Saturday 21 December 2013

QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM KHÓA VI, KỲ HỌP THỨ TƯ (từ ngày 21 tháng 12 đến ngày 29 tháng 12 năm 1978 tại Hội trường Ba Đình Hà Nội) BIÊN BẢN TÓM TẮT NGÀY 21 THÁNG 12 NĂM 1978

QUỐC HỘI
******
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 1978


QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHÓA VI, KỲ HỌP THỨ TƯ
(từ ngày 21 tháng 12 đến ngày 29 tháng 12 năm 1978 tại Hội trường Ba Đình Hà Nội)
BIÊN BẢN TÓM TẮT
Buổi tối: Quốc hội họp phiên trù bị
443 đại biểu Quốc hội có mặt,
43 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, các Phó Chủ tịch Xuân Thủy, Hoàng Văn Hoan, Phan Văn Đáng, Nguyễn Thị Thập, Chu Văn Tấn, Nguyễn Xiển, Trần Đăng Khoa chủ tọa phiên họp.
Chương trình làm việc:
1. Mặc niệm các vị đại biểu Quốc hội đã từ trần;
2. Nghe giới thiệu một số vấn đề về nội dung của kỳ họp Quốc hội;
3. Thông qua chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội;
4. Bầu cử Đoàn Chủ tịch và Đoàn thư ký;
5. Nghe báo cáo một số vấn đề về tổ chức kỳ họp Quốc hội.

