Wednesday 2 April 2014

Phân biệt nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn (Phùng Hà Thanh)


Phân biệt nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn

Lời ngỏ

Bài viết “Một Luận Văn Mơ Hồ và Sai Lầm” đăng trên Văn Nghệ số 28 

(2787) ra ngày 13 tháng 7 năm 2013 của Ban Lý Luận Phê Bình đánh giá 

rằng luận văn thạc sỹ “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm 

Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa” của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) thiếu 

tính khách quan của khoa học trong cách thức triển khai nghiên cứu cũng 

như trình diễn một thứ ngôn ngữ khoa trương, không rõ ràng chặt chẽ, 

không phù hợp với văn phong khoa học. Vâng, theo nhận định của tôi, 

luận văn của Đỗ Thị Thoan không phải là một nghiên cứu khoa học.  Nói 

ra điều này không có nghĩa là tôi hưởng ứng bài viết. Trái lại, tôi không 

thấy giá trị của việc phê phán một công trình nghiên cứu theo hướng nhân 

văn là không khoa học. Hành động đó giống như việc phê phán một người 

là hỏng vì người ấy là con gái chứ không phải là con trai, là da trắng chứ 

không phải da màu. Trong bài viết này tôi không tham vọng bảo vệ luận 

văn thạc sỹ ấy mà chỉ muốn chia sẻ rằng học thuật không chỉ có nghiên 

cứu khoa học mà còn có nghiên cứu nhân văn. Theo tôi, dùng từ “khoa 

học” để chỉ nghiên cứu học thuật nói chung đe dọa những đường hướng 

mang tính nhân văn/nghệ thuật.

Giải thích các thuật ngữ rất dễ rơi vào yêu cầu giải thích bất tận bởi khi nói 

về một thuật ngữ này thường sẽ cần dùng tới những thuật ngữ khác cũng 

nên được giải thích. Cách giải thích của tôi chỉ là một trong nhiều khả thể. 

Tôi thừa nhận mình tránh giới thiệu một số thuật ngữ mà sự hiểu biết chúng 

có thể làm sáng rõ nhiều vấn đề được nói tới song việc giải thích chúng lại 

vượt quá khả năng viết của tôi tại thời điểm này. Một số khái niệm được 

nhắc tới trong bài là những khái niệm khó, có nhiều nghĩa và lịch sử phức 

tạp- tôi chưa thể bàn luận tường tận. Hiểu biết của tôi còn hạn chế, mà 

trình bày hết những điều mình biết cũng là không thể. Tôi chỉ gói ghém 

câu chữ làm sao cho ra được một ý rằng trong học thuật khoa học không 

phải là tất cả. Bài viết này không chỉ là sự đối đáp với Ban Lý Luận Phê 

Bình của báo Văn Nghệ. Nó còn là lời trần tình với những ai đang dùng từ 

“khoa học” cho tất cả các hoạt động nghiên cứu, không chỉ trong lĩnh vực 

văn chương.

Tôi sẽ không dùng nhiều trích dẫn, nhưng xin bày tỏ lòng biết ơn tới tác 

giả tôi gặp gỡ đầu tiên khi mới tìm hiểu về nghiên cứu học thuật, Michael 

Crotty, và những triết gia sau này ảnh hưởng sâu sắc tới cách tôi hiểu về 

học thuật, Michel Foucault, Jacques Rancière và Lynn Fendler.

Bài viết sẽ được đăng thành 3 kỳ. Kỳ 1 là những mô tả chung về vấn đề tôi 

quan tâm. Kỳ 2 bàn về nghiên cứu khoa học. Kỳ 3 nói tới nghiên cứu nhân 

văn, tính học thuật của nghiên cứu và trình bày lời kết. Người viết mong 

bạn đọc kiên nhẫn, rộng lượng và chờ những trao đổi thiện chí.

 Phân Biệt Nghiên Cứu Khoa Học và Nghiên Cứu Nhân Văn

1. Những Mô Tả Chung

1.1. Tính Thời Thượng và Sự Lấn Át của “Nghiên Cứu Khoa Học”

Trong dụng ngôn thông thường ở Việt Nam từ “nghiên cứu” hay đi kèm 

với từ “khoa học.” Rất nhiều phòng ban, hội thảo, tác phẩm nghiên cứu 

vượt ra ngoài khuôn khổ của nghiên cứu khoa học hoặc không phải là 

nghiên cứu khoa học vẫn tự định danh cho mình bằng cụm từ ấy. Bìa 1 

luận văn của Đỗ Thị Thoan có dòng: LUẬN VĂN THẠC SỸ: KHOA 

HỌC NGỮ VĂN. Từ “khoa học” ở đây có nghĩa gì? Tôi không rõ Khoa 

Ngữ Văn trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Việt Nam hay là “phương 

Đông” đã sáng tạo nghĩa từ “khoa học” khác với nghĩa từ “science” của 

“phương Tây” như thế nào[1]. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, 

“khoa học” đã trở thành một đơn vị ngôn ngữ được lưu chuyển rộng rãi 

khắp các quốc gia và nghĩa phổ biến của nó đang bị quy định bởi văn 

minh phương Tây. Bài viết này làm việc với nghĩa phổ biến của “khoa 

học” trong nghiên cứu học thuật trên thế giới.

Tôi tưởng tượng rằng tất cả các nghiên cứu ở Đại Học Sư Phạm Hà Nội và 

nhiều trường đại học đầu ngành khác ở Việt Nam, ít nhất là trong các thủ 

tục hành chính, đều gọi là “nghiên cứu khoa học.” Vị thế nổi bật của khoa 

học trong xã hội hiện đại khiến cho “nghiên cứu khoa học” trở nên thời 

thượng và lấn át. Đây không phải là hiện tượng chỉ có ở Việt Nam. Tại Mỹ, 

người ta rất ít dùng cụm từ “scientific research” (nghiên cứu khoa học) 

nhưng từ “research” (nghiên cứu) cũng thường được ngầm gắn với tính 

khoa học. Tuy vậy, nghiên cứu học thuật trong các ngành xã hội không 

chỉ có nghiên cứu khoa học. Nó còn có thể mang tính nhân văn/nghệ 

thuật. Năm 2009, Hiệp Hội Nghiên Cứu Giáo Dục Hoa Kỳ AERA đưa ra 

chuẩn báo cáo nghiên cứu hướng nhân văn cho ngành giáo dục và theo đó 

thuật ngữ “nghiên cứu hướng nhân văn” (humanities oriented research) 

dùng để chỉ “các loại hình nghiên cứu quen thuộc được dùng trong các 

lĩnh vực như lịch sử, triết học mà rõ ràng không phù hợp với các chuẩn 

khoa học xã hội cũng như các đường hướng mới nổi trong nghiên cứu giáo 

dục không xác định với các ngành nhân văn truyền thống” (Xem tr. 481 tại 

đây).

1.2. “Khoa Học Xã Hội” và “Nhân Văn” (Không Phải là “Khoa Học Nhân 

Văn”)

Chúng ta đang ở Việt Nam chứ không phải là ở Mỹ, nhưng tôi dám chắc 

giới học thuật Việt Nam đã phát triển nghiên cứu nhân văn cùng với nghiên 

cứu khoa học. Chúng ta có trường “Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân 

Văn”, được dịch sang tiếng Anh là “University of Social Sciences and 

Humanities.” Những người coi khoa học là bao trùm tất cả các hoạt động 

học thuật của con người có thể áp “khoa học” lên “nhân văn”, và dịch 

“humanities” thành “khoa học nhân văn”, một cách dịch khá phổ biến, 

được sử dụng trong nhiều từ điển uy tín. Cũng có thể cách dịch này đến từ 

một thói quen ngôn ngữ: khi “khoa học xã hội” đi kèm với “nhân văn” và 

từ “nhân văn” thường đứng sau thì người ta dễ cho rằng ngành xã hội và 

ngành nhân văn cùng nền tảng khoa học và chỉ khác nhau về đối tượng 

nghiên cứu. Theo tôi được biết, nếu nói tới tính khoa học thì song song 

với khoa học xã hội là khoa học tự nhiên chứ không phải là nhân văn. Khi 

nói tới đối tượng nghiên cứu là các hoạt động xã hội của con người thì 

song song với khoa học xã hội (cách tiếp cận khoa học) là nhân văn (cách 

tiếp cận nhân văn).

Nếu từ “khoa học” bao trùm tất cả các hoạt động học thuật thì hẳn là nó 

không thể chỉ có tính khách quan như Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn 

Nghệ quan niệm. Dẫu ai đó có gọi nhân văn là “khoa học nhân văn” đi nữa 

thì những thực hành nghiên cứu ở những ngành học thuật như nghiên cứu 

văn học so với các ngành hướng khoa học xã hội như tâm lý học, ngôn 

ngữ học không chỉ có những khác biệt về đối tượng mà còn về cách thức 

nghiên cứu cũng như các tiền giả định mà nhà nghiên cứu nương tựa. 

Những khác biệt này cần được thừa nhận chứ không phải là bị quy thành 

lỗi không đúng chuẩn mực của khoa học.

Như cách nói của giới “nghiên cứu và phê bình” văn học Việt Nam thì luận 

văn của Đỗ Thị Thoan thiên về phê bình, và phê bình cũng thuộc địa hạt 

của nghiên cứu, nếu “nghiên cứu” được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ những 

hoạt động tìm tòi có ý thức của con người. Nếu hiểu “nghiên cứu” theo 

nghĩa hẹp, quy về “khoa học”, thì vẫn còn từ “phê bình” mở ra một 

không gian làm việc tại đó người viết có quyền thể hiện góc nhìn và phong 

cách viết cá nhân, không hướng tới sự xác lập chân lý mà tới các giá trị 

đạo đức hoặc/và thẩm mỹ.

Trên thế giới, những đường hướng học thuật nhân văn tự tách mình khỏi 

nhận thức luận khoa học. Nói một cách khác, có một cách nhìn, một cách 

dụng ngôn hiện nay đang có giá trị vì nó phản ánh thực tế cũng như mong 

muốn của nhiều người trong giới học thuật: nghiên cứu khoa học và nghiên 

cứu nhân văn là khác nhau. Theo cách nhìn và cách dụng ngôn đó, nghiên 

cứu khoa học hướng tới chân lý (truth) còn nghiên cứu nhân văn hướng tới 

hiệu quả giao tiếp (effect), các giá trị đạo đức (morality) hoặc/và thẩm mỹ 

(aesthetics). Có thể hiểu nghiên cứu theo nhân văn là nghiên cứu không 

chịu sự quy định của các chuẩn khoa học.

Các ngành học thuật xã hội thường được gọi tên dựa trên đối tượng nghiên 

cứu của chúng và theo cách gọi tên như vậy hầu như không có ngành nào 

nằm gọn trong cách tiếp cận khoa học hay nhân văn. Phân chia các ngành 

học thuật thành ngành xã hội và ngành nhân văn chỉ là sự đơn giản hóa và 

mang tính bối cảnh.

