gọi Cổ Loa. Cũng trong công trình đã dẫn, ông viết:
“Đối chiếu chữ Cổ Loa với lai lịch chữ Cổ Bôn và Cổ Định, chúng ta có thể đoán rằng tên Cổ Loa hẳn là do tên nôm cũ Kẻ Loa mà ra. Trong tiếng Việt Nam có cái lệ lấy chữ Kẻ đặt lên trên một chữ khác để gọi tên một làng, chữ thứ hai này thường là chỉ một đặc điểm gì về địa lí hay về kinh tế của làng ấy, ví dụ như Kẻ Chợ… Khi người ta phiên âm tiếng Kẻ thành chữ Hán thì người ta phiên thành chữ Cổ, như Cổ Bôn, Cổ Ninh…
Do những điểm trên, chúng tôi nghĩ rằng chữ Cổ Loa có lẽ là do phiên âm chữ Kẻ Loa của dân gian, mà Kẻ Loa tức là người làng có thành Loa. Song chữ Loa Thành không phải là của dân gian mà là chữ Hán = ốc. Chúng tôi cho rằng cái tên Loa Thành thấy xuất hiện ở Lĩnh nam trích quái của ta có lẽ cũng có từ trước, từ thời nhà Tống (sau sách Thái Bình hoàn vũ kí) do người Trung Quốc đặt ra để gọi thành xưa của An Dương Vương mà tập truyền cho là hình xoáy ốc, vì thấy nó vòng trong vòng ngoài (bản đồ Cổ Loa ngày nay còn cho thấy rõ) nên tưởng tượng như hình xoáy ốc. Do tên Loa Thành của người Trung Quốc đặt đó, dân gian mới gọi tên làng ở đó là Kẻ Loa, thành ấy gọi là thành Kẻ Loa, rồi Kẻ Loa về sau đã được phiên thành chữ Hán là Cổ Loa; Lê Tắc khi ở Trung Quốc viết sách An Nam chí lược lại viết thành Khả Lũ là phiên chữ Kẻ Loa của Việt Nam theo tiếng Trung Quốc bấy giờ” (Đào Duy Anh: 1997, 31–32).
Phần trích tiếp theo nói trên của giáo sư Đào Duy Anh cho thấy rõ cách nhìn nhận của ông về ý nghĩa cũng như nguồn gốc của địa danh Cổ Loa. Chúng ta có thể phân tích chi tiết cách nhìn nhận ấy cả ở mặt ý nghĩa cũng như trình tự xuất hiện địa danh như sau:
Thứ nhất, trong địa danh Cổ Loa có hai yếu tố khác biệt kết hợp lại với nhau là Cổ và Loa. Trong đó, Cổ là dạng thức Hán Việt về sau của âm nôm Kẻ với ý nghĩa “người làng…”, còn Loa là có nguồn gốc Hán do người Trung Quốc đời Tống thấy thành của An Dương Vương xoáy nhiều vòng như hình ốc nên “tưởng tượng” mà gọi như thế (!). Vậy là, theo ông, ý nghĩa của địa danh Cổ Loa sẽ là “người dân làng có Thành Loa, tức là người dân ở làng có thành xoáy hình trôn ốc”. Và như thế, theo cách giải thích của giáo sư, hình như có một loại địa danh theo kiểu Kẻ Loa, trong đó yếu tố Kẻ là thuần Việt, còn yếu tố Loa là do dân gian Việt vay mượn của Hán (!).
Thứ hai, vậy là địa danh Kẻ Loa xuất hiện đầu tiên do người Việt ghép yếu tố Kẻ của mình với yếu tố Loa của tiếng Hán trong Loa Thành đã có trước đấy. Về sau Kẻ Loa được Hán Việt hoá thành địa danh Cổ Loa (theo cách Kẻ Loa > Cổ Loa). Còn Lê Tắc vào thế kỉ XIII khi viết An Nam chí lược bên Trung Quốc đã phiên Kẻ Loa thành tên gọi Khả Lũ theo cách của tiếng Hán đời Tống.
Có lẽ, những lí giải của giáo sư Đào Duy Anh về địa danh Cổ Loa như thế đã rất cụ thể và chi tiết. Nhưng dù sao những lập luận ấy vẫn còn phải được lấp đầy bằng nhiều cứ liệu địa danh hơn nữa. Và đó chính là một trong những lí do để chúng tôi nêu ra những suy nghĩ của mình về định hướng khảo sát bổ sung.

2. Suy nghĩ về những định hướng khảo sát bổ sung

Như vậy, qua những giải thích như trên của giáo sư Đào Duy Anh chúng ta có những cơ sở rất quan trọng làm chìa khoá cho việc tiếp tục tìm hiểu đầy đủ ý nghĩa cũng như lí do xuất hiện địa danh này. Theo suy nghĩ của chúng tôi, điều đó dược thể hiện ở mấy điểm sau đây.
2.1. Địa danh Cổ Loa rõ ràng là dạng thức Hán Việt hoá của một tên nôm có trước. Cho nên, muốn có được những lí giải đầy đủ về dịa danh ấy, chúng ta phải tìm hiểu cơ chế chuyển hoá ngữ âm từ địa danh nôm (thuần Việt) sang địa danh Hán Việt. Đây thực sự là một công việc rất phức tạp đối với chúng ta. So với thời gian giáo sư Đào Duy Anh lí giải địa danh Cổ Loa đã nói ở trên, vào thời bây giờ chúng ta đã có thêm rất nhiều những hiểu biết về biến đổi ngữ âm thuần Việt cũng như Hán Việt. Vì thế việc tìm hiểu cơ chế chuyển hoá này ở thời điểm hiện nay sẽ phong phú hơn, nhờ đó, tình hình sẽ dễ khả quan hơn. Nhưng không phải vì vậy mà công việc sẽ dễ dàng hơn.
2.2. Những chỉ dẫn của giáo sư Đào Duy Anh đã cho chúng ta có thêm một hiểu biết quan trọng khác nữa là địa danh Cổ Loa xuất hiện trong thư tịch Hán Việt, Khả Lũ xuất hiện ở thư tịch bên Trung Quốc trong khoảng thời gian từ thế kỉ XIII đến khoảng thế kỉ XV. Điều đó cũng có nghĩa là việc tìm hiểu cơ chế chuyển hoá ngữ âm từ địa danh nôm (thuần Việt) sang địa danh Hán Việt sẽ gắn với tri thức ngữ âm lịch sử thuần Việt và Hán Việt ở giai đoạn đoạn lịch sử này. Định hướng thứ hai này giúp cho chúng ta giới hạn những xử lí những vấn đề của định hướng thứ nhất ở khoảng thời gian xác định.
Trong tình hình nghiên cứu hiện nay, đây là giai đoạn ngữ âm lịch sử tiếng Việt ở thời kì Việt-Mường chung (Nguyễn Tài Cẩn: 1995; Trần Trí Dõi: 2005); còn ở địa hạt ngữ âm Hán Việt, đây chính là thời kì hoàn chỉnh cách đọc Đường âm theo kiểu của người Việt ở Đại Việt, hay nói một cách khác đã có một cách đọc Hán Việt riêng khác với cách đọc của người Hán ở lãnh thổ Trung Quốc (Nguyễn Tài Cẩn: 2001).
Có lẽ, theo suy nghĩ riêng của chúng tôi, muốn tiếp tục tìm hiểu căn kẽ về địa danh Cổ Loa chúng ta phải đặt công việc khảo cứu trong những giới hạn đó. Vậy là, tuy chỉ là một địa danh Cổ Loa nhưng việc khảo sát nó không thể tách rời khỏi tính biến đổi hệ thống, cụ thể là tính hệ thống trong địa danh gọi tên làng. Điều đó sẽ ích lợi cho không chỉ một địa danh này mà cho rất nhiều những địa danh cùng kiểu khác. Và đó chính là định hướng nghiên cứu của chúng tôi khi tiến hành tìm hiểu thêm về nguồn gốc ngữ âm và sau đó là ý nghĩa ban đầu của địa danh Cổ Loa này. Do tính phức tạp và dung lượng sẽ rất nhiều của công việc, chúng tôi xin phép trình bày những xử lí cụ thể để thực hiện định hướng nghiên cứu ấy trong một vài bài viết tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
  1. Đào Duy Anh (1997). Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Thuận Hoá, Huế, 252 trang.
  2. Hoàng Thị Châu (1964). Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông. Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3, trang 94–106.
  3. Nguyễn Kiên Trường (1996). Mô hình Kẻ + X trong tên làng xã cổ truyền. Văn hoá dân gian, số 2 (54), trang 102–107.
  4. Nguyễn Tài Cẩn (1995). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Nxb Giáo dục, 349 trang.
  5. Nguyễn Tài Cẩn (2001). Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 353 trang.
  6. Nguyễn Tài Cẩn (2001). Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 439 trang.
  7. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996). Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 627 trang.
  8. Trần Trí Dõi (2001). Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội. Nxb Văn hoá Thông tin, 268 trang.
  9. Trần Trí Dõi (2005). Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 268 trang.
  10. Viện Khảo cổ học (1970). Hùng Vương dựng nước tập I. Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 251 trang.