1. Mặc niệm các vị đại biểu Quốc hội đã từ trần
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban thường vụ Quốc hội Xuân Thủy báo cáo với Quốc hội có 2 đại biểu Quốc hội đã từ trần trong thời gian từ kỳ họp thứ ba của Quốc hội đến kỳ họp này:
- Cụ Joseph Marie Hồ Huệ Bá, đại biểu An Giang, từ trần ngày 11/4/1978;
- Đồng chí Nguyễn Minh Quang tức Nguyễn Văn Giác, đại biểu Hậu Giang, từ trần ngày 28/5/1978.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội đứng dậy mặc niệm một phút.
2. Nghe giới thiệu một số vấn đề về nội dung của kỳ họp Quốc hội
Đồng chí Xuân Thủy giới thiệu nội dung kỳ họp.
Sau khi đã thoả thuận với Chính phủ và các ngành hữu quan khác, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị nội dung kỳ họp này như sau:
a) Các báo cáo:
- Báo cáo của Hội đồng Chính phủ về nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1979; về dự án ngân sách Nhà nước năm 1979; về tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977.
- Tờ trình của Hội đồng Chính phủ về việc phân vạch lại địa giới một số tỉnh và thành phố.
- Báo cáo công tác của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Báo cáo công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội từ kỳ họp trước đến nay (chuyển đến các đại biểu Quốc hội, không đọc)
- Báo cáo của Ủy ban đối ngoại của Quốc hội về việc thành lập Đoàn đại biểu Quốc hội ta gia nhập Liên minh Quốc hội.
b) Bầu cử Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội.
c) Các nghị quyết:
- Thông qua nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1979;
- Phê chuẩn dự toán ngân sách Nhà nước năm 1979;
- Phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977;
- Phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới một số tỉnh và thành phố;
- Phê chuẩn nghị quyết và pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Quốc hội nhất trí thông qua.
3. Thông qua chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội
Đồng chí Xuân Thủy đọc dự thảo chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị như sau:
Thứ năm 21/12/1978
19 giờ: Quốc hội họp phiên trù bị
Thứ sáu 22/12/1978
Sáng:
- Lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội khai mạc kỳ họp
- Chính phủ báo cáo.
Chiều:
- Chính phủ báo cáo.
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo.
Thứ bảy 23/12/1978
Sáng:
- Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội phê chuẩn nghị quyết và pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ báo cáo về vấn đề phân vạch lại địa giới một số tỉnh và thành phố.
Chiều: Quốc hội họp kín để nghe một số báo cáo.
Chủ nhật 24/12/1978
Các đại biểu nghiên cứu cá nhân các báo cáo của Chính phủ, chuẩn bị tham luận và các vấn đề cần chất vấn Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ hai 25/12/1978
Sáng và chiều:
Các đại biểu Quốc hội làm việc ở các tổ.
Thứ ba 26/12/1978
Sáng và chiều:
Các đại biểu Quốc hội làm việc ở các tổ.
Thứ tư 27/12/1978
Sáng và chiều:
- Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội thuyết trình.
- Các đại biểu đọc tham luận.
Thứ năm 28/12/1978
Sáng: Các đại biểu đọc tham luận
Chiều: Các Bộ trưởng trả lời các câu hỏi và chất vấn của các đại biểu Quốc hội.
Thứ sáu 29/12/1978
Sáng: Các Bộ trưởng trả lời các câu hỏi và chất vấn của các đại biểu Quốc hội.
Chiều: Quốc hội họp phiên bế mạc:
- Thông qua các nghị quyết,
- Bầu Chủ nghiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội.
- Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội bế mạc kỳ họp.
Giờ làm việc:
Sáng: Từ 8 giờ đến 11 giờ 30
Chiều: Từ 14 giờ đến 17 giờ 30
Tối (nếu có): Từ 19 giờ 30 đến 21 giờ 00
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội.
4. Bầu cử Đoàn chủ tịch và Đoàn thư ký:
Quyền Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban thường vụ Quốc hội Nguyễn Việt Dũng đọc danh sách Đoàn chủ tịch và Đoàn thư ký của kỳ họp do Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị.
Đoàn chủ tịch gồm 31 đồng chí sau đây:
1. Tôn Đức thắng
2. Lê Duẩn
3. Nguyễn Lương Bằng
4. Nguyễn Hữu Thọ
5. Trường Chinh
6. Phạm Văn Đồng
7. Phạm Hùng
8. Võ Nguyên Giáp
9. Lê Thanh Nghị
10. Võ Chí Công
11. Huỳnh Tấn Phát
12. Văn Tiến Dũng
13. Lê Văn Chương
14. Hoàng Văn Hoan
15. Xuân Thủy
16. Nguyễn Thị Thập
17. Nguyễn Xiển
18. Trần Đăng Khoa
19. Phan Văn Đáng
20. Hoàng Quốc Việt
21. Chu Văn Tấn
22. Phan Minh Tánh
23. Hoà Thượng Thích Thiện Hào
24. Linh Mục Võ Thành Trinh
25. Cầm Ngoan
26. Núp
27. Huỳnh Cương
28. Tôn Thất Tùng
29. Cù Thị Hậu
30. Trần Hanh
31. Hồ Giáo
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, danh sách Đoàn chủ tịch kỳ họp.
Đoàn thư ký gồm 5 đồng chí sau đây:
1. Trương Tấn Phát
2. Nghiêm Chưởng Châu
3. Vũ Định
4. Nguyên Ngọc
5. Đào Văn Tập
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, danh sách Đoàn thư ký của kỳ họp.
5. Nghe báo cáo một số vấn đề về tổ chức kỳ họp Quốc hội
Quốc hội đã nghe đồng chí Nguyễn Việt Dũng báo cáo một số vấn đề về tổ chức kỳ họp Quốc hội
NGÀY 22 THÁNG 12 NĂM 1978
Buổi sáng: Sau khi các đại biểu Quốc hội long trọng làm lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội họp phiên khai mạc
443 đại biểu Quốc hội có mặt,
43 đại biểu Quốc hội vắng mặt.
Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, thay mặt Đoàn Chủ tịch, đọc diễn văn khai mạc và điều khiển phiên họp
Phó thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước Lê Thanh Nghị, thay mặt Hội đồng Chính phủ, đọc báo cáo về “Nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1979”.
Buổi chiều: Quốc hội họp phiên toàn thể
433 đại biểu Quốc hội có mặt
53 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh, thay mặt Hội đồng Chính phủ, đọc báo cáo về:
1. Tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 1978; phương hướng, nhiệm vụ tài chính và dự án ngân sách Nhà nước năm 1979;
2. Tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao Phạm Văn Bạch báo cáo về công tác của ngành toà án.
NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 1978
Buổi sáng: Quốc hội họp phiên toàn thể
435 đại biểu Quốc hội có mặt,
51 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trần Đăng Khoa, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Trần Hữu Đực báo cáo về công tác của ngành kiểm sát.
Thư ký Ủy ban thường vụ Quốc hội Trương Tấn Phát đọc báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội phê chuẩn:
1. Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 26/5/1978 về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân huyện và số lượng thành viên của Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện;
2. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/11/1978 về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình.
Bộ trưởng Phủ thủ tướng Vũ Tuân đọc tờ trình của Hội đồng Chính phủ đề nghị phân vạch lại địa giới của một số tỉnh và thành phố.