Có những ngành thiên về khoa học như kinh tế học, tâm lý học, ngôn ngữ 

học, v.v., nhưng cũng có những ngành rộng mở hơn. Người ta có thể tiếp 

cận triết học, lịch sử, văn học, giáo dục, nhân chủng học theo hướng khoa 

học hay theo hướng nhân văn. Triết học phân tích (analytic philosophy) 

thiên về khoa học logic[2] còn triết học lục địa (continental philosophy) 

mang tính nhân văn nhiều hơn. Ngôn ngữ của các triết gia thuộc trường 

phái triết học lục địa như Nietzsche, Foucault hay Rancière là thứ ngôn ngữ 

giàu chất thơ. Viết sử dựa trên các cứ liệu khách quan, thông qua các quy 

trình khách quan và hướng tới các chân lý khách quan chỉ là một trong 

những đường lối của sử học. Hayden White, một sử gia người Mỹ, đã trở 

nên tiếng tăm với quan niệm viết sử giống như viết văn. Theo ông tác phẩm 

sử học có thể phân chia thành các thể loại giống như các tác phẩm văn 

học nghệ thuật.

Tại mỗi thời điểm-không gian học thuật cụ thể có thể có một đường hướng 

nghiên cứu nổi trội hơn. Nghiên cứu văn học, cùng với triết học và sử học, 

từ xưa tới nay vẫn được xếp vào nhóm ngành nhân văn/nghệ thuật vì 

chúng rộng mở với các đường hướng nhân văn/nghệ thuật.[3] Tuy nhiên ở 

Mỹ, hiện tại phương pháp luận khoa học lấn át hơn trong tất cả các ngành 

học thuật xã hội- trừ nghiên cứu văn học. Nếu coi văn học là một đối 

tượng nghiên cứu quy định sự hình thành và phát triển của ngành nghiên 

cứu văn học thì ngành nghiên cứu này rõ tính đa ngành (multidisciplinarity) 

và liên ngành (interdisciplinarity). Lý thuyết và thực hành của nó giao với lý 

thuyết và thực hành của các ngành học thuật khác như triết học, sử học, xã 

hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học v.v. Theo phân loại thông thường, xã 

hội học, tâm lý học và ngôn ngữ học là các ngành khoa học trong khi đó 

triết học và sử học nằm trong nhóm ngành nhân văn/nghệ thuật. Dựa trên 

cách thức nghiên cứu văn học ứng xử với đối tượng nghiên cứu của mình, 

người ta có thể xếp các tác phẩm nghiên cứu văn học vào các ngành đã 

kể, nhưng thao tác này nhiều khi không cần thiết và không thực hiện được.

Theo thực tế học thuật ở Việt Nam, các khoa ngữ văn thường có hai mảng 

ngôn ngữ và văn học. Mảng ngôn ngữ học mang tính khoa học còn mảng 

nghiên cứu và phê bình văn học (theo nghĩa phân biệt với ngôn ngữ học) 

không được đặc trưng bởi tính khoa học mà đón nhận nhiều đường hướng 

khác nhau. Văn phong của nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học 

thành công là thứ văn phong có sức quyến rũ riêng biệt chứ không phải là 

thứ ngôn ngữ sản xuất hàng loạt theo các khung khổ.

Ngay trong những lĩnh vực mà phương pháp luận khoa học hiện chiếm ưu 

thế các tổ chức học thuật và cá nhân các học giả vẫn không ngừng nỗ lực 

tạo không gian cho những đường hướng nhân văn/nghệ thuật. Việc xuất 

bản bộ chuẩn nghiên cứu định hướng nhân văn năm 2009 của Hiệp Hội 

Nghiên Cứu Giáo Dục Hoa Kỳ AERA là một ví dụ. Cuối năm 2010, đầu 

năm 2011, Hiệp Hội Nghiên Cứu Nhân Chủng Học Hoa Kỳ AAA đã loại 

bỏ từ “khoa học” trong nhiều đoạn văn bản về tầm nhìn của tổ chức và 

khẳng định sức mạnh của nhân chủng học nằm ở sự liên lạc giữa các ngành 

khoa học và nhân văn (xem tại đây và đây). Không có những động thái 

tương tự trong ngành nghiên cứu và phê bình văn học ở các nước phát 

triển có lẽ bởi khoa học chưa từng lấn át ngành này.

(Còn tiếp)
[1] Theo trao đổi với những người bạn hiểu biết về từ nguyên học, “khoa 

học” vốn là từ mượn tiếng Nhật (có thể xem bài viết về từ Hán Việt gốc 

Nhật của Trần Đình Sử tại đây). Người Nhật dịch “science” thành 

“kagaku” (khoa học), người Trung Quốc mượn lại của người Nhật, rồi 

người Việt đọc tân thư đầu thế kỷ 20. Từ “khoa học” cũng từng được 

phong kiến Trung Quốc dùng với nghĩa “học vấn thi cử.” Trong bài viết 

này, tôi xin không bàn về lịch sử phát triển của học thuật Á Đông.

[2] Tùy thuộc vào góc nhìn mà nhánh triết học nghiên cứu logic có được 

coi là khoa học hay không. Có quan điểm cho rằng triết học không phải là 

khoa học vì khoa học phải là nghiên cứu thực nghiệm (empirical studies) 

dựa trên các dữ liệu thực nghiệm (empirical data) nhưng bài viết này không 

khung khổ khái niệm “khoa học” theo quan điểm đó. Khái niệm “dữ liệu 

thực nghiệm” hiện nay có nhiều nghĩa khác nhau, cần đến một công trình 

triết học riêng biệt để bàn về nó, nên ở phần trình bày về nghiên cứu khoa 

học tiếp theo tôi cũng không chọn cách nói về khoa học mà phải xử lý 

khái niệm này.

[3] Nhân văn khác với nghệ thuật như thế nào? Có nhiều đáp án khác nhau 

và không loại trừ nhau vì chúng phản ánh những góc nhìn khác nhau. Đáp 

án A: không phân biệt. Các trường đại học của Mỹ thường dùng từ “nghệ 

thuật” (arts) để nói về nhân văn (humanities). Nhiều trường đại học tổng 

hợp có hai trường thành viên là College of Social Science (Đại Học Khoa 

Học Xã Hội) và College of Art (Đại Học Nghệ Thuật), với các khoa như 

triết học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Đáp án B: có sự phân biệt dựa 

trên phương tiện làm việc- nhân văn làm việc với ngôn từ còn nghệ thuật 

làm việc với các phương tiện vật chất khác. Đáp án C: có sự phân biệt dựa 

trên tính sáng tác-trình diễn hay học thuật. Các ngành nghệ thuật thiên về 

sáng tác-trình diễn còn các ngành nhân văn thiên về học thuật. Cách phân 

biệt này cũng chỉ là tương đối vì tính sáng tác-trình diễn và tính học thuật 

không tách biệt nhau- hoặc chỉ tách biệt nhau theo nhận thức luận khoa 

học. Trong bài viết này tôi chọn từ “nhân văn” (mà không làm việc với từ 

“nghệ thuật”) và nói tới nghiên cứu học thuật theo truyền thống đang dựa 

trên ngôn từ và chưa được coi như là các sáng tác nghệ thuật nhưng đang 

chứng kiến nhiều nỗ lực cởi bỏ những hạn chế này.

**

Nhã Thuyên và Những Tiếng Nói Ngầm (2)
January 8, 2013 · by Strawberry


Đọc văn phê bình của Nhã Thuyên, tôi thường không đủ kiên nhẫn để xem 

từng con chữ và xâu thành những chuỗi ý tưởng mạch lạc. Tôi bắt lấy cái 

không khí được gợi ra từ thứ kiến trúc không định hình của những bài viết, 

để cảm thấy mình đang thở như thế nào trước sóng ngôn từ. Trong cái 

không gian có đôi chút kỳ lạ ấy, thi thoảng tôi nhặt được một vài vật dụng 

quý giá − những con chữ và ý tưởng có thể nhập tâm…

Tập tiểu luận này, tuy vẫn là những bài viết dài, không đề mục nhỏ, gồm 

những câu phức và ý tứ khó đoán trước, đã đi theo lối khác. Khi dấn thân 

vào những hiện tượng văn chương và những tiếng thơ nhỏ lẻ có thân phận 

“ngoài lề”, tác giả hướng tới sự sáng rõ và cái chung. “Những Tiếng Nói 

Ngầm” nỗ lực cho một không gian công, gửi đi những lời mời tham dự. Nó 

là một hoạt động nhân văn tiềm ẩn vụng dại và tổn thương hơn là những 

tác phẩm hoàn thiện cứng và sáng như kim cương.

Khi đón lấy những bài viết, tôi thấy mình được nhận, phải trăn trở, và vui.

Tổng kết một mảng rộng thơ ca trong cả một giai đoạn lịch sử của đất 

nước (Hậu Đổi Mới), Nhã Thuyên gọi được ra những tác giả, tác phẩm, sự 

kiện và hiện tượng thú vị. Đó là sự tri ân các nhà thơ không hoặc ít được 

các diễn đàn chính thống công nhận − những “hiện diện vắng mặt”. Đó là 

sự trao tặng rất nhiều quan sát và ưu tư về văn học Việt Nam đương đại mà 

một độc giả như tôi không sẵn có nhưng sẵn lòng muốn nhận. Đó là sự 

khơi gợi nghĩ suy và khởi xướng sẻ chia. Khi mô tả, khi kể chuyện, khi 

diễn giải − xuyên suốt là sự tra vấn không ngừng vào những vấn đề từ mối 

quan hệ giữa nhà thơ và thể chế. Nhà thơ với giấc mơ tự do tiết lộ đời sống 

xã hội đầy áp chế như thế nào? Sự chống lại và phủ định thể chế khi nào 

là/không là định kiến hẹp hòi biến thơ ca thành một thứ công cụ tuyên 

truyền ngược, hoặc thành một món hàng bán cho khách nước ngoài như 

một thứ đặc sản địa phương? Giá trị của những trường hợp thơ ca phản 

kháng nổi bật thực sự nằm ở đâu? Những câu hỏi như thế được đặt ra 

trong sự nhạy cảm với bối cảnh xã hội, văn hóa, chính trị đang có nhiều 

biến động. Điều đáng quý là tác giả không tra vấn từ một khung khổ quyền 

lực đã thiết lập. Con người ấy dũng cảm đẩy mình tới những ranh giới: 

“Tôi đang ở giữa cái bên lề và trung tâm, ở giữa hiện tại và quá khứ, ở giữa 

những đứt gãy và kết nối, giữa những phân lập và sự nhập nhằng, giữa sự 

sáng tỏ và rối loạn, giữa sự đi lên và thoái hóa, tôi đang đứng chênh vênh 

để nhìn ra bên ngoài và nhìn vào bên trong, vừa như kẻ ngoại cuộc vừa 

như người trong cuộc, nhưng là lựa chọn không đứng về phía sự trấn áp.”

(Nhã Thuyên – lời ngỏ).

