Saturday 8 April 2017

THỬ ĐƯA RA QUAN NIỆM VÀ CÁCH GIẢI THÍCH VỀ CHỮ NÔM CỔ - Nguyễn Ngọc San


TB

Đã có một thời, khi phiên âm một văn bản Nôm mà gặp phải những chữ khó, oái oăm không biết nên đọc như thế nào, người bảo nên đọc thế này, người bảo nên đọc thế nọ, mà không biết ai đúng ai sai. Người ta thường gọi những chữ Nôm hắc búa ấy là chữ Nôm cổ, vì nó có điểm nào đó khác hẳn chữ Nôm ngày nay. Lúc này chữ Nôm cổ đồng nghĩa với chữ Nôm khó.
Khi khảo sát sâu hơn một chút về chữ Nôm, ta nhận thấy có nhiều từ (cùng âm cùng nghĩa) trong chữ Nôm được viết khác nhau, trong đó qua thực tế đọc Nôm có thể khẳng định được chữ nào có trước, chữ nào có sau. Ví dụ từ trống (nhạc cụ gõ) đã trải qua các cách viết sau:

Và ta gọi chữ Nôm nào xuất hiện trước là chữ Nôm cổ. Chữ cổ ở đây được đo bằng một thời gian tương đối. Một chữ Nôm cổ chỉ được xác định bằng sự đối lập với hình thức có sau nó, ví dụ chữ tay 1 cổ hơn chữ tay 2 ; chữ phướn 1 幡 cổ hơn chữ phướn ; chữ trước 1 cổ hơn chữ trước 2 và chữ trước 3
Song sự so sánh này cũng có chỗ khập khiễng và chưa đủ để xác định được một chữ Nôm cổ bởi vì không phải chữ Nôm nào trong quá trình phát triển lịch sử cũng được thay thế bằng một cách viết khác. Nếu chữ Nôm nào cũng thay đổi tự dạng thì chữ Nôm với tư cách là hệ thống chữ viết sẽ mất sự đứt đoạn trong văn tự. Nó khác với sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ là kết quả sáng tạo ra một loại hình văn tự mới có thể thay thế chữ Nôm. Có thể có những mã chữ Nôm mà từ khi xuất hiện đến nay không hề thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể. Ví dụ: căn cứ vào bản phụ lục các chữ Nôm gặp trong các văn bản có niên đại chính xác ở cuối sách Một số vấn đề về chữ Nôm của Nguyễn Tài Cẩn(1) ta sẽ thấy các chữ nêu sau đây đến nay vẫn không có gì thay đổi: oản (bộ mễ + uyển) năm 1210. Vườn 园 năm 1342, tiếng năm 1486, nhe 土而 (bộ thổ + nhi) năm 1210, đồng 同 năm 1210, dòng (bộ thủy + dụng) năm 1486 v.v.. vậy thì nhìn về hình thức tự dạng, các chữ cổ lại là những chữ rất mới vẫn còn dùng ở đầu thế kỷ XX. Điều này cũng dễ hiểu vì những chữ hay những từ cổ thực tế lại chính là những chữ và từ cơ bản, không thể thay thế, do được sử dụng liên tục không ngừng. Về mặt ngôn ngữ cũng thế, các từ: mặt, mũi, chân, tay, bụng, cổ, mắt, ăn, mặc... hiện nay vẫn đang dùng trong lời nói hàng ngày lại chính là những từ cổ nhất thuộc gốc mon-khmer có cách đây hàng mấy ngàn năm (tất nhiên ngày xưa đọc theo cơ chế âm thời Tiền Việt Mường). Vấn đề đáng nói là ở chỗ cách tính thời gian trước sau dựa vào tự dạng ở đây hầu như bất lực, trừ một số ít trường hợp.
Vấn đề cần xét là ở khu vực nào thì chữ Nôm không thay đổi và ở khu vực nào thì hiện tượng này xảy ra ngược lại. Đây là điểm phức tạp từ trước đến nay ít ai nhắc tới. Nhưng không xét kỹ điểm này thì cũng khó tìm ra tiêu chí để xác định một chữ Nôm cổ theo nghĩa đã nêu ở đầu bài này. Chữ Nôm trong suốt 7, 8 thế kỷ vẫn liên tục được sử dụng nhưng chưa bao giờ được chuẩn hóa, chưa có một cuốn sách nào qui định về cách viết chữ Nôm. Vậy mà lạ thay, các nhà Nho vẫn viết chữ Nôm mà người cùng thời ai đọc cũng hiểu cả. Có một cái mã chung tiềm ẩn trong óc mọi người, khiến cho mọi người viết ra cả cộng đồng văn hóa cùng đọc hiểu được. Đó là cái mã ngữ âm của từng thời kỳ, điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất ý kiến và chúng tôi đã có dịp bày tỏ ở một số bài báo(2).