Từ 9 giờ 30 Quốc hội họp riêng không có người dự thính, Phó thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước Lê Thanh Nghị, thay mặt Hội đồng Chính phủ, báo cáo bổ sung về kế hoạch Nhà nước năm 1979.
Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Hoàng Minh Giám đọc báo cáo về việc thành lập Đoàn đại biểu Quốc hội ta gia nhập Liên minh Quốc hội.
Buổi chiều: Quốc hội họp riêng không có người dự thính
436 đại biểu Quốc hội có mặt
50 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Nguyễn Thị Thập, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày về công tác đối ngoại của Nhà nước ta.
Thượng tướng Hoàng Văn Thái, thay mặt Hội đồng Chính phủ, báo cáo về tình hình và nhiệm vụ quân sự.
NGÀY 24 THÁNG 12 NĂM 1978
Các đại biểu Quốc hội làm việc ở các tổ và các Ủy ban của Quốc hội
NGÀY 25 THÁNG 12 NĂM 1978
Các đại biểu Quốc hội làm việc ở các tổ và các Ủy ban của Quốc hội
NGÀY 26 THÁNG 12 NĂM 1978
Các đại biểu Quốc hội làm việc ở các tổ và các Ủy ban của Quốc hội
NGÀY 27 THÁNG 12 NĂM 1978
Buổi sáng: Quốc hội họp phiên toàn thể
438 đại biểu Quốc hội có mặt
48 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Chu Văn Tấn, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp.
Quyền Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội Đoàn Trọng Truyến đọc bản thuyết trình của Ủy ban về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1978; phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và các biện pháp chủ yếu của kế hoạch Nhà nước năm 1979; dự toán ngân sách Nhà nước năm 1979; quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977.
Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa và giáo dục của Quốc hội Lưu Hữu Phước đọc báo cáo của Ủy ban về công tác văn hóa và giáo dục ở vùng dân tộc ít người.
Các đại biểu Quốc hội đọc tham luận:
- Đồng chí Lê Tấn Toả, đại biểu Nghĩa Bình, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất và chế biến màu”.
- Đồng chí Hồ Chí Sơn, đại biểu An Giang, đọc tham luận “Kiên quyết trừng trị bọn xâm lấn biên giới, bảo đảm hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1919”.
- Đồng chí Nguyễn Minh Đức, đại biểu Minh Hải, đọc tham luận “Quyết tâm hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1979 về lương thực, thực phẩm”
- Đồng chí Từ Khải Hồng, đại biểu Quảng Ninh, đọc tham luận “Kiên quyết giữ vững từng tấc đất ở vùng biên giới đông bắc của Tổ quốc, bảo đảm sản xuất, ổn định đời sống trong tình hình mới”
- Đồng chí Trần Duy Hưng, đại biểu Hà Nội, đọc tham luận “Nhiệt liệt hoan nghênh Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Liên xô”.
- Đồng chí Phan Anh, đại biểu Nghệ Tĩnh, đọc tham luận “Quan niệm đúng đắn về vấn đề quyền của con người”.
- Đồng chí Trần Đăng Khoa, đại biểu Hà Bắc, đọc tham luận “Một số ý kiến về kế hoạch Nhà nước năm 1979”
- Đồng chí Nguyễn Xuân Trường, đại biểu Đồng Tháp, đọc tham luận “Quy hoạch lại dân cư Đồng Tháp Mười, phòng chống lũ lụt, sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu”.
- Đồng chí Huỳnh Cương, đại biểu Hậu Giang, đọc tham luận “Tổ quốc và dân tộc”.
- Đồng chí Nguyễn Thành Long, đại biểu Quảng Nam - Đà Nẵng, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1976 - 1980 trước thời hạn một năm”.
Buổi chiều: Quốc hội họp phiên toàn thể
438 đại biểu Quốc hội có mặt
48 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Đồng chí Hoàng Quốc Việt, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp
Các đại biểu Quốc hội tiếp tục đọc tham luận:
- Đồng chí Nghị Đoàn, đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, đọc tham luận “Tội ác của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với người Hoa”.
- Đồng chí Nguyễn Ký Ức, đại biểu Cửu Long, đọc tham luận “Cải tạo quan hệ sản xuất gắn liền với đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nông nghiệp”.
- Đồng chí Đặng Kinh, đại biểu Hải Phòng, đọc tham luận “Nhiệm vụ các lực lượng vũ trang và một số kiến nghị về củng cố quốc phòng”.
- Đồng chí Nguyễn Kim, đại biểu Hà Nội, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp”.
- Đồng chí Hoàng Minh Giám, đại biểu Hà Sơn Bình, đọc tham luận “Vạch trần âm mưu của phương Tây trong vấn đề quyền của con người”.
- Đồng chí Võ Văn Phẩm, đại biểu Bến Tre, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất lương thực, phát triển trồng cây công nghiệp”.
- Đồng chí Vũ Định, đại biểu Bắc Thái, đọc tham luận “Công nhân, viên chức thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1979”.
- Đồng chí Phạm Thị Thanh Vân, đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, đọc tham luận “Nhận xét nội dung quyền của con người của phương Tây”.
- Đồng chí Vù Mí Kẻ, đại biểu Hà Tuyên, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất lương thực, xây dựng huyện ở vùng cao”.
- Đồng chí Nguyễn Khả Kính, đại biểu Hải Phòng, đọc tham luận “Cảng Hải Phòng phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1979”.
- Đồng chí Giang Nam, đại biểu Thuận Hải, đọc tham luận “Chủ nghĩa xã hội và tự do chân chính của người nghệ sĩ”.
NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM 1978
Buổi sáng: Quốc hội họp phiên toàn thể
437 đại biểu Quốc hội có mặt
49 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trần Đăng Khoa, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp.
Các đại biểu Quốc hội tiếp tục đọc tham luận:
- Đồng chí Chu Văn Tấn, đại biểu Bắc Thái, đọc tham luận “Vấn đề định canh, định cư và đào tạo cán bộ dân tộc”.
- Đồng chí Hoàng Trường Minh, đại biểu Cao Lạng, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất và tăng cường bảo vệ biên giới”.
- Đồng chí Dương Thị Bình, đại biểu An Giang, đọc tham luận “Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp”.
- Đồng chí Đinh Văn Tuy, đại biểu Nghệ Tĩnh, đọc tham luận “Tăng cường quốc phòng, bảo vệ biên giới”.
- Đồng chí Trần Tý, đại biểu Bắc Thái, đọc tham luận “Quyết tâm giữ vững nhịp độ sản xuất gang thép”.
- Đồng chí Lê Bạch Lan, đại biểu Thanh Hóa, đọc tham luận “Tập trung cao độ lực lượng để tăng nhanh sản lượng lương thực của tỉnh”.
- Đồng chí Chế Lan Viên, đại biểu Hà Nam Ninh, đọc tham luận “Con người làm chủ, làm chủ con người”.
- Đồng chí Phạm Công Khanh, đại biểu Hải Hưng, đọc tham luận “Vai trò làm chủ tập thể của thế hệ trẻ trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện kế hoạch Nhà nước”.
- Đồng chí Nguyễn Hộ, đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, đọc tham luận “Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”.
- Đồng chí Trần Kiêm Lý, đại biểu Hà Nội, đọc tham luận “Vấn đề quyền của con người”.
- Đồng chí Phan Đình Diệu, đại biểu Thái Bình, đọc tham luận “Đưa khoa học kỹ thuật phục vụ tích cực và có hiệu quả hơn công tác cải tiến quản lý”.