Một người bạn – một người đọc sách Lâm Vũ Thao từng viết trên blog cá 

nhân khi đọc tập thơ Rìa vực của Nhã Thuyên rằng anh chưa thấy ai (có 

thể trong số những người viết (nữ) bây giờ ) nghĩ nhiều về việc viết như 

Nhã Thuyên. Lần này vẫn thế, và Nhã Thuyên đã trực diện với những câu 

chuyện vĩ mô của văn học Việt Nam đương đại. Chính tập tiểu luận của 

bạn ấy cũng là một câu chuyện nhỏ trong đó. Tôi hình dung ở một nước 

Âu Mỹ “phát triển”, những bài viết như thế này sẽ có tác giả là một vị giáo 

sư tên tuổi trong nhà trường chính thống, đăng trên một tạp chí chuyên 

ngành uy tín và được tính điểm vào chỉ số phát triển nghiên cứu của giáo 

sư đó, nhà trường đó và quốc gia đó. Vị giáo sư ấy, đã trải qua nhiều thử 

thách về bằng cấp và trình độ chuyên môn, có thể đưa ra những câu trả lời 

rõ ràng và phong phú hơn dựa trên một nền tảng thâm sâu về lịch sử tư 

tưởng nhân loại. Đó có thể là một kịch bản mà người ta mong ước cho phê 

bình văn học ở Việt Nam. Tôi không phản đối mong ước đó, nhưng tôi 

thấy mình xúc động với câu chuyện diễn ra ở đây. Một tác giả trẻ tuổi và 

độc lập viết ra những tiểu luận phê bình với những suy tư sâu sắc và quyết 

liệt tìm được không gian sẻ chia trên một diễn đàn ngoài lề. Những khát 

khao vẫn tìm được nơi để gửi gắm. Có sự bình đẳng giữa những phẩm 

chất tốt đẹp và khả năng giao tiếp của con người. Một điều nữa, tôi thấy 

vui khi đọc “Những Tiếng Nói Ngầm” còn vì đã gặp được những bài thơ 

thật hay.

Tác giả tập tiểu luận từng tự hỏi: “Giữa những thất vọng, phải chăng sự bất 

an, hỗn loạn và dường như thiếu khuynh hướng của thơ Việt Nam hôm nay 

có thể lại là một mảnh đất sống động giàu tiềm năng?” (Nhã Thuyên − lời 

ngỏ). Với tôi, trong đời sống tinh thần của con người, niềm hi vọng về đời 

sống tinh thần của con người không nhất thiết phải nảy nở thành một cái 

cây rồi đơm hoa kết trái mới có giá trị. Niềm hi vọng chính là một thứ quả 

ngọt ngào.

(Phần viết này được đăng trên Da Màu)

**
Phân biệt nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn (Kỳ 3)
August 14, 2013 · by Strawberry
Mời các bạn đọc Kỳ 1 và Kỳ 2.

3. Sơ Lược về Nghiên Cứu Nhân Văn

Từ “khoa học” đã gắn với tính “khách quan”- dùng nó để chỉ tất cả các 

hoạt động học thuật cản trở các đường hướng nghiên cứu đề cao cảm 

quan trí tuệ của cá nhân, hướng tới các giá trị đạo đức và thẩm mỹ hơn là 

sự xác lập chân lý. Tôi đang nói về một vấn đề đáng quan tâm chứ không 

đưa ra các chuẩn mực về sự đúng sai khi sử dụng từ ngữ. Tuy nhiên phân 

biệt khoa học và nhân văn không phải là đề xuất của riêng tôi mà là một 

vấn đề trong lịch sử phát triển các ngành học thuật xã hội. Ở một số cộng 

đồng sự phân biệt này là quá rõ, ai cũng hiểu nên ít khi nói tới. Ở những 

cộng đồng khác, người ta không quan tâm nhiều đến những đường hướng 

khác với cách thức mình đang thực hiện. Và tại một số không gian, sự 

phân biệt này đang là vấn đề để trao đổi.

Có nhiều cách nghĩ về khoa học khác nhau, nên cũng có những cách nghĩ 

về nhân văn khác nhau. Tựu trung, nhân văn dùng để chỉ những đường 

hướng nghiên cứu không theo nhận thức luận và phương pháp luận khoa 

học (mà phần 2 của bài viết này đã bàn tới). Phần viết nhỏ này cố gắng mô 

tả các đặc điểm của nghiên cứu nhân văn, song việc làm đó chỉ để hình 

dung về các cách tiếp cận khác với khoa học hơn là xác lập ra một 

(những) hình mẫu về nghiên cứu nhân văn.

Nghiên cứu hướng nhân văn không mang tính công thức, người nghiên cứu 

làm việc với sự nhạy cảm trí tuệ của mình trước vấn đề nghiên cứu và 

hướng tới hiệu quả giao tiếp, giá trị đạo đức và thẩm mỹ. Nếu như khoa 

học đề cao lý tính thì nhân văn không cho rằng lý tính và cảm tính tách rời 

nhau hoặc cần phải tách rời nhau.

Khi học thạc sỹ, tôi từng nghe luận án tiến sỹ có thể là một bài thơ. 

Chương trình tiến sỹ tôi đang theo học có một môn gọi là Poetic Inquiry 

(nghiên cứu mang tính thơ) được thiết kế bởi một nhà thơ. Khóa học này 

không loại trừ phương pháp khoa học khi làm việc với thơ nhưng cũng mở 

ra một khả thể: kết quả nghiên cứu học thuật là một bài thơ. Đó có lẽ là 

một trong những nỗ lực đề cao tính thi ca của ngôn ngữ. Nghiên cứu nhân 

văn một cách truyền thống không đi xa như vậy, nhưng nó vẫn được đặc 

trưng bởi tính viết văn: quá trình nghiên cứu không tách rời với quá trình 

biểu đạt và nội dung nghiên cứu không tách rời với ngôn ngữ chở nó.

Các tác phẩm học thuật nhân văn mang tính thi ca thường có hình thức là 

“văn xuôi”, nhưng là thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nhiều nhà phê bình đã 

dùng từ “poetry” (thi ca) để nói về tác phẩm của Nietzsche, Foucault, 

Derrida và Rancière. Các thuật ngữ của Foucault có những ý nghĩa khác 

nhau trong từng bối cảnh sử dụng chứ không nhất quán như cách người ta 

vẫn hình dung về sử dụng thuật ngữ trong học thuật. Cuốn GLAS của 

Derrida cho thấy sự chơi đùa với các yếu tố thị giác của con chữ và trang 

giấy- nó là một tác phẩm typography. Nhiều tác phẩm học thuật theo 

hướng nhân văn không hề thực hiện thao tác trích dẫn và không trình bày 

lịch sử vấn đề. Cuốn Hướng Tới Một Triết Học về Nhiếp Ảnh của Flusser 

có dòng ghi: “Cuốn sách này nỗ lực làm tăng mối nghi ngờ đó và để giữ 

phẩm chất giả thiết, tránh trích dẫn từ các công trình trước về cùng chủ 

đề. Cũng vì lý do tương tự, không có danh mục tham khảo” (xem tr. 7, tại 

đây). Các tác phẩm nhân văn kể chuyện cá nhân và đưa ra kiến giải cá 

nhân dựa trên một số khái niệm học thuật nhiều không kể xiết. Bạn đọc có 

thể tìm thấy một loạt các bài báo học thuật như vậy ở số kỉ niệm 50 năm 

thành lập của một trong những tạp chí hàng đầu ngành triết học trong giáo 

dục Studies in Philosophy and Education (có thể đọc ở đây một ví dụ).

Nghiên cứu nhân văn khác với thơ, truyện, hay các tiểu luận không mang 

tính học thuật ở chỗ nào? Không phải ở tính khoa học mà là ở tính học 

thuật.

4. Tính Học Thuật của Nghiên Cứu

Tôi hiểu học thuật như một môi trường tại đó con người học tập một cách 

chuyên tâm và chuyên nghiệp. Một người học chuyên nghiệp có trách 

nhiệm hệ thống hóa, kiểm chứng và phủ định những chân lý, giá trị đã xác 

lập cũng như khám phá, sáng tạo những chân lý, giá trị mới. Không phải cứ 

là học giả mới làm được những điều này, nhưng với học giả thì đó là trách 

nhiệm. Tính học thuật không phải là một tập hợp các tính từ chỉ đặc điểm. 

Học thuật là một lĩnh vực quá rộng lớn, nên việc quy cho nó một số tính 

chất sẽ làm cho không gian học thuật bị bó hẹp. Một tác phẩm thành công 

về mặt học thuật nghĩa là nó đạt được sự công nhận của chuyên gia trong 

ngành hay một hội đồng/cộng đồng học thuật cụ thể. Điều này đúng với cả 

nghiên cứu khoa học lẫn nghiên cứu nhân văn. Tuy nhiên, khi đánh giá một 

công trình khoa học, các hội đồng/cộng đồng khoa học dựa trên tính khoa 

học- là một tập hợp các đặc điểm đã xác lập. Phương pháp luận khoa học 

thường là yếu tố được quan tâm trước tiên. Về nguyên tắc phương pháp 

luận khoa học là những hình mẫu đã xác lập và người ta dễ thống nhất về 

nó, nhưng trên thực tế thành viên của một hội đồng khoa học vẫn có thể 

bất đồng ý kiến. Nghiên cứu nhân văn được đặc trưng bởi tính viết văn và 

dựa trên cảm quan trí tuệ cá nhân. Từng hội đồng/cộng đồng học thuật sẽ 

có cách làm việc riêng. Một hội đồng/cộng đồng này có thể đưa ra những 

phép tắc rất chặt chẽ và cứng nhắc; một hội đồng/cộng đồng khác có thể 

khuyến khích tự do biểu đạt và phá cách. Trong cùng một hội đồng/cộng 

đồng tiếp nhận nghiên cứu nhân văn cũng có những ý kiến trái chiều. Giáo 

sư hướng dẫn của tôi nói rằng tôi có thể sáng tác một bài haiku ba dòng và 

bài thơ đó có thể được chấp nhận là một luận án tiến sỹ nếu như mọi người 

trong hội đồng học thuật chấp nhận như vậy. Với diễn đạt ấy, cô đã nhấn 

mạnh rằng ý kiến của một hội đồng học thuật ở Khoa được tôn trọng gần 

như tuyệt đối. Tôi không nghĩ những giáo sư trong hội đồng học thuật của 

tôi sẽ chấp nhận một bài haiku như một luận án tiến sỹ. Họ có những thói 

quen khó thay đổi, và bản thân tôi cũng có tham vọng khác cho tác phẩm 

của mình. Không có sức ép gì về mặt quy chế thì không có nghĩa là người 

ta sẽ hành xử một cách dễ dãi. Môi trường học thuật hiện tại của tôi tôn 

trọng sự làm việc với nhau giữa những con người có phẩm giá và trình độ 

hơn là những quy chuẩn buộc phải theo.

Bài viết này của tôi có thể tương đương với một bài thơ chia sẻ nỗi đau về 

một “trạng huống nhân sinh”: Tôi muốn nhân văn, không muốn khoa học, 

xin đừng dùng khoa học đánh đập nhau! Song tôi không nghĩ một bài thơ 

sẽ có giá trị giao tiếp với những người quan tâm tới việc sử dụng thuật ngữ 

“khoa học.” Tôi đã tìm đến – tạo ra một bài viết dày đặc thuật ngữ. Khi 

hướng tới một đối tượng cụ thể, tôi tự thấy mình cần dựa trên hệ thống 

thuật ngữ của các học giả và các sự kiện trong một số ngành học thuật. 