Thursday 4 April 2013

Ai có thể bị hiếp dâm và/hay cưỡng dâm?



Trong nhận thức của người Việt đầu thế kỷ 20, không có chuyện đàn ông bị hiếp dâm, cưỡng dâm hay cưỡng gian. Hiếp dâm cưỡng dâm đàn bà (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 237) và chỉ đàn bà mà thôi. Cưỡng dâm là hiếp con gái đàn bà (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 104). Từ ngữ dùng trong luật là cưỡng gian được định nghĩa là như cưỡng dâm (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 104). 
Gần bốn mươi năm sau nhận thức của người Việt có sự thay đổi quan trọng. Theo Lê Văn Đức (1970a:609), hiếp-dâm vẫn không khác gì cưỡng-dâm và cưỡng dâm là dâm-hãm, hiếp-dâm người khác giống (Lê Văn Đức, 1970a:250). Cưỡng-gian là danh từ dùng trong hình luật, được định nghĩa là như cưỡng-dâm. Cưỡng-hiếpép người, hiếp người bằng sức mạnh nói chung, nhưng thường được hiểu là cưỡng-dâm. Điểm tiến bộ là ở chỗ nạn nhân không nhất thiết phải là phụ nữ. Có điều các định nghĩa của Lê Văn Đức (1970a) vẫn chưa đề cập đến hiện tượng cưỡng hiếp người cùng giới tính.
Khi bộ luật hình sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đời (năm 1999), các định nghĩa hiếp dâm và cưỡng dâm đã tỏ ra công bằng hơn đối với các nạn nhân. Hiếp dâm là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ (điều 111) và cưỡng dâm là dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu (điều 113). Ranh giới giữa hiếp dâm và cưỡng dâm vẫn chưa thật rõ ràng: dùng vũ lực / đe dọa dùng vũ lực / lợi dụng tình trạng không thể tự vệ đều là những thủ đoạn và miễn cưỡng giao cấu không khác gì với giao cấu trái ý muốn.  Ngoài ra luật cũng không định nghĩa thế nào là giao cấu, nhưng đây là một vấn đề khác, sẽ được khảo sát ở một nơi khác.
Trong khi đó các nhà từ điển học vẫn không theo kịp nhận thức của nhà lập pháp.
Các định nghĩa của Nguyễn Kim Thản (2005) quay trở lại điểm xuất phát đầu thế kỷ 20, thể hiện quan điểm của một xã hội do người đàn ông thống trị:
Hiếp dâm là dùng sức mạnh buộc phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn những ham muốn nhục dục (Nguyễn Kim Thản, 2005:745). Cưỡng dâm là buộc người phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn lòng ham muốn nhục dục (Nguyễn Kim Thản, 2005:423). Cưỡng hiếp là cưỡng dâm và/hoặc hiếp dâm: buộc người phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn lòng ham muốn nhục dục; cưỡng dâm, hiếp dâm (Nguyễn Kim Thản, 2005:423).
Hoàng Phê (2006) không có quan điểm rõ ràng, định nghĩa thiếu nhất quán:
Hiếp dâm là dùng sức mạnh bắt phải để cho thỏa sự dâm dục (Hoàng Phê, 2006:439). Dâm dục là sự ham muốn nhục dục quá độ hoặc không chính đáng (Hoàng Phê, 2006:245). Nhục dục là lòng ham muốn về xác thịt (Hoàng Phê, 2006:726). Xác thịt là thể xác của con người (thường dùng để nói về khoái lạc vật chất tầm thường) (Hoàng Phê, 2006:1141). Nói chung các định nghĩa này phù hợp với quan niệm của nhà lập pháp trong bộ luật hình sự 1999. Nhưng cưỡng dâm vẫn cứ là cưỡng ép người phụ nữ phải để cho thỏa sự dâm dục (Hoàng Phê, 2006:233).

Wednesday 3 April 2013

Địa danh Khánh Hòa thời mở đất (Nguyễn Man Nhiên)

Địa danh Khánh Hòa thời mở đất
Nguyễn Man Nhiên
ĐỊA DANH KHÁNH HÒA THỜI MỞ ĐẤT QUA MỘT BẢN LỘ ĐỒ THỜI LÊ
VỀ TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI CỦA “GIÁP NGỌ NIÊN BÌNH NAM ĐỒ” (GNNBNĐ)

Năm 1962, Viện Khảo Cổ Sài Gòn có phiên dịch và xuất bản một tập bản đồ cổ trong kho sách Hán Nôm Việt Nam có tên là “Hồng Đức Bản Đồ ”(HĐBĐ)(1). Theo lời giới thiệu của nhóm biên dịch, sách này được in lại từ vi ảnh mang ký hiệu 100891 mà nguyên bản tàng trữ tại Đông Dương Văn Khố ở Tokyo, Nhật Bản. Nội dung sách này gồm 6 tư liệu khác nhau viết ở những thời điểm khác nhau nhưng đều nói về địa lý Việt Nam từ đời Gia Long trở về trước. Hiện nay trong thư viện của Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng có lưu trữ một bản chép tay sách HĐBĐ ký hiệu A.2499. Qua so sánh, đối chiếu với bản của Đông Dương Văn Khố, chúng tôi thấy nội dung và thứ tự trình bày ở hai bản này hoàn toàn giống nhau (2).

Phần thứ tư của sách HĐBĐ là một tập bản đồ cổ có tên là “Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ” (tạm dịch: Bản đồ dẹp yên miền Nam năm Giáp Ngọ). Trên trang đầu, sau nhan đề có ghi thêm dòng chữ: Đốc suất Đoan Quận công hoạ tiến (tạm dịch: Quan đốc suất Đoan Quận công vẽ xong dâng lên). Vậy Đoan Quận Công là ai? Lần giở các trang lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy ngay một trường hợp đáng chú ý: Đoan Quận Công là tước của Nguyễn Hoàng do vua Lê phong cho trước khi vào trấn nhậm đất Thuận Hóa (1558). Vậy phải chăng Nguyễn Hoàng là tác giả của GNNBNĐ? Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613. Nếu quả thật Nguyễn Hoàng là tác giả của GNNBNĐ thì những bản đồ này phải được vẽ trước năm ông mất. Nhưng nếu xem kỹ, ta sẽ thấy trong GNNBNĐ có những địa danh mà thời điểm xuất hiện muộn hơn nhiều.