- Đồng chí Nguyễn Thành Dương, đại biểu Tây Ninh, đọc tham luận “Kiên quyết bảo vệ biên giới tây nam”.
- Đồng chí Vũ Xuân Độ, đại biểu Thái Bình, đọc tham luận “Củng cố và hoàn thiện hợp tác xã nông nghiệp”.
- Đồng chí Võ Thị Liễu, đại biểu Kiên Giang, đọc tham luận “Phát huy hai thế mạnh về ngư nghiệp và nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang”
Chủ tịch điều khiển phiên họp báo cáo với Quốc hội:
Đến đây phần các đại biểu Quốc hội đọc tham luận kết thúc. Ngoài 35 đại biểu đã đọc tham luận ở hội trường, 22 đại biểu có tên sau đây đã gửi đến Đoàn chủ tịch kỳ họp bản tham luận viết của mình.
- Nguyễn Công Bình, đại biểu Tiền Giang,
- Trình Văn Cứng, đại biểu Long An,
- Mai Dương, đại biểu Phú Khánh,
- Nguyễn Văn Đàn, đại biểu Nghệ Tĩnh,
- Nguyễn Đăng, đại biểu Tây Ninh,
- An Đông Hải, đại biểu Hà Nam Ninh,
- Nguyễn Ngọc Hồ, đại biểu Hoàng Liên Sơn,
- Đỗ Xuân Hợp, đại biểu Thái Bình,
- Trần Bửu Kiếm, đại biểu Hậu Giang,
- Ksor-Krơn, đại biểu Gia Lai - Kon Tum,
- Đăng Thọ Lưu, đại biểu Nghệ Tĩnh,
- Phương Minh Nam, đại biểu Hà Bắc,
- Nguyễn Bá Phát, đại biểu Phú Khánh,
- Đỗ Xuân Sảng, đại biểu Hà Nội,
- Trần Tạo, đại biểu Hải Hưng,
- Mai Văn Tiệm, đại biểu Hà Nam Ninh,
- Phạm Văn Tiệp, đại biểu Hải Phòng,
- Nguyễn Trung Tín, đại biểu Nghĩa Bình,
- Nguyễn Trung Thành, đại biểu Cửu Long,
- Nguyễn Hữu Thụ, đại biểu Hà Sơn Bình,
- Lê Thử, đại biểu Lâm Đồng,
- Nguyễn Văn Tôn, đại biểu Vĩnh Phú.
Buổi chiều: Quốc hội họp riêng không có người dự thính.
437 đại biểu Quốc hội có mặt,
49 đại biểu Quốc hội vắng mặt,
Phó chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp.
Quốc hội đã nghe các thành viên sau đây của Hội đồng Chính phủ báo cáo bổ sung và trả lời các câu hỏi và chất vấn của các đại biểu Quốc hội về những vấn đề của ngành mình:
1. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi;
2. Đồng chí Dương Quốc Chính, Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội;
3. Đồng chí Trần Nam Trung, Chủ nhiệm Ủy ban thanh tra của Chính phủ;
4. Đồng chí Ngô Minh Loan, Bộ trưởng Bộ Lương Thực và thực phẩm;
5. Đồng chí Nguyễn Chấn, Bộ trưởng Bộ Điện và than;
6. Đồng chí Trần Dương, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước;
7. Đồng chí Vũ Văn Cẩn, Bộ trưởng Bộ Y tế.
NGÀY 29 THÁNG 12 NĂM 1978
Buổi sáng: Quốc hội họp riêng không có người dự thính
441 đại biểu Quốc hội có mặt,
45 đại biểu Quốc hội vắng mặt.
Đồng chí Hoàng Quốc Việt, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp.
Quốc hội đã nghe các đồng chí sau đây báo cáo bổ sung và trả lời các câu hỏi và chất vấn của các đại biểu Quốc hội về những vấn đề của ngành mình:
1. Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Bộ trưởng Bộ Xây dựng;
2. Đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp;
3. Đồng chí Trần Hữu Dư, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ;
4. Đồng chí Tô Duy, Chủ nhiệm Ủy ban vật giá Nhà nước;
5. Đồng chí Trần Sâm, Bộ trưởng Bộ Vật tư;
6. Đồng chí Đặng Việt Châu, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương;
7. Đồng chí Trần Văn Hiển, Bộ trưởng Bộ Nội thương;
8. Đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Bộ trưởng, Phó chủ nghiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước;
9. Đồng chí Phạm Văn Bạch, Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
10. Đồng chí Trần Hữu Đực, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
Buổi chiều: Quốc hội họp phiên bế mạc từ 15 giờ
441 đại biểu Quốc hội có mặt
45 đại biểu Quốc hội vắng mặt
Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Xuân Thủy, trong Đoàn chủ tịch, điều khiển phiên họp.
1. Thông qua các nghị quyết.
a. Về nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1979
Đồng chí Đào Văn Tập, trong Đoàn Thư ký, đọc dự thảo nghị quyết về nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1979.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, nghị quyết này.
b. Phê chuẩn dự toán ngân sách Nhà nước năm 1979
Đồng chí Đào Văn Tập đọc dự thảo nghị quyết phê chuẩn dự toán ngân sách Nhà nước năm 1979.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, nghị quyết này.
c. Phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977
Đồng chí Đào Văn Tập đọc dự thảo nghị quyết phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1977.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, nghị quyết này.
d. Phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới một số tỉnh và thành phố
Đồng chí Xuân Thuỷ báo cáo với Quốc hội:
Theo dõi cuộc thảo luận thì thấy hầu hết các đại biểu Quốc hội tán thành các đề nghị của Chính phủ về phân vạch lại địa giới một số tỉnh và thành phố. Nhưng riêng về vấn đề sáp nhập huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Hậu Giang vào tỉnh Minh Hải thì Đoàn đại biểu Quốc hội Hậu Giang đề nghị Quốc hội và Hội đồng Chính phủ xem xét thêm. Đoàn chủ tịch và Hội đồng Chính phủ tiếp nhận đề nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội Hậu Giang và hoãn vấn đề này để Hội đồng Chính phủ và địa phương hữu quan xem xét lại.
Đồng chí Đào Văn Tập đọc dự thảo nghị quyết phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Hà Sơn Bình, Vĩnh Phú, Cao Lạng, Bắc Thái, Quảng Ninh và Đồng Nai.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, nghị quyết này.
đ. Phê chuẩn nghị quyết ngày 26/5/1978 và pháp lệnh ngày 30/11/1978 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đồng chí Đào Văn Tập đọc dự thảo nghị quyết phê chuẩn nghị quyết ngày 26/5/1978 và pháp lệnh ngày 30/11/1978 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua, bằng cách giơ tay, nghị quyết này.
2. Bầu cử Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội.
Đồng chí Xuân Thủy báo cáo với Quốc hội:
Đoàn chủ tịch kỳ họp đề cử đồng chí Nguyễn Côn, Ủy viên trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Trưởng ban kinh tế kế hoạch của trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ Tĩnh, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội thay đồng chí Nguyễn Văn Trân đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyển làm nhiệm vụ khác.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội nhất trí bầu cử, bằng cách giơ tay, đồng chí Nguyễn Côn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội.
3. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội bế mạc kỳ họp
Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường Chinh đọc diễn văn bế mạc kỳ họp thứ tư của Quốc hội khoá VI.
Toàn thể các đại biểu Quốc hội đứng dậy vỗ tay rất lâu nhiệt liệt hoan nghênh thắng lợi của kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá VI.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá VI, kỳ họp thứ tư bế mạc lúc 15 giờ 30 ngày 29 tháng 12 năm 1978.