Chính là tôi đã lựa chọn tính học thuật cho bài viết của mình. Tính học 

thuật đặt trong bối cảnh nghiên cứu nhân văn khác nhau theo từng hoàn 

cảnh giao tiếp. Ở lớp học về triết của giáo sư hướng dẫn mình tôi đã nộp 

những bài thơ như bài tập cuối khóa; còn ở một lớp học khác, cũng về 

triết, do một giáo sư khác phụ trách, tôi đã nộp một tiểu luận với lối diễn 

đạt quy củ, rõ nghĩa.

Như cách tôi hình dung về tính học thuật của một nghiên cứu nhân văn thì 

luận văn thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan thành công về mặt học thuật ở chỗ nó 

được một hội đồng học thuật gồm các giáo sư, tiến sỹ có uy tín trong 

ngành đánh giá với số điểm tối đa. Việc Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn 

Nghệ mang một luận văn thạc sỹ ra một cộng đồng người không biết đến 

luận văn mà phân tích và đánh giá tính “khoa học” của nó với một thái độ 

khinh miệt thiết nghĩ là một việc làm gây tổn thương cho môi trường học 

thuật. Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn Nghệ giải thích rằng có một bài viết 

như thế để đề phòng trường hợp người ta nhắc tới luận văn như một 

“huyền thoại”, giống như cách Đỗ Thị Thoan đã “hoang tưởng hiếu đại” 

về nhóm Mở Miệng, coi nhóm Mở Miệng như một “huyền thoại.” Ban Lý 

Luận Phê Bình cho rằng từ “huyền thoại” mà Đỗ Thị Thoan dùng để nói 

về Mở Miệng có một ý nghĩa ngợi ca. Điều này một lần nữa cho thấy 

người viết bài báo đó không ở trong cộng đồng học thuật phù hợp để đánh 

giá luận văn, bởi từ “huyền thoại” theo nghĩa học thuật của nó có thể 

không có nghĩa tán dương sự tốt đẹp, cao cả hay tính “thần thánh”. 

“Huyền thoại” có thể chỉ là một câu chuyện đã trở thành một đơn vị ngôn 

ngữ, nghĩa là nó được lưu truyền và được gán cho một số ý nghĩa văn hóa 

nhất định. Ban Lý Luận Phê Bình nhận định rằng Đỗ Thị Thoan không giải 

thích rõ nghĩa một số thuật ngữ, song yêu cầu giải nghĩa luôn có thể là bất 

tận và nhà nghiên cứu cần lựa chọn giải nghĩa một số ít trong những thuật 

ngữ mình sử dụng. Những thành viên của một hội đồng học thuật được giả 

định là đủ kiến thức nền tảng để hiểu hầu hết các thuật ngữ trong tác phẩm.

Bài báo “Một Luận Văn Mơ Hồ và Sai Lầm” chỉ là một ví dụ. Trong khi 

tôi trân trọng những bài viết bàn về cách ứng xử với một hội đồng học 

thuật thì tôi hoang mang, thậm chí là bàng hoàng, trước các phát biểu về 

đường hướng nghiên cứu của luận văn, ngay cả từ phía những người bảo 

vệ nó. Với tôi, cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu và hệ thống thuật ngữ mà 

luận văn “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng 

Từ Góc Nhìn Văn Hóa” sử dụng thực sự đòi hỏi những ai muốn đánh giá 

nó một cách học thuật phải có kiến thức chuyên ngành hẹp. Chỉ xét riêng 

cái tên của luận văn thôi đã thấy nó chứa những từ ngữ tưởng như là bình 

thường nhưng thực ra là những thuật ngữ rất khó, như “lề”, “thực hành 

thơ”, “góc nhìn văn hóa.” Những người không hiểu các từ ngữ này như 

những thuật ngữ mà họ không biết đã quát lên những nhận xét mà tôi cho 

rằng hết sức khiếm nhã và xin phép không trích ra ở đây. Những hiểu lầm 

đáng tiếc xảy ra khiến tôi không thể không nghĩ về sự bất cẩn hay những 

khó khăn trong việc đọc hiểu và phát biểu về một tác phẩm học thuật. Rất 

tiếc là không một ai trong hội đồng chấm luận văn lên tiếng với công 

chúng.

Vấn đề đặt ra là người “bên ngoài” có thể can thiệp như thế nào vào một 

tác phẩm học thuật? Lê Tuấn Huy viết: “Cần nói thêm, Luận văn Thạc sỹ 

của Đỗ Thị Thoan không phải là văn học mà là nghiên cứu khoa học về 

văn học (dẫu là văn học bên lề), nên không phải là đối tượng cho những 

người phê bình theo kiểu đọc văn, đọc thơ rồi khen chê về văn phong, 

hình tượng, giá trị tư tưởng của tác phẩm” (ghi chú ii).

Tôi nghĩ ai cũng có thể có cảm nhận riêng của mình về bất cứ một điều gì, 

nhưng cũng cần dành thời gian tương xứng cho nó và giữ cho mình đức 

khiêm tốn. Tôi không có ý rằng cần phải có một hội đồng học thuật có 

chuyên môn hẹp mới có thể nhìn ra giá trị của một tác phẩm học thuật. 

Tính học thuật cũng không phải là tất cả giá trị của một tác phẩm học 

thuật. Song tính học thuật của một luận văn thạc sỹ thực sự là tính phụ 

thuộc vào một hội đồng học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu hẹp. Một luận 

văn thạc sỹ như của Đỗ Thị Thoan được viết ra cho chính bản thân tác 

giả, hội đồng đánh giá nó (được thành lập trước hay sau thì vẫn cần lựa 

chọn các thành viên phù hợp) và một số nhỏ những người cùng mối quan 

tâm. Nó không phải là một tác phẩm tuyên truyền cho đại chúng.

Tôi không cho rằng chỉ có những cộng đồng nhỏ hẹp có chuyên môn mới 

được bàn luận về một tác phẩm học thuật, song khi nó trở thành đối tượng 

được bàn tới trong những cộng đồng lớn hơn thì các tương tác xung quanh 

một tác phẩm học thuật có thể mang những ý nghĩa khác. Một tác phẩm 

dù ít người biết rõ như thế nào mà vẫn bàn luận sôi nổi thì thực chất nó 

đang là một công cụ cho những “trò chơi quyền lực”. Cụm từ trong ngoặc 

kép này không sẵn nghĩa xấu. Tôi không suy đoán về động cơ của những 

người khác, nhưng xin thừa nhận với tôi cách người ta đối xử với luận văn 

ấy là cái cớ để tôi nêu ra vấn đề phân biệt nghiên cứu khoa học và nghiên 

cứu nhân văn, tính học thuật của một nghiên cứu. Đó là cách mà tôi, như 

một người nằm ngoài hội đồng đánh giá luận văn, tham gia vào diễn ngôn. 

Cá nhân tôi đang ở trong một hoàn cảnh học thuật phải quan tâm tới những 

vấn đề đó.

5. Lời Kết

Giống như nghiên cứu khoa học, nghiên cứu nhân văn có những tác phẩm 

dở tệ bên cạnh những tác phẩm xuất sắc. Điều tôi muốn nói là trong giới 

học thuật có ít nhất hai cách làm việc khác nhau: nhận thức luận khoa học 

với sự xác lập các tiêu chí khách quan để đánh giá tác phẩm và nhận thức 

luận nhân văn với sự trao niềm tin vào con người. Tôi không trao đổi để 

tìm ra cách làm việc nào là tốt hơn.

Nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn có thể là những thứ đối chọi 

nhau. Nhưng ở một góc nhìn khác, chúng có thể không tách biệt. Tôi 

không ủng hộ việc phân chia các ranh giới rõ ràng, nhưng tôi phân biệt hai 

cách làm việc với hi vọng cơi nới thêm không gian học thuật, trước hết là 

cho bản thân mình. Với tôi, nhìn nghiên cứu học thuật bằng lăng kính của 

khoa học sẽ loại trừ nhiều tác phẩm nhân văn khỏi phạm vi học thuật trong 

khi đó lăng kính của nhân văn lại có thể nhìn khoa học như một bài thơ. 

Tôi biết một người bạn làm khoa học tự nhiên với công việc hàng ngày là 

đếm vi khuẩn ecoli, và bạn ấy coi công việc của mình là nghệ thuật- nghĩa 

là bạn ấy gắn nó với những niềm vui, với các giá trị đạo đức và thẩm mỹ 

bên cạnh việc xác lập một chân lý nào đó về loài vi khuẩn.

Tôi cũng xin nhắc lại hay nói thêm về một số điều tôi không làm. Lựa chọn 

của tôi là không trích dẫn những nội dung trong bài viết theo quy chuẩn 

nào. Tôi không giả định rằng những điều mình viết là chân lý. Tôi không 

cho rằng mình đang tranh đấu cho “lẽ phải” để hướng tới một xã hội, một 

nền học thuật tốt đẹp hơn (theo đường hướng phê phán quy phạm). Tôi 

cũng không cố tình trình bày các thông số mang tính khoa học xã hội về 

bản thân như tuổi tác, trình độ văn hóa và chuyên ngành học thuật. Bài viết 

để lộ ra những thông tin cá nhân nhưng chúng gắn liền với những nội dung 

tôi muốn sẻ chia chứ không phải là những thông tin đưa vào để người đọc, 

theo tư duy khoa học xã hội, dự đoán tính uy tín hay giá trị của bài viết. 

Giả dụ có một hội đồng học thuật nào đó đánh giá bài viết này là vô giá trị, 

cá nhân bạn có tin điều đó? Bạn đọc chính là người trong “cộng đồng học 

thuật” mà tôi hướng tới, tuy tôi không thể chọn người đọc nhưng người 

đọc chọn tôi.

Bài viết của tôi nhắc tới luận văn thạc sỹ “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực 

Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa”. Tôi không phân 

tích và đánh giá nó kĩ càng bởi tôi vẫn muốn công việc ấy được để dành 

cho những người trong hội đồng chấm luận văn. Phần lớn chúng ta cũng 

không tiếp cận được toàn văn tác phẩm, nhưng tôi là người có cái duyên 

được gặp gỡ cả tác phẩm và tác giả nên cũng xin được bày tỏ sự trân 

trọng dành cho tác phẩm này.

MỘT LUẬN VĂN MƠ HỒ VÀ SAI LẦM (BAN LÝ LUẬN PHÊ BÌNH BÁO VĂN NGHỆ - Văn nghệ số 28/2013)


VỤ NHÃ THUYÊN - BÁO VĂN NGHỆ: MỘT LUẬN VĂN MƠ HỒ VÀ SAI LẦM

Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa, luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan với người hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, tại Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2010 đáng lẽ đã rơi vào chìm khuất bởi nó thực sự không có giá trị khoa học.