Tra cứu các sử liệu thời Lê hoặc viết về thời Lê như “Đại Việt Sử Ký Tục Biên”, “Phủ Biên Tạp Lục”, “Lê Quý Dật Sử”, “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí”, chúng tôi phát hiện rằng nhân vật Đoan Quận Công trong trường hợp này chính là Bùi Thế Đạt, người được chúa Trịnh Sâm phong chức Kiêm Đốc suất Bình Nam Đại tướng quân, đặc phái cùng Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào đánh chúa Nguyễn ở Thuận Hóa và Quảng Nam năm Giáp Ngọ (1774). Đoạn văn trong sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn viết về sự kiện này như sau: “Năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774), Giáp Ngọ, tháng 5, trấn thủ Nghệ An là Đoan Quận công Bùi Thế Đạt khải đệ lên tờ báo cáo của Trà Vũ Bá là tướng đồn Bố Chính đại khái nói về tình hình rối loạn ở Quảng Nam. Bấy giờ triều đình đã dẹp yên Hưng Hóa, đánh được Trấn Ninh, thế nước rất thịnh. Chúa Thượng đã biết rõ họ Nguyễn suy yếu, có cơ hội lấy được, thấy tờ khải của Đoan Quận Công, đang đêm cho gọi Chưởng phủ Đại tư đồ quốc lão Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc và Tham tụng Đại tư đồ Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm vào bàn, đều nói rằng nên đánh. Bèn quyết kế đi đánh. Tức thì sai Việp Quận công Hòang Ngũ Phúc làm Thống suất Bình Nam thượng tướng quân, Đoan Quận công Bùi Thế Đạt làm Kiêm Đốc suất Bình Nam đại tướng quân đi kinh lược trước”(3). Vậy phải chăng Bùi Thế Đạt chính là tác giả của GNNBNĐ, và năm Giáp Ngọ 1774 cũng chính là niên đại thực hiện bản đồ này?

Dựa vào sự hiện diện của các địa danh “Thái Khang phủ”, “Diên Ninh phủ” (được lập năm 1653, nay là tỉnh Khánh Hòa) và địa danh “Chính phủ” (lập năm 1687 ở xã Phú Xuân, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong) là những dữ liệu muộn nhất được ghi lại trên bản đồ, chúng tôi cho rằng thời điểm thực hiện GNNBNĐ nằm đâu đó trong khoảng từ năm 1687 (là năm chúa Nguyễn Phúc Thái lập Chính Phủ ở Phú Xuân) đến trước năm 1690 (là năm phủ Thái Khang sẽ được đổi tên thành phủ Bình Khang).

Sau khi xác định niên đại của GNNBNĐ, ta lại thấy rằng niên đại này dường như mâu thuẫn với chính cái tên của nó, bởi vì năm Giáp Ngọ, như đã xác minh, là năm 1774, cách thời gian bản đồ này được thực hiện gần cả thế kỷ. Chúng tôi nghĩ rằng có thể lý giải điều này như sau: GNNBNĐ đúng là bản đồ do quan Đốc suất Đoan Quận công Bùi Thế Đạt dâng lên chúa Trịnh trong cuộc hành quân vào Nam năm 1774, nhưng có lẽ trong quá trình thám sát, ông đã không trực tiếp vẽ bản đồ vùng đất này vào cùng năm đó (vì nếu thế thì trên bản đồ phải có những địa danh cùng thời xuất hiện), mà chỉ sao chép lại một bản đồ của Đàng Trong đã có từ trước vào cuối thế kỷ XVII. Bản đồ này có thể họ Bùi đã thu thập được từ sổ sách, văn thư của chính quyền chúa Nguyễn đã bỏ lại khi chạy vào Nam.

CÓ MỘT BẢN ĐỒ KHÁNH HÒA THỜI MỞ ĐẤT

Năm 1653, sau khi đánh bại vua Chiêm là Bà Tấm, chúa Nguyễn Phúc Tần lấy đất từ phía đông sông Phan Rang đến đầu địa giới Phú Yên đặt làm 2 phủ là Thái Khang (gồm 2 huyện Quảng Phúc và Tân Định) và Diên Ninh (gồm 3 huyện Phúc Điền, Hoa Châu và Vĩnh Xương), tức là địa phận tỉnh Khánh Hòa hiện nay(4). Nếu chúng ta nhận rằng thời điểm vẽ GNNBNĐ nằm đâu đó trong khoảng từ 1687 đến trước 1690 tức là vào khoảng cuối thế kỷ XVII, mặt khác, những sử liệu có đề cập đến vùng đất này như “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn cũng chỉ được viết sau thời điểm ra đời của bản đồ này cả thế kỷ, thì GNNBNĐ chính là một trong những nguồn tư liệu sớm nhất, phản ánh chân xác và kịp thời bộ mặt địa lý-lịch sử của vùng đất Khánh Hòa ở buổi đầu hình thành và phát triển. GNNBNĐ là một bản lộ đồ ghi vẽ lại khá chi tiết sông núi, đường xá, dinh sở, thành lũy, nhà trạm, kho tàng, cầu, chợ, bến đò, cửa biển, hải đảo... kèm theo những lời chỉ dẫn về lộ trình từ Đồng Hới đến biên giới Cao Miên, tức là vùng đất phía nam của Tổ Quốc, giang sơn của các chúa Nguyễn mà thời bấy giờ gọi là xứ Đàng Trong hay Nam Hà. Dưới đây là ảnh chụp trích đoạn GNNBNĐ (phần vẽ 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh, tức vùng đất Khánh Hòa hiện nay) và bảng phiên âm các địa danh (bằng chữ Hán và chữ Nôm) trên bản đồ. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi tạm phân chia bản đồ thành từng ô có đánh số.

Hình 1: Bản đồ 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh trong GNNBNĐ



Hình 2: Bảng phiên âm các địa danh và ghi chú trên bản đồ GNNBNĐ (Phần vẽ hai phủ Thái Khang và Diên Ninh)



CHÚ THÍCH:
(1) Hồng Đức bản đồ, Viện Khảo cổ Sài Gòn phiên dịch và xuất bản, 1962.
(2) Xem Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn Hóa, Hà Nội 1984, tập 1, tr.345 và Bùi Thiết, Thêm một số bản đồ thời Lê, Tạp chí Khảo cổ học số 1/1982, tr.68.
(3) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1977, tr.72
(4) Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Sử học, Hà Nội 1962, tập 1, tr.83.
(5) Đèo Hổ Dương: Sách Lịch triều hiến chương loại chí - phần Dư địa chí của Phan Huy Chú (1782-1840) chép: “Đầu đời Thịnh Đức Hiếu Triết Hoàng đế (Nguyễn Phúc Tần) sai quân đi đánh Chiêm Thành, qua núi Thạch Bi, đỉnh Hổ Dương đi đến trại vua Bà Tấm phóng lửa đốt phá, Chiêm Thành phải xin hàng”. Núi Thạch Bi tức là núi Đá Bia (nằm giữa địa giới hai tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa). Vậy đèo Hổ Dương chính là đèo Cả hiện nay
(6) Tô Hà: Sách Đại Nam nhất thống chí - Tỉnh Khánh Hòa (ĐNNTC) chép: “Núi Tô Hà: Ở phía tây bắc huyện Quảng Phước 59 dặm, trước tên là Hoa Sơn. Sông Tô phát nguyên ở đây cho nên có tên là núi Tô Hà. Gió nam thường từ núi này thổi lại, cho nên có ngạn ngữ: “gió Tô Hà”. Vùng đất phía bắc huyện Vạn Ninh (hiện nay gồm 5 xã Đại Lãnh, Vạn Thọ, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Khánh) trước kia gọi là Tu Bông, phải chăng bắt nguồn từ tên sông Tô (Tô/Tu), núi Hoa (Hoa=Bông) ghép lại?
(7) Hoa Đằng Sơn: còn có tên là Phước Hà Sơn, tức núi Hòn Hèo (huyện Ninh Hòa). Sách ĐNNTC chép: “Núi Phước Hà: Ở phía đông nam huyện Quảng Phước 5 dặm. Núi này có nhiều cây mây hoa cho nên cũng gọi là núi Hoa Đằng. Sườn núi cao lớn, bao quanh vài mươi dặm, phía đông bắc gối bờ biển, phía tây nam chận ngăn cửa biển Nha Phu”.
(8) Nha Tù hải môn: tức cửa biển Nha Phu (huyện Ninh Hòa). Sách Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833) đổi tên tấn sở Nha Tù ở tỉnh Khánh Hòa là Nha Phu”.
(9) Các sách Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí đều chép phủ Thái Khang gồm 2 huyện là Quảng Phước và Tân Định, nhưng trong GNNBNĐ lại có thêm tên một huyện thứ ba là Tân Khang. Xin chép lại đây để tồn nghi.
(10) Chúa Ngọc tháp: Bà Chúa Ngọc là cách gọi tôn kính của cả người Chăm lẫn người Việt đối với nữ thần Pô Na-ga hay còn gọi là Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nay vẫn được thờ phụng tại di tích Tháp Bà trên núi Cù Lao bên cửa sông Cái, Nha Trang.
(11) Nha Trang hải môn: cửa biển Nha Trang.
(12) Cam Linh môn: cửa biển Cam Ranh.
Nguyễn Man Nhiên