TM. ĐOÀN THƯ KÝ
TRƯỞNG ĐOÀN




Trương Tấn Phát
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH





Xuân Thủy

Thursday 19 December 2013

Chiến tranh Pháp - Việt bùng nổ vì đâu? (Vũ Như Khôi - Tạp Chí Cộng Sản)



Chiến tranh Pháp - Việt bùng nổ vì đâu?
22:48' 16/12/2011
TCCSĐT - Cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1945 - 1954) là một cuộc chiến tranh lớn kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Qua 9 năm chiến tranh ác liệt, về phía Việt Nam, đất nước đã bị tàn phá nặng nề, hàng chục vạn quân nhân và dân thường bị thương vong, hậu quả nặng nề về kinh tế, văn hoá, xã hội còn kéo dài nhiều năm sau. Về phía nước Pháp, 561.900 binh sĩ bị chết và bị bắt, trong đó có 142.900 binh sĩ Âu Phi. Đáng kể là hai viên tướng Tổng Tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam là Lơcléc và Đờlát Đờ Tátxinhi, mỗi người đều có một con trai chết trận trên chiến trường Việt Nam. Nước Pháp đã tiêu tốn 2.938,7 tỉ Phrăng chiến phí, trong đó có 1.154 tỉ Phrăng viện trợ Mỹ. Vết thương của một cuộc chiến bại còn để lại di chứng cho nhiều thế hệ người Pháp.
Vậy ai là người chịu trách nhiệm làm bùng nổ cuộc chiến tranh đó?