Nhưng sau đó lại xuất hiện loạt bài được tác giả luận văn thác triển và đăng tải trên website “damau.org” dưới cái tên Những tiếng nói ngầm đã thu hút một số nhà phê bình khác lần tìm đến bản luận văn này, phản bác những diễn đạt mơ hồ và hàm ý văn hóa - chính trị trong đó, như loạt bài phê phán của Nguyễn Văn Lưu trên Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 30/5 – 20/6/2013 và các bài viết trên một số tờ báo khác. Nhiều người đã nhận ra ngoài các mơ hồ, sai lạc về mặt khoa học, nó còn ẩn chứa nhiều hàm ý khác về chính trị - xã hội không thể bỏ qua.
Luận văn này đưa vào phần trình thuật bối cảnh của nó những mô tả khá cẩu thả, sơ sài và sai lệch về Hội Nhà văn Việt Nam, báo Văn Nghệ cũng như nền văn học nước nhà nói chung. Những trình thuật kiểu đó trong bản luận văn luôn luôn có xu hướng mở rộng ôm đồm, mơ hồ, bao gồm nhiều trình bày khái niệm và cụm từ tương đương khái niệm như “một quốc gia hậu thuộc địa như Việt Nam”, “hậu đổi mới”, “quyền lực văn hóa”, “sự độc quyền văn hóa”, “cặp Hà Nội - Sài Gòn” v.v., tất cả đều quy chiếu các thực tại đa dạng phức tạp của đời sống xã hội đất nước với những hiện trạng - viễn cảnh và vấn đề lịch sử riêng, mà luận văn không tỏ ra nhận thức được, cũng không đưa ra nguồn tham chiếu phù hợp, chỉ sao chép sự mô tả giản lược từ đâu đó, hoặc võ đoán hoặc định kiến, không cân bằng khách quan, cũng không có gì là phát hiện. Hơn nữa, cái mà luận văn này tự xác định như một “góc nhìn văn hóa” về đối tượng nghiên cứu của nó lại có những biểu hiện hoang tưởng hiếu đại kỳ quặc; thí dụ như:
“Cùng với sự nổi tiếng của Mở Miệng, Nxb Giấy vụn đã trở thành một huyền thoại: Nxb ngoài luồng, huyền thoại về La Hán Phòng nơi hội tụ các anh em giang hồ, huyền thoại về sự thăm dò của an ninh, huyền thoại của những kẻ sẵn sàng “đái vào Chúa”… Những huyền thoại xây dựng hình ảnh Mở Miệng: Lạ, Phá Phách, phá hỏng tiếng Việt, phản kháng về chính trị, chống đối chính quyền. Họ là kết hợp của Cách Tân và Phản Kháng.” (tr.57)
Giọng xưng tụng khá nồng nhiệt dễ dãi này hẳn không phù hợp với giọng điệu khách quan chặt chẽ, chính xác, được trông đợi ở một văn bản nghiên cứu khoa học, vậy nhưng nó lại đã được cấp cho cái tư cách đó. Đây là một điểm then chốt của trường hợp này. Bởi nếu chuỗi bài viết này chỉ đăng tải tự do trên internet chứ không tập hợp thành một “luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn”, rồi được thông qua và bảo vệ thành công, thì hẳn mấy ai biết có những ai chú ý. Nhưng nó đã đưa được vào chỗ “trung tâm”, vào hệ tri thức “chính thống” một bản văn đả phá “trung tâm” và “chính thống”. Và có lẽ chẳng hài hước chút nào nếu như về sau chính bản luận văn này sẽ được ai đó kể đến như một trường hợp thành công “huyền thoại” của trào lưu phản - văn hóa ở Việt Nam, giống như những “thực hành thơ”, “thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa” mà luận văn này chọn làm đối tượng. Những điều như thế khiến chúng tôi thấy cần phải tham gia bàn thảo...
1 - Góc nhìn cá nhân, góc nhìn khoa học hay… góc nhìn khác?
Cần phải nói ngay rằng chúng tôi thất vọng khi đọc một luận văn thạc sĩ kém tinh thần khoa học và năng lực nghiên cứu, lỏng lẻo tùy tiện về cấu trúc các chương mục đến như bản luận văn này.
Và cũng phải nói ngay, năng lực đọc văn chương thể hiện qua các nhận định tràn lan trong luận văn là rất đáng ngờ; chẳng hạn, ở trang 38:
 “Tập truyện ngắn gần đây của Bảo Ninh với nhan đề “Chuyện xưa, kết đi được chưa?” (NXB Văn học, 2009) có thể đọc như một nỗi bức bối day dứt với chính sự ám ảnh dai dẳng mà như vô vọng của nỗ lực xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ việc định nghĩa lại quá khứ, cái quá khứ đã thành lực cản khủng khiếp.” (những chữ in đậm trong các trích dẫn luận văn này kể từ đây đều do chúng tôi nhấn mạnh)
Với cái văn phong rườm rà cảm tính biểu thị một nhận thức mơ hồ, một nhận định như thế là rất khiên cưỡng và sai lầm, chỉ chứng tỏ người đọc này không hiểu nổi các tác phẩm này cùng các ngữ cảnh đặc trưng của nó, và do đó, tính đa nghĩa văn chương và những ý nghĩa có thể có của các văn bản.
Hoặc nữa, nếu người đọc này muốn xác lập kiến giải mới mẻ riêng của mình về một tác giả - tác phẩm đã rất nổi tiếng và được thảo luận nhiều suốt hơn hai mươi năm qua như Bảo Ninh và các truyện của ông, thì phải trình bày, ít ra là vắn tắt, luận chứng phù hợp với văn cảnh khoa học của một luận văn nghiên cứu. Hoặc, khi bàn về một hiện tượng văn học trong quá khứ như nhóm “Nhân văn giai phẩm”, không thể chỉ quy chiếu ở một góc nhìn, một hệ quan điểm và cần phải có những luận cứ khoa học nghiêm túc hơn. 
Điều bất ngờ bộc lộ ở nhận định trên, là cái tâm thế của người: những cụm từ do chúng tôi nhấn mạnh (in nghiêng) trong trích dẫn trên không mô tả được ý nghĩa hay tinh thần các truyện ngắn của Bảo Ninh trong tập truyện đã dẫn, nhưng lại mô tả được chính tinh thần của luận văn này, bởi sự lặp lại các diễn đạt trùng ngôn: nỗi bức bối day dứt - sự ám ảnh dai dẳng vô vọng/ nỗ lực xóa bỏ quá khứ  - việc định nghĩa lại quá khứ. Và lối diễn đạt cảm tính, khoa đại như thế xuất hiện với tần suất cao trong suốt cả bản luận văn,  các chương đoạn về cơ sở lý thuyết của luận văn cũng biểu cảm như trong mô tả về đối tượng nghiên cứu – mà thực ra, không đủ cả lý thuyết lẫn mô tả, chỉ lặp lại các diễn đạt cố gắng giải thích lẫn nhau, cố gắng cho có vẻ tư biện.
Việc luận văn này tự đưa ra bằng cớ đa số là các chứng cứ chưa xác định, hoặc các trích dẫn lấy từ các trang mạng cộng với sự đọc sai lạc của nó đối với những truyện ngắn rất giản dị, minh bạch, rất khó để mà nhầm lẫn, như trong thí dụ vừa dẫn, khiến chúng tôi phải cho rằng việc đọc của nó với chính đối tượng nghiên cứu của nó cũng là không đủ độ tin cậy. Và khiếm khuyết của luận văn này trên phương diện ngữ văn học bộc lộ đồng bộ với cái yếu và thiếu của nó với tư cách một diễn ngôn khoa học: không khách quan về cách tiếp cận, không minh bạch về thuật ngữ, không minh định về các khái niệm vận dụng, không khẳng định được lợi ích của nghiên cứu và đối tượng thụ hưởng.
Tính không khách quan được nhìn nhận như một tiền đề của luận văn này, và lập tức bộc lộ tính nước đôi mâu thuẫn sẽ đi suốt văn bản này:
“tính chất khách quan của nghiên cứu không được đề cao, bởi tôi sẽ thấy mình không có tâm thế để nói/viết về hiện tượng này, nếu như tôi không can dự phần nào vào đời sống thơ đương đại, như một kẻ “ở giữa”, cũng là một kẻ “ngoài lề” khi trực tiếp hay gián tiếp lựa chọn đứng về phía những cái bên lề. Tuy nhiên, tính chất không hoàn toàn khách quan và sự trải nghiệm này có thể góp thêm vào những diễn giải về một hiện tượng chưa hoàn tất, nói riêng Mở Miệng và nói chung về dòng văn học ngầm ở Việt Nam. Nỗ lực của tôi là nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện, dưới góc nhìn cá nhân đối với một hiện tượng đáng kể về văn học và văn hóa nói chung trong nhiều năm qua ở Việt Nam.” (tr.5)
Có thể thấy ngay cái gọi là “góc nhìn văn hóa” nêu trong cái tên của luận án trùng khớp với khẳng định góc nhìn cá nhân; và suốt cả luận án này không có chỗ nào giải thích quan niệm tác giả về “văn hóa”/ “góc nhìn văn hóa” – điều không hợp lý khi luận văn đã lựa chọn và khẳng định đối tượng nghiên cứu là một hiện tượng đặc biệt về văn hóa. Thêm nữa, khẳng định về tham gia vào “sự trải nghiệm này”, “lựa chọn đứng về phía” đối tượng nghiên cứu, đã cung cấp cho người nghiên cứu một vị trí người - trong - cuộc, chính là cái kinh nghiệm được cho là “có thể góp thêm vào những diễn giải” về đối tượng, rồi gọi đó là nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện, mà không hề làm rõ khoảng cách cho việc quan sát hay sự khác biệt để cho phép hoặc cản trở việc tái hiện – những yếu tố mà một luận văn cao học phải trình bày về nghiên cứu của mình.
Dường như tác giả nhầm lẫn khi chỉ nêu hạn chế là “Sức hấp dẫn của đối tượng… không đem lại sự tự do cho người nghiên cứu” (tr.5) – điều có thể ngầm hiểu, thông qua các trình bày về sau của luận văn, là do đối tượng nghiên cứu bị thể chế hiện hành cấm đoán. Nhưng những hạn chế của nghiên cứu còn xuất hiện từ chính năng lực và phương pháp của nó, hay từ quan hệ riêng của nó với đối tượng.
Quan điểm góc nhìn cá nhân này rõ hơn trong nhận định của luận văn về hai luận văn khác cũng đề cập đến Mở Miệng “nhưng mang tính chất điểm danh và “nói theo” hơn là bộc lộ sự đọc, chia sẻ.” hay “dè dặt trong việc tiếp cận hay đánh giá.”(tr.7)
Vậy là tính khách quan của “nghiên cứu” này đi từ chỗ “không được đề cao” đến chỗ “không hoàn toàn”, mập mờ với việc “can dự phần nào”, chập mạch với “sự trải nghiệm” đó, rồi có vẻ hiện ra lại với khẳng định “nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện” để nhằm “tái dựng một hiện thực như - nó - là”(tr.18).
ở đây, nếu vẫn muốn là “khoa học” thì sẽ không được phép hy sinh tính khách quan dù với lý do nào. Các diễn đạt mơ hồ về “tính khách quan không được đề cao” lẫn tính khách quan “không hoàn toàn” chỉ có thể hiểu là không có nổi tính khách quan cần thiết, hay một ngụy biện lúng túng về tiêu chuẩn khách quan cho góc nhìn cá nhân.
Phá bỏ ngay từ đầu nguyên tắc và các tiêu chuẩn về tính khách quan của một nghiên cứu, theo chúng tôi, đã là phá bỏ tư cách nghiên cứu khoa học của luận văn này, để chỉ còn lại sự lúng túng và nhầm lẫn của “một góc nhìn cá nhân”.
Chúng tôi cho rằng ở đây chủ yếu là những lúng túng và nhầm lẫn trong việc cố gắng quan sát và lý giải một đối tượng đặc biệt đang diễn tiến, trước hết bởi sự mơ hồ về năng lực đọc - hiểu tác phẩm văn học như đã dẫn ở trên, sau là bởi sự mơ hồ trong cách sử dụng các thuật ngữ từ loại phổ biến đến loại đặc thù trong các diễn đạt của luận văn này.