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Tý/Tử *chút chuột (Nguyễn Cung Thông)



Nguyễn Cung Thông

Vào ngày 7 tháng 7 năm 2009, một số cô gái Việt Nam bị bắt vì có những hoạt động trái phép (như thoát y trước khi được 'môi giới hôn nhân' cho các đàn ông Hàn quốc). Điều đáng ghi nhận từ sự cố trên là các cô gái được xem mắt đều có trình độ học vấn thấp và
'... Tuy nhiên, theo các cô gái, nếu trúng tuyển họ chỉ được đối tượng môi giới trả 500 USD. Điều đáng buồn, nhiều cô gái khi được cán bộ lấy lời khai thậm chí còn không biết mình sinh năm nào, họ chỉ biết trả lời tuổi con gì trong 12 con giáp! Thậm chí có cô không biết tên thật của cha, mẹ mình!' hết trích - xem chi tiết trên nhiều trang mạng nhưhttp://nld.com.vn/2009070703282134p0c1019/thoat-y-cho-dan-ong-han-quoc-xem-mat.htm hayhttp://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/325821/Moi-gioi-hon-nhan-trai-phep-cho-nguoi-nuoc-ngoai-Xu-ly-hinh-su-moi-du-suc-ran-de.html …v.v…
Ta có thể thấy ngay là cầm tinh con nào (của năm mình sinh ra) rất quan trọng đối với người Việt Nam/VN, ngay cả khi không biết chữ (La Tinh hay Hán Nôm ...). Có người còn tin vào ảnh hưởng của con vật (của năm sinh) vào vận mạng đời sống tương lai của mình. Nhìn qua tên gọi các năm sinh từ một góc độ khác hơn, bài viết của GS TS Nguyễn Văn Lợi/NVL "Câu chuyện: "MÃO: MÈO hay THỎ?" và sự tiếp xúc văn hoá, ngôn ngữ các dân tộc phương Đông" (đăng vào khoảng tháng 3/2011) rất đáng chú ý - xem chi tiết toàn bài trang nàyhttp://www.vietlex.com/ngon-ngu-hoc/91-Cau_chuyen-_MAO-_MEO_hay_THO_va_su_tiep_xuc_van_hoa,_ngon_ngu_cac_dan_toc_phuong_Dong . Vài nhận xét của NVL trong bài trên rất dễ gây ngộ nhận cũng như cho thấy ông không thấu đáo cách giải thích về khả năng nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp. Phần này chú trọng đến con giáp đầu tiên Tý/Tử 子 và các tương quan ngữ âm với chuột tiếng Việt. Một số dữ kiện đã được ghi nhận trước đây trong bài viết ‘Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Tý/Tử-*chút-chuột (phần 10)’ đã đăng trên những trang mạng nhưhttp://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/280208-muoihaicongiap-ty.htm hay bạn đọc nên xem bài trên (phần 10) trước khi đọc phần 10A (bài viết này) cho liên tục.
Có lẽ nên nhắc lại loạt bài viết về 12 con giáp đã đăng lên các mạng toàn cầu như sau
- các bài số 1, 2, 3 giới thiệu tổng quát về nguồn gốc VN của tên 12 con giáp
- các bài số 4, 4A, 4B viết về chi Mão Mẹo mèo
- bài số 5 viết về chi Hợi gỏi *kui cúi (heo/lợn)1
- bài số 6 viết về chi Thân *khôn khọn (khỉ)
- bài số 7 viết về chi Tỵ rắn
- bài số 8 viết về chi Thìn/Thần long-rồng
- bài số 9 viết về chi Dần *kính kễnh
- các bài số 10, 10A viết về Tý chút *chuốt chuột
- các bài 11, 11A viết về chi Sửu *tlu/klu tru trâu2
- bài số 12 viết về chi Tuất *chuak *sio chó
- bài số 13 viết về chi Ngọ *ngự ngựa
- bài số 14 viết về chi Dậu *rơga gà
- các bài số 15, 15A viết về chi Mùi Vị *mjei dê
Các bài viết riêng với các chủ đề khác (cũng đánh số từ 1 đến 15 như trên):
- Tại sao Nhật, Hàn, Inđô … không đặt vấn đề với nguồn gốc tên 12 con giáp? (phần 1)
- Ngưu là trâu hay bò?
Như vây là có ít nhất 22 bài viết khác nhau về cùng một chủ đề - nhớ rằng các bài đánh số 4A, 4B ... là các bài viết riêng (cập nhật) và tiếp theo bài 4 (bài đầu tiên), cũng như các bài 10A hay 15A ...v.v... Đây là không kể các bài viết nhỏ hay các bài phát ra, phỏng vấn (ở Melbourne/Úc hay California/Mỹ) và trao đổi trên các diễn đàn từ năm 2000 - như diễn đàn Viện Việt Học, Quách Hiền, Nguyễn Phúc Anh, đài phát thanh BBC Tiếng Việt ... Và không kể các bài viết đưa ra các vết tích của tiếng Việt (cổ) trong tiếng Hán (cổ) hỗ trợ cho khả năng nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp
- Vết tích liên hệ long-rồng và sông qua ngôn ngữ (phần 1)
- Tản mạn về danh từ ‘cá sấu’ : vết tích phương Nam trong tiếng Hán (phần 1)
- Tản mạn về danh từ trà (chè) (phần 1)
- loạt bài "Bụt hay Phật"
...v.v...
Sau khi xem qua hình ảnh tổng quát về các từ HV (Hán Việt) hay VH (Việt Hán) trong ngôn ngữ, trở lại chủ đề này và hãy xem lại các cách đọc (phiên thiết) của chữ 子
a) tức lý thiết 卽里切 (Đường Vận/ĐV), tổ tự thiết 祖似切 (Tập Vận/TV) âm tử 音梓
b) tài tứ thiết 才四切 (Chính Tự Thông)
c) tử đức thiết 子德切 âm tắc 音則 (Khang Hy)
(không thấy phiên là tức di thiết 卽移切 hay tương chi thiết 將支切 - đọc là tý/tí như 訾)
Thành ra không phải ngẫu nhiên mà âm 'Hán Việt' lại dùng âm Tý (một tý/tí - một chút so với *chuột) mà không thấy dùng âm Tử3 子cho tên 12 con giáp (tự điển Việt Bồ La/1651) cũng như cách gọi 'ông Tí' là 'ông chuột' (Đại Nam Quốc Âm Tự Vị/1896). So với chữ 梓 lại đọc là tử chứ không theo cách phiên thiết hay là tức ly thiết 卽里切/ĐV hay tổ sĩ thiết 祖士切/Vận Hội có âm tỷ/tì 耔 (hay 秄).
1. Bàn thêm về thành phần hài thanh Tý/Tử 子
Ngoài các liên hệ như tỷ 姊 (chị), tự 寺(chùa), thì thời 時 chừ (giọng Huế), các âm tốt/thốt 卒hay thúc 倏so với chợt ...v.v... đều chứng tỏ liên hệ ngữ âm t-ch rất rõ nét như đã nêu ra trong bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Tý Tử chút *chuốt chuột (phần 10)"; ta còn có thể nhận ra tương quan ngữ âm t-ch qua các dữ kiện sau đây.