Trước kia, bọn thực dân gây chiến cùng những kẻ bồi bút cho chủ nghĩa thực dân cố tình xuyên tạc sự thật, đổ trách nhiệm cho phía Việt Nam là  “bội ước tấn công trước”.
Ngày nay, mấy kẻ phản động người Việt ở nước ngòai mạo danh “vì quốc gia, dân tộc” cũng lớn tiếng vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam theo đường lối “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản và của những người lãnh đạo các nước cộng sản lớn, đưa đất nước vào cuộc chiến 30 năm (cả chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ), khiến cho đất nước lụn bại, hàng triệu người chết (cả hai phía), dân tộc phân ly…(!)
Lịch sử với sự thật vốn có, luôn phán xử công minh.
Sau thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đảng ta và nhân dân ta chỉ mong muốn có cuộc sống hòa bình để xây dựng đất nước, chăm lo đời sống. Nhưng hòan cảnh nước ta lúc đó lại vô cùng phức tạp, gần 30 vạn quân của nhiều nước đế quốc, dưới danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân phát xít Nhật, rải ra chiếm đóng các thành phố, thị xã, kể cả Thủ đô Hà Nội, các đường giao thông huyết mạch, các vị trí trọng yếu về chính trị, quân sự, kinh tế ở hầu khắp nước ta. Bọn đế quốc có ý đồ và hành động khác nhau, nhưng đều chung một dã tâm lật đổ chính quyền Việt Nam độc lập, đưa dân tộc ta trở lại cuộc sống nô lệ.
Trong các nước đế quốc thì thực dân Pháp có lực lượng và điều kiện hơn cả, quyết tâm xâm lược lại nước ta, đặt lại nền cai trị trên “đóa hoa đẹp nhất” trong vườn hoa thuộc địa của Pháp trước đây.
Ngày 2 - 9 - 1945, giữa lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh chào mừng ngày Độc lập thì một số tên lính Pháp còn ẩn náu trong Thành phố, đã xả đạn vào đồng bào ta, làm hàng chục người chết và bị thương. Hai mươi ngày sau, 0 giờ ngày 23 - 9, được quân Anh và quân Nhật hỗ trợ, quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược lại nước ta. Quân và dân Nam Bộ được cả nước chi viện, đã chặn đánh quyết liệt, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại và làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.
Lúc này, nhân dân cả nước sôi sục căm thù quân xâm lược và hăm hở chuẩn bị sẵn sàng đánh trả quân Pháp nếu chúng mở rộng chiến tranh. Với trọng trách trước vận mệnh đất nước, trước sự sống còn của cách mạng, Đảng phải sáng suốt, cân nhắc lợi, hại để lãnh đạo tòan dân vượt qua khó khăn, thử thách, đưa cách mạng tiến lên. Trong Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3 - 3 - 1946,Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ:
“Vấn đề lúc này không phải là muốn đánh hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước và ngòai nước mà chủ trương cho đúng”[1].
Vào lúc này, tình thế đất nước vô cùng hiểm nghèo. Chính quyền Tưởng Giới Thạch theo lệnh Mỹ, đã ký kết thỏa thuận cho quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Trung Hoa (lúc này thường gọi là quân Tưởng). Như thế, quân Pháp đương nhiên sẽ đổ bộ vào miền Bắc nước ta. Nếu ta đánh quân Pháp, chúng sẽ vu cáo ta chống lại Đồng minh. Quân Tưởng sẽ có cớ để dùng vũ lực lật đổ chính quyền ta, lập chính quyền tay sai, cài cắm lực lượng phục vụ cho âm mưu bành trướng sau này và gây sức ép buộc Pháp phải nhân nhượng thêm quyền lợi. Quân Pháp sẽ trắng trợn tiến đánh quân ta. Về phía ta, chính quyền còn non trẻ, mặt trận dân tộc thống nhất chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn ít ỏi và non yếu về nhiều mặt. Sức ta chưa thể cùng lúc dùng lực lượng vũ trang đánh lại cả hai kẻ thù.
Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn với thực dân Pháp để sớm đuổi quân Tưởng về nước, loại bỏ một kẻ thù nguy hiểm; đồng thời tranh thủ khả năng giải quyết quan hệ với kẻ thù chính là thực dân Pháp bằng con đường hòa bình, chí ít cũng làm cho cuộc chiến tranh chậm nổ ra, giành được thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lâu dài. Trong tình thế so sánh lực lượng bất lợi và để đạt được hòa hoãn, ta phải mềm dẻo nhân nhượng, chấp nhận phải đi đường vòng, đi từng bước một, nhưng bảo đảm chắc chắn tới đích cuối cùng.
Về phía Pháp, vào đầu năm 1946, nước Pháp đang còn khó khăn bề bộn do hậu quả chiến tranh thế giới; lực lượng quân viễn chinh ở Việt Nam chưa đủ khả năng mở rộng chiến tranh ra cả nước. Nhiều người trong chính giới Pháp, kể cả Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Lơcléc và Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Đông Dương Xanhtơny cũng đề xuất dùng biện pháp đàm phán hòa bình để từng bước thôn tính Việt Nam - điều mà biện pháp vũ lực không thể đạt được.
Đó là bối cảnh lịch sử dẫn đến những cuộc hòa đàm Việt  - Pháp.
Ngày 6 - 3 - 1946, Hiệp định sơ bộ được ký kết tại Hà Nội giữa đại diện Chính phủ Việt Nam và đại diện Chính phủ Pháp. Những Điều khỏan chính của Hiệp định gồm: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, tài chính riêng và là một thành viên trong Liên bang Đông Dương và trong Khối Liên hiệp Pháp; việc thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam sẽ được quyết định thông qua một cuộc trưng cầu ý dân. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện đón quân đội Pháp vào thay thế quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Số quân Pháp giới hạn là 15.000 người và sẽ rút hết trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.
Hiệp định sơ bộ ghi nhận sự nhân nhượng của hai bên. Mục tiêu trước sau như một của tòan Đảng, tòan dân ta là độc lập, thống nhất hòan tòan, nhưng hòan cảnh cụ thể chưa cho phép ta đạt ngay tới mục tiêu đó. Chúng ta phải chấp nhận một nền độc lập hạn chế và một nền thống nhất có điều kiện. Trong tình thế đất nước như “ngàn cân treo trên sợi tóc”, sự mất, còn của vận mệnh dân tộc chỉ là một khỏang cách mong manh, hòa thì còn mà đánh thì rất có thể mất, thực hiện sách lược hòa hoãn ngay với kẻ thù xâm lược là một quyết sách cần thiết, đúng đắn và mưu lược.
Tiếp sau Hiệp định sơ bộ, cuộc đàm phán chính thức diễn ra qua Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị Phôngtennơblô. Tại các cuộc đàm phán, lập trường chính nghĩa mềm dẻo của ta là độc lập, thống nhất quốc gia và hợp tác với Pháp trên cơ sở bình đẳng. Trái lại, lập trường của Pháp hết sức ngoan cố phản động. Giới cầm quyền nước Pháp, đại diện quyền lợi tầng lớp tư bản phản động vẫn đòi Việt Nam phải nằm trong vòng cai trị của Pháp, vẫn tách Nam Bộ khỏi nước Việt Nam thống nhất. Lập trường thực dân của Pháp dẫn đến cuộc thương thuyết chính thức tan vỡ. Cánh cửa hòa bình như đã đóng chặt, quan hệ hai nước rất căng thẳng. Cuộc chiến tranh trên cả nước Việt Nam có thể xảy ra một sớm một chiều.
Để cứu vãn tình thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm tiếp tục vận động cho một giải pháp hòa bình, dù là tạm thời và mong manh. Ngày 14 - 9 - 1946, đại diện cho Chính phủ Việt Nam, Người đã ký với Mutê - đại diện Chính phủ Pháp - bản Tạm ước thỏa thuận hai bên đình chỉ xung đột về quân sự, ghi nhận cuộc thương thuyết vẫn còn được tiếp tục. Trong cuộc họp báo ở Pari giải thích việc ký Tạm ước 14 - 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bản Tạm ước này đối với tôi có phải đã thỏa mãn không? Có và không. Được rất ít nhưng có còn hơn không. Ký Tạm ước này, chúng tôi muốn tỏ cho nhân dân Pháp biết chúng tôi mong muốn một tinh thần rộng mở trong sự hòa giải”[2].
Trong những hòan cảnh cụ thể, thực dân Pháp phải ký nhận sự hòa hoãn để đạt được một số mục tiêu mà chúng không thể đạt được bằng tiến công quân sự như đưa được một số quân ra miền Bắc Việt Nam, nhưng âm mưu trước sau như một của chúng là dùng vũ lực xâm lược lại đất nước ta. Cho nên, quân Pháp luôn vi phạm các điều khỏan đã ký kết, thường xuyên gây sự, xâm phạm chủ quyền nước ta.
Diễn biến chính trị nước Pháp ngày càng phức tạp, bọn thực dân hiếu chiến ra sức phản đối hòa hoãn, các chính phủ thay nhau lên nắm quyền ngày càng thiên hữu. Cuối năm 1946, sau khi quân đội Trung Hoa đã rút về nước và quân viễn chinh Pháp đã được tăng cường đáng kể, thực dân Pháp quyết phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Giữa tháng 11 - 1946, quân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng, tiếp đó đánh chiếm nhiều công sở và tàn sát dã man đồng bào ta ở Lạng Sơn. Tướng Moóclie - Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở miền Bắc Đông Dương - đã nhận định rằng với các hành động đó, Hiệp định sơ bộ và Tạm ước đã tan vỡ hòan tòan, chắc chắn chiến cuộc sẽ lan rộng khắp Bắc Kỳ, và như thế chứng tỏ nước Pháp đã chọn chính sách dùng vũ lực.
Chính phủ ta cố gắng dàn xếp để chấm dứt cuộc xung đột, nhưng quân Pháp càng ngang ngược, yêu sách những điều xâm hại đến độc lập chủ quyền của nước ta. Trước tình hình nghiêm trọng này, Đảng ta khẳng định:
“Sự thật đã chứng minh rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14 tháng 9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”[3].
 Ngày 17 - 12 - 1946, quân Pháp bắn vào trụ sở tự vệ ta và thảm sát dã man đồng bào ta ở Hà Nội. Ngày 18 - 12, quân Pháp đánh chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng ta vẫn kiềm chế, cử người đến gặp chỉ huy quân Pháp nhằm ngăn chặn hành động chiến tranh của chúng. Chính Xanhtơny trong bức điện từ Hà Nội gửi về Sài Gòn cũng phải thừa nhận:
“Dẫu sao, cái quyết tâm (của Chính phủ Việt Nam - VNK) không phát động một cuộc đổ vỡ hòan tòan vẫn được ghi nhận cho tới hôm nay”[4]. Trong ngày 18 - 12, Pháp chuyển cho Chính phủ ta hai bức thư đòi ta phá hủy những chướng ngại trên đường phố để quân Pháp tự do đi lại, đòi để cho quân Pháp đảm nhiệm việc trị an thành phố Hà Nội, đòi để cho quân Pháp chiếm đóng nhiều vị trí quan trọng trong thành phố... Những điều trên chúng ra điều kiện phải thực hiện trong ngày 19 - 12. Thực sự, đây là tối hậu thư đòi ta hạ vũ khí đầu hàng. Thực dân Pháp đã có kế hoạch đánh úp các cơ quan Chính phủ và quân chủ lực ta ở Thủ đô Hà nội vào ngày 20 - 12 - 1946.
Ngay ngày 18 - 12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, tỉnh Hà Đông (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) dưới sự chủ tọa của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định khả năng hòa hoãn đã hết và quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến. 9 giờ 30 phút đêm 19 - 12 - 1946, Thủ đô Hà Nội nổ súng, mở đầu cuộc Toàn quốc kháng chiến.
Ngay trong đêm 19 - 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tòan quốc kháng chiến[5]. Mở đầu Lời kêu gọi, Người nêu rõ thiện chí hòa bình của ta và dã tâm cướp nước ta của thực dân Pháp: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Người khẳng định ý chí sắt đá của tòan Đảng, tòan quân, tòan dân ta: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Sự thật lịch sử, nhất là những sự kiện diễn ra trong quan hệ Pháp - Việt từ 23 - 9 - 1945 đến 19 - 12 - 1946 đã bác bỏ hòan tòan luận điệu xuyên tạc, “gắp lửa bỏ tay người” của bọn thực dân và những kẻ bồi bút tay sai chúng. Lịch sử cũng minh chứng rõ ràng nguyên nhân của cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1945 - 1954) là do thực dân Pháp cố tình gây chiến, định dùng sức mạnh quân sự cướp nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam buộc phải cầm vũ khí chiến đấu để bảo vệ quyền độc lập, thống nhất thiêng liêng của dân tộc, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người.
Những ai hiểu biết về cuộc chiến tranh, những người có lương tri trên thế giới, đều đứng về phía Việt Nam. Nhà sử học Pháp Philíp Đờvile đã nhận định có lý rằng: “Trong khi máy bay, xe tăng và binh lính Pháp ùn ùn kéo đến Việt Nam để chuẩn bị xâm lược, thì chỉ có một dân tộc cam chịu để mình bị cắt cổ, chỉ có một dân tộc ươn hèn, thực sự phản bội dân tộc mình mới không chuẩn bị gì, không hành động gì để chống lại”[6]. Sau này Tổng thống Pháp Ph. Mittơrăng, trong dịp sang thăm chính thức Việt Nam tháng 2 - 1993, đã trả lời các nhà báo rằng: “Ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được. Dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh bị đẩy vào cuộc chiến tranh”[7].
Đáp lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta nhất tề đứng lên chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!”. Trải qua 9 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp, kẻ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập, chủ quyền, tòan vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Đội quân nhà nghề hùng mạnh của nước Pháp đã bại trận, phải cuốn cờ rút về nước.
Diễn biến và kết cục cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1945 - 1954) để lại bài học tổng quát chung: Bọn xâm lược cuồng chiến dù có lực lượng hùng mạnh cũng không thể đè bẹp được một dân tộc dù là nhỏ yếu, dám đứng lên chiến đấu vì mục tiêu chính nghĩa bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia và có đường lối đúng đắn, có sức mạnh đòan kết tòan dân.
Ngày nay, Tổ quốc ta đã độc lập, thống nhất hoàn toàn, đang hòa bình xây dựng đất nước, nhưng chúng ta vẫn đang đứng trước sự đe dọa từ âm mưu xâm lược, can thiệp của các thế lực bên ngoài. Dân tộc ta với truyền thống chống ngoại xâm oanh liệt, với thế và lực mới, chắc chắn trong bất cứ tình huống nào cũng có đủ tinh thần và lực lượng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược dù chúng lớn mạnh đến đâu và từ đâu tới./.