2 - Sự hỗn độn, mơ hồ của những khái niệm
Về tổng thể, luận văn này có hai giọng điệu, một giọng đậm dấu ấn “góc nhìn cá nhân”, giọng kia khá hỗn độn do lấy vào từ các nguồn khác nhau mà đôi khi không cước chú về nguồn. Chúng tôi sẽ chọn ngẫu nhiên một vài thí dụ để thấy cái cách thức chung của sự nhầm lẫn ở đây, bởi những diễn đạt của “luận văn” đơn điệu giống nhau từ đầu đến cuối, không hề phân biệt giữa mô tả với phân tích, giữa trần thuật với nhận định/đánh giá.
Lưu ý rằng suốt cả luận văn không có chỗ nào minh định quan niệm về những khái niệm như “hệ thống”, “tổng thể”, “bản chất”, v.v. mà có lẽ tác giả cho là ai cũng hiểu như mình, trong khi vận dụng một vài (mảnh) lý thuyết phương Tây làm khung cho nghiên cứu, mà với những lý thuyết ấy thì những khái niệm chung kia phải được quan niệm lại; và trong khi đối tượng được đề cập có quy mô nhỏ đặc thù, có những liên hệ phức tạp với “xã hội” và “văn hóa”. Tinh thần khoa học biến mất trong các mối tơ vò của luận văn, bởi đã bỏ qua nguyên tắc về thứ nguyên phân loại; và bỏ qua tính tương đối khi cố lập ra những mối quan hệ giữa những thứ sẽ phải biến đổi khi có liên hệ với nhau.
Đây là một trong những mớ bòng bong đó:
“Ở đây quan niệm văn hóa như một tổng thể lại cần được xác định. Mỗi cấu trúc xã hội đều hướng tới sự duy trì những giá trị tổng thể của hệ thống, trong đó thiết lập những thứ có thể tạo nên “trung tâm” của nó để làm trục vận động xã hội. (i)
Trung tâm này thường được nhìn như một bức thành cố định, rắn chắc, khó lay chuyển; và khi nó được thừa nhận , nó củng cố vị trí và sự rắn chắc của nó bằng việc gạt bỏ và chèn ép những cách thức tồn tại khác, những Cái Khác (Others) hoặc muốn tồn tại, những cái khác đó phải ở bên lề, hay phải ngoại vi hóa. (ii)
Có thể hình dung diễn ngôn văn hóa, trong đó có văn học, như một sân chơi, mà người tham gia phải tuân theo những luật lệ định sẵn. Những cuộc nổi loạn trong văn học – thường được gắn kèm với danh từ “cuộc chơi” – thực ra lại là cuộc chơi nhằm phá hủy diễn ngôn quyền năng này và duy trì một quyền năng khác.(iii)
Do đó, trong cấu trúc tổng thể này luôn ngầm diễn ra một mối quan hệ xung đột về quyền lực, với nhu cầu thay thế, chiếm chỗ. Và do đó, cái thường được xem là giá trị (tức cái trung tâm hiện hữu) không phải cái phổ biến, cái bất biến mà có tính điều kiện, phụ thuộc vào những bối cảnh về văn hóa, xã hội, chính trị cụ thể, trong đó, một trung tâm đang tồn tại có thể bị hủy bỏ quyền lực, giải cấu trúc, hay “giải trung tâm”. (iiii)
… Quá trình giải trung tâm, quá trình phá vỡ những điều kiện của luật chơi trong sân chơi văn hóa cũng chính là cái gọi là “bản chất chính trị của văn hóa.” (iiiii) (tr.21)
Đoạn trích trên diễn đạt một ý đồ lập luận dựa trên quan hệ nhân - quả nhằm dẫn giải căn cứ lý thuyết về “trung tâm” và “giải trung tâm” thông qua bước “nổi loạn” của  “văn học” như là “Cái Khác”. Nhưng người viết đã tự phá ý đồ đó của mình bởi những bước sai lầm lúng túng và tham vọng ôm đồm; cũng còn bởi những lỗi diễn đạt trong câu tiếng Việt – những lỗi diễn đạt trong một trình bày học thuật thường biểu thị sự hiểu mù mờ của người diễn đạt.
Đoạn văn trên mở đầu bằng ý xác định lại “văn hóa như một tổng thể”, mà theo trật tự trình bày, có thể thấy “tổng thể” đó gồm chứa những “cấu trúc xã hội”, “trung tâm”, ‘những cách thức tồn tại khác” - “những Cái Khác”, “diễn ngôn văn hóa” - “văn học” - “sân chơi”, “một mối quan hệ xung đột về quyền lực”, “giá trị” - “những giá trị tổng thể”, “những bối cảnh về văn hóa, xã hội, chính trị cụ thể”, “Quá trình giải trung tâm”, rốt cục là “bản chất chính trị của văn hóa”.
Hơn nữa, những khái niệm như “trung tâm ngoại biên” dẫn đến “giải trung tâm”, từ phản biện “đến nổi loạn”, “phản kháng” từ “thiêng hóa” đến “giải thiêng” hạ bệ thần tượng là những khái niệm không chỉ mang tính văn hóa mà còn mang tính chính trị - xã hội cao, khi sử dụng phải hết sức cẩn trọng và có trách nhiệm, không thể buông tuồng tùy tiện như đã được sử dụng trong luận văn này và cả loạt bài mà tác giả đã triển khai công bố trên các trang mạng.
3 - Và những lỗi sơ đẳng của tư duy và diễn đạt
Có thể thấy ngay rằng giữa những yếu tố vừa liệt kê trên không có được loại quan hệ “như một tổng thể”. Hẳn người viết cho rằng vì chúng có khả năng chứa đựng hay ngoại suy lẫn nhau, nên chúng “như một tổng thể”. Nhưng đó là một lỗi logic sơ đẳng: nếu đặt chúng trong quan hệ chứa đựng lẫn nhau, thì ngay ở đoạn (i), “tổng thể” văn hóa sẽ phải loại trừ “Mỗi cấu trúc xã hội”, hoặc ngược lại, vì “mỗi cấu trúc” đó đã phải là “một tổng thể” rồi.
Sẽ thấy rõ hơn cái lỗi đó khi nhìn vào các lỗi diễn đạt tiếng Việt tối nghĩa:
Câu thứ hai của đoạn (i), “Mỗi cấu trúc xã hội” làm chủ ngữ cho “sự duy trì”, “thiết lập” “trung tâm” của nó để làm “trục vận động xã hội”; thế mà ngay sang câu đầu của đoạn (ii), thì cái “trung tâm” ấy lại phải đóng vai một chủ ngữ giả, chịu điều kiện hóa một cách bâng quơ là “khi nó được thừa nhận” (thì nó sẽ chèn ép “những Cái Khác”…)
Thật kỳ quặc khi cho rằng cái “trung tâm” đã làm “trục vận động” của “cấu trúc xã hội” lại phải chờ đến “khi được thừa nhận” mới “vận động”. Cái gì sẽ đứng ra “thừa nhận” nó? “Mỗi cấu trúc xã hội” nào khác hay sao?!
Chúng tôi hiểu được ý lập luận của đoạn này, và tin rằng có nhiều người hiểu điều đó. Song, văn bản, lại là văn bản mang danh khoa học, luôn có tính pháp lý của trật tự văn bản. Theo đó thì hai câu dẫn trên đây phải phủ định lẫn nhau. Và toàn thể đoạn luận nói trên cũng tự giải thể theo cách đó.
Những lỗi lập luận, lỗi logic cùng với lỗi văn bản tương tự là một đặc điểm xuyên suốt bản luận văn này, khiến chúng tôi phải nghĩ rằng liệu người viết có ý thức rõ ràng về những điều mình viết ra hay không, kể cả những phần dường như lấy lại từ cái viết khác nào đấy.
Sự nhầm lẫn và nhận thức mơ hồ trong luận văn này còn một khía cạnh cần nói nữa, là mơ hồ về ngay thực tại đời sống hôm nay đất nước, khi nó bàn đến biện giải về “mỹ học của cái tục” (tr.82) trong cái đối tượng “nghiên cứu” chủ yếu, là thơ của nhóm Mở Miệng.
Dùng những diễn đạt khái quát hóa và tuyệt đối hóa một cách vội vã là một dạng khác của lỗi tri thức và lỗi văn bản ở đây:
“Văn thơ cách mạng đã “ý thức hệ” toàn bộ ngôn ngữ, thành một hệ ngôn ngữ công thức, hoàn toàn xa rời đời sống. Cái tục ở đây, liên quan đến những taboo khác là chính trị và tình dục. Liên quan đến chính trị khi nó văng tục để chửi, để căm uất, liên quan đến tính dục khi nó gọi tên và miêu tả các bộ phận sinh dục và hành vi tính giao bằng từ ngữ nguyên thủy của nó. Rõ ràng cần phân biệt cái tục như chất liệu của đời sống tự nhiên [không phải là chỉ của đô thị, có khác chăng là trong bối cảnh văn minh đô thị, cái tục được biểu hiện rõ hơn như cấm kỵ, trong khi, ở các làng quê chẳng hạn, cái tục được phát ngôn tự do hơn] và cái cách ứng xử với nó. Khác với các tiểu thuyết hiện thực thường được cho là có “quyền” đưa nguyên đời sống với ảo tưởng tái hiện sự thật chân thực, còn trong thơ, văng tục bị loại trừ, bị chèn ép.” (tr.88)
Thành thực mà nói, chúng tôi chưa từng hình dung một cử nhân ngành ngữ văn sẽ viết ra một đoạn văn đầy lỗi kiến thức sơ đẳng về ngôn ngữ và về đời sống như đoạn trích trên; Người viết này đã lướt qua những sách vở nào về ngôn ngữ để thấy được một hiện tượng “ý thức hệ” toàn bộ ngôn ngữ” hay một “hệ ngôn ngữ công thức, hoàn toàn xa rời đời sống”? Chẳng có thứ “ngôn ngữ” nào xa khỏi “đời sống” được, khi mà chúng chỉ hiện hữu trong “đời sống”, kể cả các tử ngữ. Có lẽ tác giả luận văn không ý thức được quy mô nội hàm của các khái niệm lớn như “ngôn ngữ” và “đời sống”, cũng như mối quan hệ phổ biến giữa hai khái niệm này.
Rồi lại còn “bằng từ ngữ nguyên thủy của nó”, để “diễn giải” cho “thơ rác, thơ dơ, thơ nghĩa địa”, mà có lẽ không hề đặt ra câu hỏi kiểu “phản tư liên tục” như chính luận văn này đề nghị, để tự vấn xem khái niệm về “từ ngữ nguyên thủy” có nghĩa là gì đối với tiếng Việt mà luận văn đang dùng, hơn nữa là đối với các từ tục tĩu. Liệu những tiếng thằng - cu - cái - hĩm có phải là “từ ngữ nguyên thủy của nó” hay là không? Cái người viết đó đang ở đâu - xem gì - đọc gì mà rút ra nhận định ở làng quê chúng ta ngày nay nói tục “tự do hơn” ở các đô thị? Điều này đơn giản là thật nực cười.
Và ngành ngữ văn sẽ nói gì với hai câu cuối của đoạn trích trên, về “tiểu thuyết hiện thực” và về việc thơ văng tục “bị chèn ép”?
Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không thể thảo luận, dù chỉ ở mức điểm qua, đủ các khiếm khuyết hay đặc điểm sai lạc, mơ hồ, thích đại ngôn ở luận văn này – với tư cách nó là một luận văn khoa học ngữ văn, chứ không phải với tư cách chỉ là một văn bản phê bình - tiểu luận về văn học. Luận văn này đã không thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu nó tự đặt ra cho nó, bởi nó đã không có tính khách quan khoa học ngay từ bước đặt vấn đề, bởi nó kém nhận thức về hiện thực xã hội đất nước, bởi nó lệch lạc về quan niệm thẩm mỹ văn học mà cụ thể và đơn giản nhất là viết cho ra một văn bản sáng sủa dễ hiểu – một trong những yêu cầu tiêu chuẩn đối với luận văn khoa học.
Mọi thứ ý đồ học thuật hay xã hội mà luận văn này tham vọng đạo đạt đều bất thành do các lỗi văn bản và lỗi tri thức quá nhiều trong đó. Chúng tôi thật sự lấy làm tiếc cho một nỗ lực thiếu hướng dẫn, một nhận thức chưa đạt tới tầm mức. Nếu luận văn nhắc đi nhắc lại đề nghị phải “phản tư liên tục” trước các vấn đề và hiện tượng văn hóa - xã hội, thì đáng tiếc vì sao nó không “phản tư liên tục” với lựa chọn của chính nó.
____________________________