1.1 Tiếng kêu chiêm chíp, chút chít 吇 吇 (từ láy)
Một chữ hiếm trong vốn từ Hán cổ là tử吇theo Tập Vận4
Chữ tử 吇 viết bằng bộ khẩu口hợp với chữ Tý 子 theo Tập Vận/TV chỉ tiếng kêu của chim (tiếng Việt còn dùng âm chíu chít, chiêm chíp ... đây là các tiếng tượng thanh hay nhái theo tiếng chuột hay chim kêu)
【 集韻】 祖似切, 音子。 吇吇, 鳥聲
【Tập Vận】 tổ tự thiết,âm tử。*chit chit,điểu thanh
Không thấy loài chim nào lại hót với âm ‘tý tý’ hay ‘tử tử’ - so với chiêm chíp, chít chít, chíu chít - cũng như âm thanh phát ra từ loài chuột, khối lượng nhỏ như loài chim nên thường phát ra các âm có tần số cao5. Tiếng chim kêu là chiêp (tiếng Môn), k-chiêp (Khme), chíp chíp ... ch-chim ch-chíp (Thái), chiep chiep (Lào), kchiep kchiep (Mã Lai) ...v.v...
Ngoài liên hệ đến chút chít (tiếng kêu của loài chuột, chim, gà ...), thành phần hài thanh tử子còn liên hệ đến huyết thống (gia đình) - rất khác với tiếng Hán tôn 孫 hay tử tôn 子孫 , tằng tôn 曾 孫, huyền tôn 玄孫 (cháu chít, cháu chắt) so với tằng tổ (曾 祖, ông cố - ba đời) …
chắt (con của cháu, ba đời - tằng tôn)
chít (con của chắt, bốn đời - huyền tôn)
chút (con của chít, năm đời) (Việt Nam tự điển6 , 1956)
'Chít, nhỏ chít: nhỏ bé, chát chút chít : cháu đời thứ bốn
...
Chút chít, cháu chát, chút chít: cháu chắt' (tự điển Việt Bồ La)
Rõ ràng khái niệm huyết thống và âm thanh (phụ âm đầu ch-) đã từng hiện diện trong tiếng Việt mà tiếng Hán chỉ có ký âm là tử 子 : mấu chốt của các tương quan này là chính là phạm trù nghĩa của các âm chút/chít hàm ý nhỏ hay ít. So với các ngôn ngữ láng giềng, tiếng Môn: con chút con chik; tiếng Thái chuôt, trutx, xuôt hay jéet จี๊ด (rất nhỏ) ... đều gợi ý nhỏ nhoi, tý ty (tí ti). Các cách dùng cháu chắt chít chút (tiếng Việt, Môn, Khme ...) như đã ghi nhận phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây của tác giả Paul K. Benedict7; ông đã từng so sánh các ngôn ngữ ở Đông Nam Á và kết luận rằng tiếng Hán đã nhập vào một số từ về liên hệ (tổ chức) gia đình, cũng như hệ thống xã hội và chính trị của người Trung Quốc cổ đại đã bị ảnh hưởng và thay đổi rất nhiều khi tiếp xúc với các dân tộc từ phương Nam (Benedict đề nghị dùng danh từ riêng Austro-Thai-x hay AT-x để chỉ ngôn ngữ phương Nam 'nguyên thuỷ' đã từng hiện diện này). Trong bài viết gần đây hơn "Austroasiatic loanwords into Sino-Tibetan" - xem chi tiết trang này http://sealang2.net/archives/mks/pdf/18-19:1-13.pdf , Benedict ghi nhận các tương quan về danh từ chỉ cha mẹ giữa tiếng tiền-Waic (proto-Waic), tiếng tiền Miến-Tạng (proto Tibeto-Burman) và tiếng tiền Hán-Tạng (proto Sino-Tibetan) và đề nghị thêm một cách giải thích qua khả năng hiện tượng vùng (areal features).
Tương quan tử (tý) và chút chít (tiếng kêu) còn vết tích trong cách dùng *chi chi 吱吱 chỉ lên tiếng (kêu lên) hay *chiu chiu 啾啾 (thu thu HV jiū jiū BK) thường gặp hơn, như hiện diện trong tự điển HV của Thiều Chửu chẳng hạn. Tương quan t-ch của tý tử - *chút chuột không chỉ có mặt trong tiếng Việt, nhưng còn để lại dấu ấn trong các ngôn ngữ miền Nam TQ, như giọng Mân Việt 閩南語 : đọc tý tử giống như chi2 chu2 - xem các giọng đọc tý tử trang nàyhttp://tool.httpcn.com/Html/Zi/24/PWKOKOMETBUYBUYAZ.shtml , hay qua cách phiên thiết. Thường thì âm chi 之 dùng để phiên phụ âm mặt lưỡi tắc (vô thanh) ch-, như châm 針 (cái/ cây kim, kim là âm cổ còn duy trì trong tiếng Việt) đọc là
【 廣韻】 之林切
[Quảng Vận] chi lâm thiết (đọc là châm - âm châm 音斟)
Dựa vào một số cách phiên thiết trung cổ như trên, ta có cơ sở phục nguyên một cách đọc cổ hơn của Tử/Tý 子
1.2 Chớp 䁒 tập HV (chớp mắt, nháy mắt)
Chữ hiếm 䁒 có các cách đọc trung cổ như sau
【 廣韻】 子入切 【 集韻】 卽入切
[Quảng Vận] tử nhập thiết [Tập Vận] tức nhập thiết - đọc là tập HV so với các dạng chợp/chớp/chập/chặp trong khẩu ngữ.
Để ý âm tử 子 được dùng để chỉ chớp (mắt), phản ánh qua giọng Quảng Đông của âm này là cap1 caap1 zap6 (so với giọng BK là zí, jí). Tiếng Hán thường dùng chữ trát 眨 để chỉ chớp (mắt) hơn.
1.3 Chữ tiếp 楫 (mái chèo), theo Thuyết Văn Giải Tự (biên hiệu 3769)
楫,[ 子葉切 ], 舟櫂也。 從木咠聲
Tiếp [tử diệp thiết] chu trạo dã . tùng mộc *chập/tập thanh
【 集韻】 側立切, 音戢。 聚也
【Tập Vận】 trắc lập thiết,âm tập。Tụ dã
Một nghĩa của tiếp là tụ tập (chập lại, chắp, chợp …) - đây là vết tích của tương quan phụ âm đầu t- (tử, dùng trong cách phiên thiết tử diệp thiết) và phụ âm ch- (chập).
1.4 Chữ tức 鯽 là cá nốc, cá diếc …
Tức HV so với jì, jí BK - giọng Hẹ là tsit7 tsit8, giọng Mân Nam là chit1 - cũng là loài cá chép. Cá chép thường được biết là lý hay lý ngư 鯉 魚; hãy so sánh cách phiên thiết phụ âm đầu của âm trung cổ tức鯽
【 廣韻】 子力切 【 集韻】 節力切
[Quảng Vận] tử lực thiết [Tập Vận] tiết lực thiết
Đây cũng là một dữ kiện cho thấy liên hệ của phụ âm đầu t- (tử) và ch- (chép).
1.5 Chữ xiệp/tiệp 啑
Theo các thư tịch TQ thì xiệp/tiếp có thể đọc như
【 音義】 啑, 子答反
[Âm Nghĩa] xiệp, tử đáp phản
【 集韻】 所答切, 音霎。 又子洽切, 音眨
[Tập Vận] sở đáp thiết,âm siếp。Hựu tử hiệp thiết,âm trát - nhắc lại: trát có nghĩa là chớp (nháy, chợp mắt).