[1] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng 1945 - 1954, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, H. 1978, t 1, tr 39
[2] . Nguyễn Thành: Chủ tịch Hồ Chí Minh ở PhápTạp chí Thông tin lý luận, H. 1988, tr 204
[3] . Báo Sự thật ngày 29 - 11 - 1946
[4] . Ph. Đờvile: Pari - Sài Gòn -Hà Nội, Pari, 1988, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr 129
[5] . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, t 4, tr 480 - 481
[6] . Philíp Đờvile: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Tạp chí Quốc tế, Pari, tháng 2 – 1949, tr 37, 38
[7] . Tạp chí Xưa và nay, số 2, tháng 5 - 1994, tr 9
PGS, TS Vũ Như KhôiHọc viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

Chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với toàn quốc kháng chiến (1946) (Nguyễn Văn Nhật - Quân Đội Nhân Dân)

Chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với toàn quốc kháng chiến (1946)

QĐND - Thứ Hai, 11/12/2006, 18:36 (GMT+7)
Sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp muôn vàn khó khăn. Hơn ai hết và hơn bất cứ lúc nào, Đảng và toàn dân Việt Nam muốn hoà bình để khôi phục, xây dựng đất nước. Nhưng kẻ thù không cho chúng ta được như vậy.
Ngay sau khi nước ta tuyên bố độc lập, các thế lực đế quốc, phản động cùng một lúc kéo vào Việt Nam, tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng tiến vào chiếm đóng Thủ đô Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã. Bọn phản động trong hai tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội lập chính quyền ở một số thị xã phía Bắc.
Ở miền Nam, ngày 6-9-1945, quân Anh kéo vào Sài Gòn và theo gót quân Anh là những đơn vị bộ binh và xe bọc thép của quân đội viễn chinh Pháp. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và sau đó đánh rộng ra các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Đất nước chưa bao giờ cùng một lúc lại có nhiều kẻ thù như vậy. Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập chưa có kinh nghiệm xây dựng, tổ chức, quản lý đất nước. Lực lượng vũ trang cách mạng còn quá bé nhỏ, trang bị vũ khí còn thô sơ, kinh nghiệm chiến đấu còn ít.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng tình hình, thấy rõ những khó khăn, đề ra những chủ trương, giải pháp nhằm hy vọng đẩy lùi và ngăn chặn chiến tranh hoặc hoà hoãn nhằm kéo dài thời gian hoà bình để chúng ta có điều kiện chuẩn bị khi chiến tranh xảy ra.
Nỗ lực ngoại giao nhằm ngăn chặn chiến tranh
Sau khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng chiến tranh ra các tỉnh Nam Bộ, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác định nhiệm vụ của “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng ấy vẫn đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành và nước chưa được hoàn toàn độc lập”.
Nhưng lúc này nếu cùng một lúc chống cả quân Tưởng và thực dân Pháp, chúng ta sẽ khó đứng vững. Do vậy, để tránh tình thế bất lợi phải cùng một lúc chiến đấu với nhiều lực lượng phản động, Đảng chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao với sách lược hoà hoãn với quân Tưởng, đàm phán với Pháp nhằm phá vỡ thế bao vây, uy hiếp của kẻ thù, ngăn chặn chiến tranh.
Từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946, Đảng thực hiện chính sách tạm thời hoà hoãn với Tưởng trên miền Bắc để tập trung sức chống thực dân Pháp ở miền Nam. Nội dung nhân nhượng chủ yếu là: Cung cấp lương thực cho quân đội Tưởng và tay sai của chúng; mở rộng 70 ghế trong Quốc hội cho Việt quốc và Việt cách không qua bầu cử và đưa một số đại diện của các đảng này vào Chính phủ Liên hiệp lâm thời; các lực lượng vũ trang được lệnh tránh xung đột với quân Tưởng, không để mắc vào cạm bẫy khiêu khích, kiếm cớ lật đổ chính quyền cách mạng.
Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp ký Hiệp ước Hoa – Pháp thoả thuận cho quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng để “giữ gìn trật tự” theo “Hiệp ước Quốc tế”. Đây là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc nhằm hợp pháp hoá hành động xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Sự liên minh giữa Pháp và Tưởng qua Hiệp ước Hoa – Pháp đã đẩy cách mạng nước ta trước “sự đã rồi”, buộc Đảng ta phải chọn con đường tạm thời hoà hoãn với Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước, kéo dài thời gian chuẩn bị kháng chiến.
Thực hiện chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Theo Hiệp định này, về mặt pháp lý, Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Điều 3 của Hiệp định sơ bộ quy định “hai bên (Việt Nam và Pháp) đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức và trong khi đàm phán, quân đội hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy”.
Thực tế, Hiệp định sơ bộ tạo thời gian hoà hoãn để nhân dân ta củng cố thành quả cách mạng mới giành được. Tiếp theo việc ký Hiệp định sơ bộ, ngày 25-3-1946, Phái đoàn Quốc hội Việt Nam do Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm nước Pháp. Ngày 29-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh cử Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn thay mặt Chính phủ Việt Nam đàm phán với Pháp. Cuộc đàm phán chính thức Việt – Pháp được tổ chức tại Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau). Tuy nhiên, do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, cuộc đàm phán không đi đến kết quả. Tuy vậy, Chính phủ Việt Nam vẫn kiên trì con đường đàm phán hoà bình.
Cũng trong thời gian này, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường thăm chính thức nước Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ nhiều nhân vật quan trọng trong Chính phủ Pháp như Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Ma-ri-ut Mu-tê (Marius Moutet) cùng các chính khách và đại diện các đảng phái, tổ chức chính trị ở Pháp. Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại bản Tạm ước Pháp - Việt quy định một số điều về quan hệ tạm thời kinh tế, văn hoá giữa hai nước, đình chỉ chiến sự ở miền Nam, quyết định thời gian tiếp đàm phán Việt – Pháp vào đầu năm 1947.
Cũng với mục đích tiếp tục đàm phán nhằm đẩy lùi hoặc tạm hoãn chiến tranh, trên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc gặp Cao uỷ Pháp Đác-giăng-li-ơ (D’Argenlieu) tại vịnh Cam Ranh vào ngày 18-10-1946 để bàn cách thức thực hiện Tạm ước ngày 14-9. Trong cuộc gặp gỡ này, Cao uỷ Pháp đồng ý bổ nhiệm một đại diện của Chính phủ Việt Nam để phối hợp thực hiện ngừng bắn, nhưng đòi quân đội Việt Nam tại miền Nam rút về miền Bắc. Ý đồ này của Pháp không được chấp nhận. Trong bức điện gửi cho Ma-ri-ut Mu-tê, Đác-giăng-li-ơ phải thừa nhận: “… Dù sao tôi vẫn có cảm tưởng rằng ông Hồ chân thành mong muốn, ít ra là trong một thời gian, sẽ tìm thấy sự giao hoà với Pháp một sự củng cố lại các kết quả đã giành được và bước đầu của những tiến bộ mới”.
Cuộc gặp gỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao uỷ Pháp Đác-giăng-li-ơ tại vịnh Cam Ranh ngày 18-10-1946 là nỗ lực cuối cùng của Chính phủ Việt Nam cùng với hàng loạt những hoạt động ngoại giao khác trong những năm 1945 – 1946 nhằm đẩy lùi chiến tranh hoặc là hoà hoãn kéo dài thời gian hoà bình để chúng ta thực hiện nhiều công việc cần kíp khác. Nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.
Nhận rõ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, chủ trương tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến.
Việc các nước đế quốc đem quân vào nước ta với dã tâm chống phá cách mạng Việt Namkhông phải là điều bất ngờ. Ngay từ khi chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc, Đảng ta đã chỉ rõ: “… Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”, hay “Sự mâu thuẫn giữa Anh – Pháp - Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp để Pháp trở lại Đông Dương”.
Chỉ 21 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố thành lập, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp đối với Việt Nam.
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945 của Trung ương Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khẩu hiệu đấu tranh lúc này vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Cùng với chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm ngăn chặn chiến tranh, hoà hoãn với các thế lực đế quốc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, tích cực chuẩn bị lực lượng để tiến hành kháng chiến.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành việc Tổng tuyển cử, thành lập Chính phủ, soạn thảo Hiến pháp, kiện toàn chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng rút vào hoạt động bí mật để tránh sự công kích của các thế lực thù địch…
Về kinh tế - tài chính, Đảng tổ chức lạc quyên cứu đói, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, khôi phục các nhà máy, hầm mỏ, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, tịch thu ruộng đất của địa chủ, phản động, chia lại ruộng đất, giảm tô cho nông dân, phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của thông qua “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, thực hiện chế độ đảm phụ Quốc phòng…
Về văn hoá – xã hội, Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới, xoá bỏ tệ nạn xã hội, thực hiện nền giáo dục mới, phát động phong trào bình dân học vụ để diệt “giặc dốt”…
Đi đôi với việc củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng, Đảng ta chú trọng xây dựng quân đội quốc gia và lực lượng công an Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Việt Nam giải phóng quân đã phát triển và đổi thành Vệ quốc đoàn. Đến khi Chính phủ kháng chiến được thành lập, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1946, lực lượng vũ trang tập trung ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn, ở Nam Bộ có 25 chi đội. Tổng số quân gồm khoảng 80 vạn người. Ngoài ra, chúng ta đã tổ chức được gần 1 triệu du kích và tự vệ.
Đối với ngành công an, ngày 21-2-1946, theo sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam công an vụ được thành lập trên cơ sở hợp nhất Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng. Lực lượng công an Việt Nam đã lớn mạnh và thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, trung kiên trong cuộc đấu tranh giữ gìn trật tự xã hội, an ninh quốc gia, đập tan các âm mưu phản loạn của các thế lực thù địch, bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân.
Tuy chúng ta chỉ có một thời gian ngắn hoà bình trong hoà hoãn, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước đã đẩy mạnh củng cố, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, tích cực chuẩn bị lực lượng để kháng chiến một khi khả năng hoà hoãn và hoà bình không còn nữa.
Phát động kháng chiến toàn quốc khi thực dân Pháp bội ước
Từ khi Pháp nổi súng xâm lược Sài Gòn và Nam Bộ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện đàm phán hoà bình với Chính phủ Pháp. Nhưng thực tế ở Đông Dương cho thấy, ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Thực dân Pháp đã bội ước Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946, tấn công nhiều nơi ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, khiêu khích nhiều nơi ở miền Bắc, từng bước leo thang chuẩn bị chiến tranh. Quân Pháp tổ chức tấn công Hải Phòng, Lạng Sơn, gây hấn ở Hà Nội, gây ra vụ tàn sát ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh ngày 17-12-1946. Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam đòi để chúng làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội, nếu không chấp nhận thì ngày 20-12-1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Đứng trước tình hình thực dân Pháp đang mở rộng chiến tranh ra Thủ đô Hà Nội hòng lật đổ Chính phủ kháng chiến, tiêu diệt chính quyền dân chủ nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có sự lựa chọn lịch sử, một quyết định chiến lược để xoay chuyển tình thế khi Tổ Quốc lâm nguy. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng tình hình và quyết định phát động chiến tranh cách mạng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Đêm 19-12-1946, quân và dân Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc với tinh thần “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.
Đêm 19 rạng sáng ngày 20-12-1946, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.
Hà Nội, với tiếng súng pháo đài Láng đã mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân và dân Hà Nội không chỉ đã tiêu diệt, tiêu hao một phần sinh lực địch, mà đã kìm chân địch trong thành phố để hậu phương tổ chức triển khai thế trận kháng chiến lâu dài, để bảo vệ cuộc Tổng di chuyển các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành về căn cứ an toàn tiếp tục cuộc kháng chiến thần thánh, trường kỳ nhưng kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta.
PGS. TS. Nguyễn Văn Nhật (Viện trưởng Viện Sử học) (Theo VOV news)