Báo Văn Nghệ số 28 ra ngày 13/7/2013 có các nội dung chính sau đây:
- Vấn đề hôm nay: Một luận văn mơ hồ và sai lầm của Ban lý luận phê bình.
- Chuyên mục Nhìn lại 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII:
Bài Văn hóa làng xã và những chuyển động tất yếu của tác giả Thục Khanh.
- Sáng tác:
+ Truyện ngắn: Cái nhọt bọc đã vỡ của tác giả Hội An, Cát hai màu của tác giả Phạm Trường Thi.
+ Truyện ký Thím tôi của tác giả Hà Nguyên Huyến. 
+ Thơ của các tác giả: Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Quang Hưng, Đoàn Văn Mật, Đàm Chu Văn, Nguyễn Thuý Quỳnh, Phạm Phát, Dương Phượng Toại, Đỗ Trọng Khơi, Lê Hường.
- Bút ký, Phóng sự: Đà Nẵng Đà Nẵng của tác giả Văn Công Hùng; Ngành đường sắt sao nỡ làm ngơ của tác giả Kiều Vượng 
- Văn học nước ngoài: Đôi điều về trường phái văn chương hiện đại của tác giả Anh Chi.
- Lý luận phê bình: Văn học nhìn từ lý thuyết trung tâm - ngoại vi của tác giả Nguyễn Văn Dân.
- Trò chuyện văn chương: Nhà văn Dương Hướng “Phẩm chất quan trọng nhất là trung thực và nhân ái” của tác giả Nguyễn Nghiêm.
- Cùng sự tham gia của các tác giả Trần Hoàng Vi, Trần Đắc Túc, Đào Đức Tuấn, Vũ Bình Lục, Hà Lan, Xuyên Sơn trong các chuyên mục khác.
Văn nghệ