Tiếng Việt còn duy trì các dạng cổ hơn là chép (miệng, môi), bép xép ... đều hàm ý nói nhiều (đa ngôn mạo 多言貌). So với các từ chắc, chặc (lưỡi), hay chùn chụt (hôn chùn chụt, bú chùn chụt ...); đây là các từ nhái lại hoạt động của môi khi nói chuyện (tượng thanh cũng như tượng hình).
Từ láy toàn phần xiệp xiệp diễn tả tiếng kêu (tần số cao) của côn trùng
〖啑啑〗∶蟲鳴聲
〖xiệp xiệp 〗∶trùng minh thanh
2. Tử 子 trong văn hoá Hán ám chỉ loài nào?
Từ giáp văn, kim văn và chữ triện, ta có thể nhận ra nguồn gốc của chữ tử là hình đứa bé với cái đầu khá lớn, chẳng liên hệ gì đến loài chuột và tính chất tổng quát nhỏ nhoi (chút, tý); như vậy là chữ tử 子có nguồn gốc liên hệ đến loài người (không phải thảo mộc hay loài vật nào cả); xem chi tiết ở bảng tóm tắt trang sau
Xem các bộ thủ như bộ thử (chuột), khuyển, trỉ, thỉ ... không thấy trường hợp nào dùng chữ tử để tạo chữ mới, nhưng bộ trùng thì có thể kết hợp với chữ tử thành chữ tử 虸 (là chữ hiếm, tần số dùng là 40 trên 65348624):
【 唐韻】 卽里切 【 集韻】 祖似切, 音子. 虸蚄, 蟲名。 害稼
【Đường Vận】 tức lý thiết 【Tập Vận】 tổ tự thiết,âm tử。tử phương,trùng danh。Hại giá
Tử (phương) là loại sâu ăn hại mùa màng cũng như loài chuột vậy. Tuy nhiên, tử (phương) là loài sâu Mythimna separata khác xa loài chuột với quá trình biến thái hoàn toàn như sau - trích từ trang http://www.hudong.com/wiki/%E7%B2%98%E8%99%AB
Nếu tử đã từng chỉ loài chuột hay một loài tương tự như vậy, ta có cơ sở để lý giải về nguồn gốc ‘phương Bắc’ của âm và nghĩa của tử một cách tương thích. Nhưng tình hình lại khác hẳn, tử (âm trung cổ - ít nhất là từ thời Đường Vận hay khoảng 751 SCN) chỉ loài sâu bọ, dẫn đến một kết quả là khả năng ký âm của tử hay tý cho âm *chut/chuot của một tiếng nước ngoài nhập vào tiếng Hán cổ điển; tiếng ngoại quốc ấy có thể chính là tiếng Việt (cổ) của phương Nam dựa trên các tương quan ngữ âm đã được nêu ra.
3. Âm ‘chuột’ qua các thư tịch Hán Nôm
3.1 Chuột được ghi âm là 卓 trác HV trong An Nam Dịch Ngữ7 , so sánh với các cách đọc trung cổ của chữ trác
【 唐韻】竹角切 【 集韻】 側角切, 音涿
【Đường Vận】 trúc giác thiết 【Tập Vận】 trắc giác thiết,âm trác
Âm trác phù hợp với âm chuật (chuột, tự điển Việt Bồ La), so với chữ Nôm dùng truật (???) (chữ này rất hiếm) với các cách đọc như sau
【 廣韻】 丑律切 【 集韻】 敕律切, 音黜
【Quảng Vận】 sửu luật thiết 【Tập Vận】 sắc luật thiết,âm truất。
Chữ truất (???) còn cách viết khác là 䟣; đã từng được ghi nhận trong Thuyết Văn Giải Tự, Ngọc Thiên, Long Kham Thủ Giám ...
3.2 Chước 䶂 là sóc hay chuột?
Chữ hiếm chước 䶂. thường được giải thích trong các tài liệu TQ (Khang Hy, Hán Ngữ Đại Tự Điển) là loài sóc (squirrel), đã có mặt ít nhất trong Thuyết Văn Giải Tự, biên hiệu 6372, chỉ một loài chuột
䶂,[ 之若切 ], 鬍地風鼠。 從鼠勺聲。
䶂,[chi nhược thiết ],hồ địa phong thử。Tùng thử chước thanh。
Quảng Vận/QV còn ghi lại là chước thuộc loài chuột (thử thuộc 鼠屬, thử danh 鼠名- hay bay 能飛 năng phi - so sánh với truất (???) bên trên), nhưng nhỏ hơn (tựa thử nhi tiểu dã 似鼠而小也). QV còn ghi một cách đọc khác của chước là
tức lược thiết 卽略切 - so với cách đọc
tức ước thiết 卽約切 âm tước 音爵 (TV)
Rõ ràng nói lên liên hệ của phụ âm t- (tước, tử) và ch- (chước, chuột). Nguyên âm -ươ của thành phần hài thanh chước 勺 có một biến âm là -uô như chữ dược 藥 đọc là dĩ chước thiết 以灼切/ĐV hay dặc ước thiết 弋約切/Vận Hội: tiếng Việt bây giờ đọc là thuốc (*thuốt); so với chước 䶂 và chuột. Một điểm đáng chú ý ở đây là chước còn có thể đọc là báo: ba giáo thiết, âm báo 巴校切, 音豹 (TV). Một âm báo (beo) để chỉ hai loài vật (chuột và beo) phản ánh phần nào trường hợp hợp một âm ngoại quốc đã nhập vào tiếng Hán và tạo ra sự trùng hợp hi hữu này. Chước còn có thể viết bằng bộ khuyển hợp với chữ chước犳 (chữ hiếm) nghĩa cổ là báo (con beo). Không những cùng bộ gặm nhấm (Rodentia), chước (loài chuột) còn có liên hệ ngữ âm đến sóc qua tương quan ch-s/x (chung quanh - xung quanh, chéo – xéo, chẻ - xẻ …); điều này phù hợp với cách dịch sóc là tông thử 鬆鼠 (chuột có nhiều lông) trong vốn từ Hán hiện nay; sóc bay (flying squirrel - thuộc tông Pteromyini) còn được gọi là ngô thửphi thử 鼯鼠, 飛鼠 (chuột bay). Tiếng Nhật cũng dùng các từ lật thử, mộc thử 栗鼠, 木鼠 hay risu リスđể chỉ loài chồn. Tiếng Việt còn dùng tổ hợp chuột sóc hay sóc chuột cho vài họ thuộc bộ gậm nhấm này - xem thêm chi tiết trang dưới. Sóc là prok (tiếng Khme), Prok (Bahna, Rơngao, Chăm), prò (Kơho, GiaRai) - so với *pơ-rau (tiền Bahna, Mường de Uý Lộ) và sáu (Việt).
(khó phân biệt được loài sóc này và chuột - nhất là nhìn từ xa hay khi chúng đang di động)
3.3 Chữ hiếm *chươc/chat 虳 là chuột?
Trích Ngọc Thiên (khoảng 543 SCN), chữ hiếm 虳có nghĩa là chuột có tần số dùng là 11 trên 171894734 có một âm đọc là
【 玉篇】 九勿切。 鼠也
【Ngọc Thiên】 cửu vật thiết。Thử dã。
1. Cách đọc cửu vật thiết (*kât, quất, khuất, *chuat/truat/xuat) còn là cách phiên âm các chữ 趉 (chữ hiếm nghĩa là chạy đi/tẩu 走), khuất 屈 - để ý phụ âm k- của cửu tương ứng với ch- ngạc hoá như căn gian, keo giao, kéo giảo, kẹp giáp ... xem thêm chi tiết trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học trang VVH - Forum :: Tiếng Việt :: căn - gian
趉,[ 瞿勿切 ], 走也。 從走出聲 (TVGT biên hiệu 1040)
*chuat/truât/xuât,[cù vật thiết ],tẩu dã。Tùng tẩu xuất thanh