Monday 16 December 2013

Tăng ga là từ mượn âm tiếng nước nào?


Quần tăng ga là một thứ đồ lót cốt chỉ che lấy mu, để lộ gần như toàn bộ vùng mông của người mặc. Trong các tiếng châu Âu mà người Việt có cơ hội tiếp xúc, tên gọi cái quần này đều được viết là tanga. Tăng ga gần với cách phát âm của tiếng Pháp hơn cả mặc dù người Pháp không đem tăng ga vào Việt Nam. Các nhãn hiệu thời trang danh tiếng hiện nay như Triumph, Victoria’s Secret... đều làm ăn bằng tiếng Anh. Tất cả các giả thuyết sau đây đều có lý:
-Người Việt dùng âm Pháp để đọc một từ tiếng Anh;
-Người Việt dùng âm Pháp để đọc một từ quốc tế;
-Người Việt đọc một từ tiếng Anh theo kiểu Việt Nam;
-Người Việt đọc một từ quốc tế theo kiểu Việt Nam.
Nhưng không cách giải thích nào có căn cứ đủ sức thuyết phục.

Friday 13 December 2013

Xã hội mới thì có hơn gì xã hội cũ?



Văn Tân (1994:506) định nghĩa ma côkẻ sống về nghê đi dẫn gái điếm cho khách làng chơi, trong xã hội cũ. Nói làm đĩ cũng là nói phụ nữ trong xã hội cũ bán thân mình làm đồ mua vui cho đàn ông (Văn Tân, 1994:506), hay nói cách khác cũng thế: đĩngười đàn bà làm nghề mại dâm trong xã hội cũ (Văn Tân, 1994:293) và mại dâm chỉ có thể là việc của những người con gái trong xã hội cũ phải bán thân mình cho khách làng chơi (Văn Tân, 1994, 509).
Theo các nhà biên soạn từ điển Văn Tân (1994), xã hội ta hiện nay, xã hội Tây Tàu hiện nay đều không có mại dâm, đĩ điếm, ma cô ma cạo… Nhưng thực tế cho thấy ta có thể hiểu rằng các xã hội hiện nay, trong đó có xã hội ta, vẫn là xã hội cũ

Thursday 12 December 2013

BVN là gì?



BVNtiểu đoàn Việt Nam (Bataillon Vietnamien) trong quân đội quốc gia thời Bảo Đại. Tiểu đoàn Việt Nam đầu tiên được thành lập năm 1949. 

Không như các tiểu đoàn khinh quân, BVN có quân số và trang bị giống như một tiểu đoàn bộ binh Pháp. Mỗi tiểu đoàn có 1 bộ chỉ huy, một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến với 829 quân nhân (23 sĩ quan, 110 hạ sĩ quan và 696 binh sĩ), 30 súng lục, 433 tiểu liên Mat 49, 624 súng trường Mas 36, 36 súng phóng lựu, 41 trung liên 24 X 29, 8 đại liên M 30, 8 súng cối 60 ly, 4súng cối 81 ly, 4 súng không giật, 12 súng phóng hỏa tiễn, 10 xe Jeep, 10 xe Dodge, 13 xe GMC, 1 xe hồng thập tự. Tiếng là tiểu đoàn Việt Nam nhưng trang bị là của Pháp, cán bộ chỉ huy (thường) là người Pháp: tiểu đoàn 14 Việt Nam (nguyên là tiểu đoàn dã chiến Viễn Đông số 7 - 7ème BMEO) có 86 quân nhân người Pháp biệt phái trong khi tiểu đoàn 18 Việt Nam hoàn toàn là người Việt Nam.