Tuesday 1 April 2014

Kỳ án Nhã Thuyên (Thư Hiên - Học Thế Nào)


Kỳ án Nhã Thuyên – Thư Hiên




Mấy tuần qua, dư luận cộng đồng mạng rúng động bởi “kỳ án” Nhã Thuyên. Diễn biến gần đây nhất là sự kiện ngày 27/3, cô Đỗ Thị Đoan bị Trường ĐH Sư phạm Hà Nội mời đến để nhận các quyết định thu hồi bằng và hủy luận văn thạc sĩ nhưng cô từ chối không nhận các quyết định này. Trước đó thì PGS TS Nguyễn Thị Bình,  người hướng dẫn Nhã Thuyên làm luận văn này không được kéo dài thời gian làm việc dù luật định cho phép.

Câu chuyện được bắt đầu từ mùa hè năm 2013 và khá rùm beng trên nhiều báo chính thống vào thời điểm đó. Nhưnghiện nay, ngay cả những báo chính thống đã từng “đánh” Nhã Thuyên cũng không đăng tải dòng nào về các quyết định trên. “Bí mật” được tiết lộ qua một tờ báo vẫn bị dư luận xem là “lá cải”, Kinh doanh và Pháp luật. Tờ này đăng tải đơn kêu cứu của PGS TS Nguyễn Thị Bình về việc bà Bình bị Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho nghỉ hưu sớm 5 năm mà không có lý do xác đáng. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức bài viết đã bị gỡ xuống, nhưng sự hiện hữu ngắn ngủi của nó vẫn kịp để nhiều trang mạng và báo “lề trái” chộp được.
Mất việc
Cô Đỗ Thị Thoan (vẫn được gọi bằng bút danh là Nhã Thuyên) vốn là sinh viên K53 Khoa Ngữ Văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp ĐH, cô tiếp tục theo học khóa cao học K18 tại trường này (năm học 2009 – 2010). Luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa” của cô được hội đồng thẩm định của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đánh giá xuất sắc. Đây là một trong những lý do giúp cô được ký hợp đồng ngắn hạn làm giảng viên giảng dạy môn Văn học Việt Nam hiện đại tại khoa Ngữ Văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội từ tháng 9/2012.
Theo sự phân công của lãnh đạo khoa Ngữ văn và tổ trưởng tổ bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, cô Nhã Thuyên (từ giờ chúng tôi xin phép được gọi cô Đỗ Thị Thoan bằng cái tên này bởi nó quen thuộc với giới nghiên cứu văn học và dư luận) dạy chuyên đề Văn học người Việt ở hải ngoại cho sinh viên năm thứ 3. Đây là một học phần tự chọn, tuy mới nhưng nhanh chóng tạo được sự hấp dẫn đối với sinh viên. Trước Nhã Thuyên, ở khoa Ngữ văn có TS Nguyễn Phượng đã (và đang) thành công trong việc dạy chuyên đề này. Mỗi học phần Văn học người Việt ở hải ngoại do TS Nguyễn Phượng hoặc Nhã Thuyên dạy có khoảng trên dưới một trăm sinh viên tham gia. Trong khoa còn có một giảng viên nữa cũng dạy chuyên đề Văn học người Việt ở hải ngoại, nhưng thu hút được ít sinh viên theo học hơn.
Nhưng những rắc rối với Nhã Thuyên lại bắt đầu từ chính chuyên đề cô được lãnh đạo khoa phân công giảng dạy. Trao đổi với chúng tôi, Nhã Thuyên cho biết: “Khoảng tháng 4/2013 trong khoa bắt đầu có thông tin cơ quan an ninh đến kiểm tra việc giảng dạy của tôi. Lúc đó tôi đã làm một văn bản giải trình nội dung từng buổi dạy theo yêu cầu của khoa… Sau đó tưởng như mọi việc được giải quyết êm thấm theo nghĩa mình cũng chẳng có vấn đề gì về tư tưởng. Tôi vẫn được tiếp tục dạy cho đến khi kết thúc học phần cho sinh viên cũng như vẫn được chấm bài bình thường. Nhưng cuối tháng 5/2013 thì khoa có một buổi nói chuyện với tôi. Họ nói rằng mong tôi hiểu cho họ về việc họ phải chịu một sức ép từ cơ quan an ninh và họ không thể ký tiếp hợp đồng để tôi có thể tiếp tục giảng dạy tại khoa nữa”.
Tuy nhiên Nhã Thuyên cũng cho biết cô thật sự không biết “an ninh” là những ai. Cô chỉ nghe nói đến họ. Còn mọi trao đổi về những việc liên quan tới công việc giảng dạy của cô từ trước đến nay, cô chỉ được thực hiện với lãnh đạo khoa Ngữ văn.
“Tổng tấn công”
Dẫu hết tháng 5/2013 Nhã Thuyên không còn là giảng viên của khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội nữa nhưng cô vẫn tiếp tục bị “truy đuổi” bằng một loạt bài báo xuất hiện trên các tờ Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Nhân dân, Quân đội Nhân dân… Căn cứ để “họ” truy đuổi cô là luận văn thạc sĩ đã được bảo vệ xuất sắc từ năm 2010. “Đầu tiên là một bài báo của Chu Giang trên tờ Văn nghệ TP Hồ Chí Minh vào khoảng 26, 27/5 (bài Có giải thiêng lịch sử được không? của tác giả Chu Giang, Tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, trang 16, số 256 – HTN). Tôi nghe đồn sẽ có 5 kỳ, nhưng thực tế họ đăng 4 kỳ. Nhưng loạt bài này chưa tạo được sự ầm ĩ nào với truyền thông, cho đến khi xuất hiện hai bài trên Nhân Dân và Quân đội Nhân dân vào khoảng tháng 7/2013”, Nhã Thuyên nhớ lại.
“Đánh” trên truyền thông chưa đủ. Trong hội nghị lý luận phê bình lần thứ 3 của Hội nhà văn Việt Nam tại Tam Đảo (4, 5/6/2013), nhà phê bình Chu Giang (tức nhà văn Nguyễn Văn Lưu) còn đăng đàn để cảnh báo hiện tượng kích động phản loạn của luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của tác giả Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên). Quan điểm này được GS Phong Lê hưởng ứng bằng cách “hai lần lên diễn đàn đề nghị các cơ quan chức năng phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích đáng đối với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn” (nguồn:  http://119.15.167.94/qdndsite/vi-vn/61/43/chong-dien-bien-hoa-binh/mot-goc-nhin-phan-van-hoa-va-phi-chinh-tri/250927.html).
Nhận xét về chiến dịch “đánh” Nhã Thuyên, trên blog của mình, GS Trần Đình Sử, nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội viết: “Cuộc phê phán luận văn thạc sĩ năm 2010 của giảng viên đai học Đỗ Thị Thoan hiện đang rầm rộ khắp cả nước, trên các báo lớn, báo nhỏ với đủ các từ quy kết nặng nề như “phản văn hóa”, “phản động”, “mượn danh khoa học để làm chính trị”, “ngụy khoa học”, “sự lệch chuẩn”, “sự nổi dậy của rác thối”, “tham vọng soán ngôi của rác thối”… Một đám cháy đang bùng lên dữ dội trên văn dàn. (…) Đồng thời với sự phê phán là các đề nghị cách chức, xử lí những người hữu quan, và thực tế đã không tiếp tục kí hợp đồng giảng dạy với cô giáo Nhã Thuyên một cách vội vàng, chưa đủ thủ tục pháp lí. Thông thường người ta chỉ xử lí sau khi đã nghị án rõ ràng, có người bào chữa, có ý kiến của đương sự. Đằng này tất cả đều làm rất nhanh, bên trên, sau lưng đương sự, thiếu các thủ tục dân chủ tối thiểu trong một xã hội được coi là đề cao dân chủ thì thật tiếc là thiếu sự đàng hoàng”.
Trước sự tấn công ồ ạt của “phe đánh” Nhã Thuyên, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên là người đầu tiên có bài viết phản biện được đăng trên báo chính thống, bài “Từ một bản luận văn”. Bài được đăng trên báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh (báo giấy) số ra ngày chủ nhật 28/7/2013. Sau khi bài được đẩy lên bản điện tử của báo này thì Vietnamnet cũng đăng lại. Tuy nhiên, ngay sau đó cả hai báo điện tử đã gỡ bài xuống (nhưng hiện bài vẫn còn trên trang Báo mới với chú giải nguồn dẫn từ báo Pháp luật TP HCM). Nhiều nhà phê bình, nhiều học giả cho biết những bài viết được xem là có chiều hướng “bênh” Nhã Thuyên của họ đều bị các báo chính thống từ chối đăng tải.
Trong diễn biến đó, lãnh đạo Khoa Ngữ văn đã họp với PGS TS Nguyễn Văn Long, chủ tịch hội đồng chấm luận văn của Nhã Thuyên hồi năm 2010. Không hài lòng với kết quả cuộc họp với PGS Nguyễn Văn Long, ngày 27/7/2013, Khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã tổ chức  một hội thảo khoa học mở rộng lấy ý kiến các nhà khoa học về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên. Hội thảo được tổ chức với chiêu bài mổ xẻ các vấn đề  có tính học thuật trong một luận văn thạc sĩ đã được thẩm định nhưng không hề có mặt toàn bộ hội đồng chấm cũng như tác giả của luận văn.
Theo một học giả được mời, hội thảo gần giống như một cuộc “họp kín”. Các đại biểu tham gia hội thảo được yêu cầu không sử dụng máy ghi âm cũng như không được tiết lộ nội dung hội thảo ra ngoài. Tuy nhiên, kết quả cuộc họp có thể không đạt mục tiêu “đánh” Nhã Thuyên khi mà nhiều học giả bày tỏ quan điểm đòi hỏi phải có một ứng xử khoa học với một công trình khoa học. Một nguồn tin khác thì kể lại với chúng tôi: “Trong số các ý kiến có đòi hỏi cần phải ứng xử khoa học với luận văn có GS Đặng Anh Đào và GS Phùng Văn Tửu. Cả hai giáo sư này đều khẳng định, việc họ đến bắt tay ông Chu Giang rồi khen phát biểu của ông ấy hay như tường thuật trong một bài báo là không chính xác”. Bài báo mà nguồn tin này nhắc đến là bài cuối trong loạt bài “Luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề…” được đăng trên báo Thanh tra (http://thanhtra.com.vn/ky-cuoi-khong-the-xam-pham-gia-tri-thieng-lieng_t221c8n57577tn.aspx).
Tận diệt?
Sau sự kiện trên, sự việc tạm thời im ắng. Nhã Thuyên đã bị mất việc làm, PGS TS Nguyễn Thị Bình bị hao tổn tâm trí, dư luận ngỡ rằng có thể “họ” đã để cho vụ việc trôi vào dĩ vãng.
Đột nhiên, đầu tháng 3, giới chuyên gia trong và ngoài nước được một phen bổ chửng khi được biết, PGS TS Nguyễn Thị Bình, người hướng dẫn Nhã Thuyên làm luận văn thạc sĩ, buộc phải về hưu trong một bối cảnh hết sức bất bình thường.
Theo thông báo của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội mà PGS TS Nguyễn Thị Bình cung cấp cho báo Kinh doanh và Pháp luật, bà Bình sinh tháng 9/1956. Đến tháng 9 tới, bà Bình tròn 58 tuổi. Theo nghị định 141 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ĐH, nữ giảng viên ĐH có chức danh phó giáo sư được kéo dài thời gian làm việc so với tuổi nghỉ hưu mà pháp luật hiện hành quy định không quá 7 năm. Như vậy, về lý, bà Bình có thể được giảng dạy tại Khoa Ngữ văn đến tháng 9/2018, nếu thoả mãn hai điều kiện: (1) bà Bình có đủ sức khoẻ, tự nguyện kéo dài thời gian làm việc; (2) cơ sở GD ĐH có nhu cầu và chấp thuận. Điều kiện (1), theo diễn đạt của bà Bình gửi cho báo Kinh doanh và Pháp luật thì bà có đủ sức khoẻ và tự nguyện kéo dài công việc. Vấn đề còn lại ở điều kiện (2). Theo thông báo của trường, quả là có chuyện Đảng uỷ Trường ĐH Sư phạm Hà Nội “không đồng ý kéo dài thời gian làm việc với PGS TS Nguyễn Thị Bình”. Nhưng tại sao “không đồng ý” thì đến nay Đảng uỷ cũng như Ban giám hiệu Trường ĐH Sư phạm Hà Nội chưa có bất kỳ lời giải thích nào mặc dù bà Bình đã bốn lần đề nghị bằng văn bản.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, rất khó xảy ra khả năng PGS TS Nguyễn Thị Bình buộc phải về hưu là do khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội không còn cần đến sự đóng góp của bà. Được biết, đến thời điểm nhận thông báo trên, PGS TS Nguyễn Thị Bình là tổ trưởng Tổ Văn học Việt Nam hiện đại của Khoa Ngữ văn. Hiện tại Tổ Văn học Việt Nam hiện đại của Khoa Ngữ Văn vẫn chưa có tổ trưởng. Ban đầu, Khoa Ngữ văn đề xuất bổ nhiệm TS Chu Văn Sơn bởi ông đang là tổ phó, nhưng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội không chấp nhận (dư luận nghi ngờ có thể vì TS Chu Văn Sơn là thành viên của hội đồng chấm luận văn Nhã Thuyên hồi 2010 và ông đã từng cho luận văn này điểm 10). Về sau nhà trường định bổ nhiệm PGS TS Vũ Thanh (lúc đó đang là Phó Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn) trong khi ông Thanh không nghiên cứu văn học Việt nam hiện đại. Nhưng ông Thanh từ chối nên đến giờ TS Chu Văn Sơn vẫn tạm thời phụ trách Tổ Văn học Việt Nam hiện đại.
Đã vậy, trong số 7 giảng viên của nhóm Văn học Việt Nam sau 1945, bà Bình là người duy nhất có học hàm Phó Giáo sư, đồng thời cũng là người duy nhất trong nhóm đến nay được nhà nước phong học hàm. Việc PGS TS Nguyễn Thị Bình nghỉ hưu đột ngột để lại một mảng trống khá lớn không chỉ cho cho chuyên đề mà bà được phân công giảng dạy mà cho cả nhóm Văn học Việt Nam sau 1945. “PGS Bình nghỉ, hiện chúng tôi có 6 người, nhưng thực tế tham gia hoạt động giảng dạy tại khoa chỉ 3 người do 3 người kia hiện đang đi học hoặc đi làm việc ở nước ngoài. Vì thế chắc chắn chúng tôi phải trằn ra mà gánh thêm việc trước kia vốn là của PGS Bình. Hiện chúng tôi dạy bình quân 750 tiết/ năm, như vậy là đã nhiều. Tình hình này có thể sắp tới chúng tôi phải dạy trên 1.000 tiết/ năm mà như thế thì thực sự quá tải trong khi chúng tôi cần có thời gian để làm nghiên cứu”, một giảng viên khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết.
Quả là một khó khăn lớn cho những người ở lại nếu như họ phải “gánh” thêm việc của PGS TS Nguyễn Thị Bình khi mà hiện nay bà là chuyên gia duy nhất về văn học Việt Nam sau 1975 của khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. “Để có thể bắt tay vào dạy một chuyên đề, giảng viên cần phải có thời gian chuyên tâm nghiên cứu ít nhất 6 tháng. Tôi cho rằng đây là điều không đơn giản, bởi tất cả chúng tôi cũng đang phải trằn lưng nghiên cứu những vấn đề trong mảng mà mình phụ trách”, cũng vị giảng viên trên cho biết.
Như vậy, việc dư luận suy diễn lý do Đảng uỷ Trường ĐH Sư phạm Hà Nội “không đồng ý” cho PGS TS Nguyễn Thị Bình kéo dài thời gian công tác do bà là người hướng dẫn Nhã Thuyên làm luận văn năm 2010 là có cơ sở.
Suy diễn này càng có cơ sở hơn khi mà ngày 27/3/2014, trên blog của mình, Nhã Thuyên thông báo về việc cô bị Phòng Sau ĐH của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội  mời đến để nhận các quyết định các quyết định thu hồi bằng và hủy luận văn thạc sĩ. “Tôi không đồng ý nhận các quyết định này vì tôi cho rằng hai quyết định này hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý và minh bạch về các thông tin: như hội đồng chấm, các biên bản nhận xét của hội đồng, v.v”, Nhã Thuyên viết. Cô đề nghị được cung cấp thông tin về các giấy tờ và hồ sơ có thể kèm theo như biên bản thành lập hội đồng thẩm định, các nhận xét của từng thành viên hội đồng, v.v… nhưng không được đáp ứng. Hiện Nhã Thuyên đang chờ giải thích mới nhất từ Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội liên quan tới các quyết định thu hồi bằng thạc sĩ và thu hồi luận văn của cô.
Thư Hiên
Sau “bí  mật” Đảng uỷ Trường ĐH Sư phạm Hà Nội không đồng ý kéo dài thời gian làm việc với PGS TS Nguyễn Thị Bình được tiết lộ với truyền thông, trên các trang mạng cũng dấy lên đồn đoán về việc Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã tổ chức thành lập một hội đồng chấm lại luận văn của Nhã Thuyên. Hội đồng này cũng được tổ chức theo một cách thức bí mật, nghĩa là cho đến nay không một ai được biết thật sự có hay không một hội đồng như thế, ngay cả Nhã Thuyên – tác giả luận văn, và các thành viên chấm thẩm định luận văn năm 2010. Cũng theo đồn đoán, trong số các thành viên của hội đồng chấm lại, không một ai có công trình nghiên cứu về văn học Việt nam hiện đại, đương đại.
Nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi của Khoa Ngữ Văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết họ đặc biệt phẫn nộ trước hành xử thiếu khoa học trong một môi trường khoa học có uy tín bậc nhất quốc gia như Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. “Chúng tôi liên tục đề nghị được gặp lãnh đạo nhà trường để bày tỏ sự bất bình trong quan điểm xử lý vụ vụ việc nhưng họ đều lảng tránh”, một vị cho biết.