Các dị thể của chữ趉 *chuat/truat trên rất đáng chú ý vì có dạng dùng chữ tử子làm thành phần hài thanh, trích từ trang http://dict.variants.moe.edu.tw/yitic/frc/frc13711.htm
Một kết luận cho phần 10 (bài đăng trước đây) và phần 10A (bài này): ta có cơ sở thành lập tương quan ngữ âm giữa Tý Tử và chút *chuột, không những thế tiếng Việt còn duy trì nhiều liên hệ như huyết thống cũng như các vết tích Hán cổ hỗ trợ cho khả năng Tý tử 子 là một dạng ký âm của một tiếng nước ngoài, và dĩ nhiên người Hán không hiểu Tý Tử từng là tên gọi loài chuột khi nhập vào tiếng Hán cổ. Theo tác giả William G. Boltz9 thì một dạng âm cổ phục nguyên của Tý Tử là *tsjǝgx hay rất gần với âm *chơkh (chơc) tiếng Việt hiện đại. Tiếng Thái cũng dùng âm chuat để chỉ chi đầu tiên, nhưng lại gọi con chuột là nŏo (hay nưu) หนู cho thấy âm chuat này mượn từ tiếng Việt. Tiếng Khme10 cũng dùng dạng *ju:t (chuột) để chỉ chi Tý Tử và chuột, nhưng lại không thấy dùng trong quan hệ huyết thống (cháu, chắt, chít, chút11) không như tiếng Môn (chăk là chắt) và dạng tuch (Khme) là chút. Khả năng nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp phản ánh quá trình giao lưu (cho qua cho lại) linh hoạt của các dân tộc cổ đại (Bách Việt) đã từng sống gần nhau ở phía Nam Trường Giang thời Tiên Tần. Điều này còn thấy trong nhiều di chỉ từ phương Nam và ngay cả từ Tây Á và Phi Châu được khai quật từ lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu12. Đây là một đề tài khác rất lý thú và cần được nghiên cứu cẩn thận dựa vào các dữ kiện khảo cổ, lịch sử (văn bản và truyền thuyết), ngôn ngữ và sinh vật học: như nghiên cứu về di truyền học cũng cho thấy quá trình giao lưu văn hoá cổ đại rất có thể đã xẩy ra mà tên gọi 12 con giáp là một kết quả tự nhiên mà thôi - xem bảng so sánh đánh dấu di truyền (genetic marker) Y-chromosome phần dưới
Phân bố nhóm haplogroup O (Y DNA) ở Á Châu - trích trang http://en.wikipedia.org/wiki/Austro-Tai_peoples#cite_note-13
(tóm lược từ các bài viết của Jerold Edmondson và Shi Hong et al13)
Do đó, không nên chỉ dựa vào một dữ kiện '... Chẳng hạn, để chứng minh tên gọi Tí chính là «chuột», tác giả lập luận: Trong tiếng Việt từ tí (trong câu: Nghỉ một tí) và từ chút (trong câu: Nghỉ một chút) là hai từ đồng nghĩa. Thời cổ đại (khi tiếng Việt chưa có 6 thanh điệu như ngày nay) chút và chuột có cách phát âm giống nhau, như vậy Tí chính là Chuột...' (NVL, bài viết đã dẫn bên trên) để cho rằng lập luận trên không có cơ sở mà không xem kỹ các dữ kiện khác - thật ra chỉ có tiếng Việt mới có hiện tượng ‘cho tôi một tý/ tí' hay 'cho tôi một chút' và 'chút là cháu năm đời', chính vì vậy mà người viết thường nêu ra hiện tượng ngôn ngữ này (rất dễ nhớ) như một khởi điểm cho hàng loạt các dữ kiện tương tự dẫn đến kết luận "nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp".
4. Phụ chú và phê bình thêm
Để dễ nhìn thấy vấn đề đặt ra, bạn đọc nên xem thêm các bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" trên các trang mạng nhưhttp://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/150606-muoihaicongiap-2.htm hay bảng so sánh tên gọi 12 con giáp trong các ngôn ngữ Đông Nam Á trong bài viết số 2 (phần 2)http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&id=81 v.v…
1) Bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Hợi gỏi *kui cúi (heo/lợn) (phần 5)" trình bày tại Hội Thảo quốc tế về tiếng Việt tại Viện Việt Học (California, Hoa Kỳ, 2006)
2) Bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Sửu *tlu/klu tru trâu (phần 11)" trình bày tại Hội Thảo quốc tế Việt Nam Học kỳ 3 tại Hà Nội (12/2008)
3) có thể khi nhập (ngược) vào tiếng Việt, năm Tử hay giờ Tử còn có thể mang nghĩa ngược lại với năm hay giờ sinh: Tử có thể là chết 死 viết bằng bộ ngạt; do đó người Việt dùng âm Tý/tí để phân biệt với Tử chăng? Tuy nhiên, nghĩa của Tý/tí lại trùng hợp với các âm chút và chuột khiến ta phải đặt lại vấn đề. Tương tự như trường hợp của chi Mùi, âm Mùi là dạng cổ hơn của Vị (vô phí thiết 無沸切/ĐV/TV âm vị 音味), tiếng Việt không thấy ai dùng dạng Vị cả! Chính tiếng Việt còn duy trì các âm cổ (Mẹo Mão so với mèo, Mùi so với Vị dê, Tý chút so với chuột ...) và do đó ta cần phải đặt lại vấn đề về nguồn gốc thật sự tên gọi 12 con giáp, thay vì tin tưởng (theo truyền thống) vào nguồn gốc từ phương Bắc một cách mù quáng từ đời này qua đời kia.
4) không những đã hiện diện trong Tập Vận (1067), chữ tử 吇đã có mặt trong Long Kham Thủ Giám 龍龕手鑑 (LKTG) hoàn tất vào năm 997 bởi nhà sư Hành Quân 行均. Tên nguyên thuỷ là Long Kham Thủ Kính 龍龕手鏡 nhưng vì tỵ huý của ông nội vua Tống Thái Tổ (tên là Kính 敬, đồng âm với 鏡) nên đổi thành Giám. Tài liệu này còn xếp khoảng trên 26000 chữ (đa số là dị thể) thành các nhóm chữ chính 正 tục 俗 hiện hành (kim 今), xưa (cổ 古) và dùng tương đương (或作 hoặc tác); ngoài phiên thiết các âm LKTG còn có rất nhiều tục tự trong cuốn Âm Nghĩa Thư 音義書 này - nhờ đó mà một số học giả có thể giải mã các trường hợp chữ hiếm từ các tài liệu khai quật ở Đôn Hoàng 敦煌 - một thành phố và trạm dừng chân lớn trong thời kỳ vàng son của con đường tơ lụa huyền thoại.

Một trang của Long Kham Thủ Giám
Tử 吇còn có nghĩa là rên siếc, đọc là tư tất thiết 資悉切 (LKTG), cùng nghĩa với tức 喞 (rên rỉ).
5) tiếng chuột kêu là chuuchu (Nhật), ccik-ccik (Hàn), cyik-cyik (Thổ Nhĩ Kỳ), chít chít (Việt), cit-cit (Inđônêsian) ... Tiếng chim kêu là chíu chít, chít chít (Việt) so với tiếng Anh dùng các động từ như chirp, chat, chatter, chitter ... ngay cả con gà còn gọi là chick(en), tiếng lóng là chook. Bạn đọc có thể xem thêm bảng tóm tắt các âm thanh phát ra từ các loài chim (nhỏ, lớn) hay chuột, mèo, hổ ... trang này http://www.eleceng.adelaide.edu.au/personal/dabbott/animal.html
6) nhưng theo 'Đại Nam Quốc Âm Tự Vị' (1895) thì P. Của cho rằng chút là cháu bốn đời, cũng như theo Gustave Hue (1937) trong ‘Dictionnaire vietnamien chinois francais’ ghi chút là 'petit-fils de la quatrième génération'. Nếu xem chú (chú em, chú rể, chú mày so với em của bố/ba) đại diện cho thế hệ thứ hai, thì các từ cha chú cháu chắt chít chút tạo thành một chuỗi tên gọi họ hàng đáng chú ý trong tiếng Việt. Về các danh từ (hay đại danh từ) chỉ quan hệ thân thích (bà con), ta nên phân biệt một lớp từ Hán Việt khác liên quan đến gốc Hán Tạng như
chú thúc HV 叔
bác bá HV伯
cậu cữu HV舅
...
Đây là một chủ đề thú vị (kinship terms/tên gọi họ hàng) và nên được tra cứu chi tiết thêm, nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này.
7) theo cuốn "Austro-Thai, Language and Culture, with a glossary of roots" viết bởi nhà ngữ học người Mỹ Paul K. Benedict - NXB New Haven (1975). Benedict là một trong những học giả Tây phương nổi tiếng vì đặt lại vấn đề và đưa ra các dữ kiện ngôn ngữ cho thấy ảnh hưởng của phương Nam vào văn hoá ngôn ngữ TQ cổ đại, như nguồn gốc của tên 12 con giáp là từ phương Nam chứ không phải từ phương Bắc hay của người Hán (hiện tượng mượn lại/back loan). Năm 1976, Jerry Norman và Mei Tsu-lin xác nhận thêm một lớp từ trong tiếng Hán có gốc Nam Á - xem bài "The Austroasiatics in Ancient South China: Some Lexical Evidence"; thí dụ như giang 江 là mượn của phương Nam (Nam Á/Austroasiatic) với dạng âm cổ là *krong hay *krung, và nơi giao lưu văn hoá khi tộc Hán di thiên và gặp các dân tộc phương Nam ở khu vực Hồ Bắc (湖北) - khoảng 1000 TCN tới 500 TCN, nhưng còn có thể trước đó nữa vào thời nhà Thương ... Thật ra, tiếng Việt còn duy trì một số âm cổ thuộc dạng *krong với phụ âm r nhược hoá như
扛,[ 古雙切 ], 橫關對舉也。 從手工聲 (biên hiệu 7922, Thuyết Văn Giải Tự)
Giang,[cổ song thiết ],hoành quan đối cử dã。Tùng thủ công thanh
Tiếng Việt còn giữ các dạng âm cổ là KHIÊNG, GÁNH, GỒNG (phụ âm đầu là phụ âm cuối lưỡi) so với dạng ngạc hoá giang và dạng xát hóa sông
杠,[古雙切 ],牀前橫木也。从木工聲 (biên hiệu 3656, Thuyết Văn Giải Tự)
Giang [cổ song thiết] sàng tiền hoành mộc dã。Tùng mộc công thanh
Tiếng Việt còn giữ một dạng âm cổ là (cái) CÁN (phụ âm đầu là phụ âm cuối lưỡi vô thanh tắc k) so với kán (tiếng Thái, Lào), cản (Nùng)...
Một nhận xét lạc quan và đáng thêm vào ở đây là các học giả TQ bắt đầu nhìn lại vấn đề nguồn gốc phương Nam một cách khách quan và thuận lợi hơn, phản ánh qua những tài liệu gần đây trên mạng - trích trang http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE6ZdicB1Zdic9F.htm
南方的河流多称“江”,如:“珠江”、“沅江”;北方的河流多称“河”,如:“洛河”、“渭河”、“漳河”
Nam phương đích hà lưu đa xưng“ giang”, như:“ Châu giang” 、“ Nguyên giang”; Bắc phương đích hà lưu đa xưng“ hà”, như:“ Lạc hà” 、“ Vị hà” 、“ Chương hà”
8) "An Nam Dịch Ngữ" Vương Lộc giới thiệu và chú giải - NXB Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội, Đà Nẵng 1995)
9) theo bài viết "The Old Chinese Terrestrial Rames in Saek" của GS William G. Boltz (Đại Học Washington), đăng trong cuốn "Studies in the Historical Phonology of Asian Languages" thuộc bộ 'Current Issues in Linguistics Theory' - chủ biên William G. Boltz và Michael Shapiro, NXB John Benjamins - trang 53-67.
10) xem chi tiết về âm Khme cổ (khmer ancien) trong bài "Le cycle des douze animaux: histoire d'un contact ancien entre Vietnam et Cambodge" của tác giả Michel Ferlus - đăng trong hội thảo về Ngôn Ngữ Học 'The Sixth International Symposium on Pan-Asiatic Linguistics' (25-26/11 năm 2004, Hà Nội).
11) liên hệ giữa nguyên âm u- (chút) và uô- (*chuốt-chuột) rất dễ nhận ra khi so sánh các cách đọc sau
thuộc 屬 thành phần hài thanh là thục 蜀 - chi dục thiết 之慾切 QV/TV
chuông 鐘 chung HV (thành phần HT là đồng hay *đung) - chức dung thiết 職容切 ĐV
cuộc 局 cục HV
luộc/luốc 綠 lục (sắc xanh biếc)
khung 框 khuông (khuôn)
khùng 狂 cuồng (cự vương thiết 巨王切/QV) hay còn đọc là cuống (cụ phóng thiết 具放 切/TV) -phát cuồng 發 狂 là phát khùng, cuồng cuồng 狂狂 là cuống cuồng ...v.v...
thuộc 熟 thục - đọc là thị lục thiết (Ngọc Thiên) hay thù lục thiết (QV) 【 玉篇】 市六切 【 廣韻】 殊六切
chuộc 贖 thục - đọc là thần thục thiết 神蜀切/QV/TV như cách dùng thục tội 贖罪 ~ chuộc tội. Để ý Thích Văn còn ghi nhận rằng thục có thể đọc là thụ 【 釋文】 贖, 又音樹. Đây là một bằng chứng cho thấy trường hợp nhược hóa phụ âm cuối cũng như chuột và tử (phụ âm cuối vô thanh tắc k/t/p mất đi)
chuốc (rót rượu) 酬 thù - âm trù 音儔/TV
chuột *chụt chút
...v.v...
12) xem chi tiết bài viết về lăng mộ Triệu Văn Đế của tác giả Nguyễn Duy Chính tranghttp://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/12963-phat-hien-mo-trieu-da-nam-viet/ và các trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học trang http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,29271,page=4…v.v…
13) xem chi tiết bài viết của Jerold A. Edmondson "The power of language over the past: Tai settlement and Tai linguistics in southern China and northern Vietnam" (2006) trang nàyhttp://ling.uta.edu/~jerry/pol.pdf
 ***********************************************************************************************************************