Do chỗ ngữ âm tiếng Việt có sự thay đổi, một số chữ Nôm ở thời trước đó có độ trật khớp khá lớn so với ngữ âm đương thời. Nhất là những chữ đó lại có mặt trong những văn cảnh dễ gây ra sự hiểu lầm thì buộc lòng người ta phải dựa trên cơ sở mã chữ cũ mà thay đổi đi ít nhiều (thường thay đổi bộ phận ghi ý) để tạo ra mã chữ mới dễ đọc hơn. Ví dụ chữ góc 1 角 (âm Hán là Kjak) khi đã có xu hướng k > g rồi thì góc 2 viết là (giác + cốc); chữ vuông 1 khi đã xảy ra sự biến âm b > v thì vuông 2 viết là (phương + bông); chữ buồng 1 房 (âm Hán cổ là Pjwang) khi đã có âm Hán Việt rồi thì buồng 2 viết là (phòng + bồng) v.v.. Nhưng không phải khi ngữ âm biến đổi, tất cả các chữ Nôm nằm trong luồng biến đổi này đều thay đổi dạng tự, một số chữ đã thực sự ổn định qua thời gian dài vẫn duy trì hình thức cũ cho đến tận ngày nay. Chính những chữ này đang làm cho giới Hán Nôm phải đau đầu (để tìm cách đọc đúng và giải thích đúng) và dễ gây ấn tượng chữ Nôm là một thức văn tự lỏng lẻo, không có quy củ. Cho nên khái niệm về chữ Nôm cổ không phải là căn cứ vào cái cốt ngữ âm cổ làm lõi cho tự dạng ấy. Vì vậy điều đáng quan tâm hàng đầu cũng chính là vấn đề ngữ âm.
Để diễn giải rõ hơn, ta có thể xem xét những dữ liệu sau đây: 1/ Các mã chữ Nôm hiện nay đang dùng và đang được tranh cãi về cách cấu tạo cũng như về cách đọc(3), và 2/ Các mã chữ Nôm rất ít xuất hiện nên khá xa lạ đối với một số người, nhưng lại là những cứ liệu rất đáng được bàn luận.
1. Trước hết hãy xem xét các chữ Nôm thuộc loại 1.
Để tiện phân tích và giải thích, khi nêu dẫn chứng, loại 1 còn có thể phân nhỏ thành 2 nhóm (1a và 1b):
a- Các mã chữ không đọc theo âm Hán Việt nhưng thông lệ đối với các chữ Nôm khác mà đọc theo âm Hán thượng cổ được Việt hóa, gọi là âm Tiền Hán Việt. Ví dụ:
bếp (bộ hỏa + phạp) (1)
mướp (bộ mộc + phạp) (2)
bướm (bộ trùng + phạp) (3)
mép 口乏 (bộ khẩu + phạp) (4)
bỏng (bộ hỏa + phụng) (5)
bóng (bộ nguyệt + phụng) (6)
bụng (bộ nhục + phụng) (7)
đêm (bộ nguyệt + triêm) (8)
đèo (bộ sơn + triêu) (9).
Trước nhất phạp phụng là đọc theo âm Hán Việt, âm này không giải thích được cách đọc âm Nôm. Ở đây phải đọc theo âm Hán thượng cổ p thuộc mẫu bang, âm Việt hóa là bạp bụng. Lại theo phép đối chuyển, nghĩa là các âm cuối -p, -t, -k có thể chuyển thành -m, -n, -ng và ngược lại, nên âm bạp có thể chuyển thành bam, bàm. Xét các chữ trên:
Chữ (1) đọc chuyển theo cách bạp > bếp
Chữ (2) đọc chuyển theo cách bạp > mướp.
(ở đây có sự chuyển đổi âm đầu b ~ m như bồ hôi ~ mồ hôi; bồ hóng ~ mồ hóng; bồ hòn ~ mồ hòn(3) cũng có thể nghĩ âm mướp ngày nay có tiền thân là một thủy âm b, hiện nay mướp trong tiếng Tày còn đọc là buộp)
Chữ (3) đọc chuyển theo cách bạp > bàm > bướm
Chữ (4) đọc chuyển theo cách bạp > mạp > mép.
Chữ (5) đọc chuyển theo cách bụng > bỏng
Chữ (6) đọc chuyển theo cách bụng > bóng
Chữ (7) đọc chuyển theo cách bụng > bụng
Chữ triêu triêm cũng đọc theo âm đầu Hán thượng cổ (t) thuộc mẫu đoan Việt hóa thành (đ) đọc là diêu diêm, vậy thì:
Chữ (8) đọc chuyển theo cách diêm > đêm
Chữ (9) đọc chuyển theo cách điêu > đèo.
Đây là một sự thực còn thấy tồn tại trong nhiều văn bản cổ. Trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng Kinh(4), câu chữ Hán "Xan qua quả ngũ cốc" dịch là "ăn những Klái (trái) bí". Chữ được viết là (5) (bộ thủy + phi). Rõ ràng ở đây phi được đọc theo âm Hán thượng cổ là bi và cách đọc chuyển là bi > bí.
Cũng vậy, ở các văn bản sau này (kể cả Kiều) một số chữ vẫn được đọc theo âm Hán thượng cổ như trọc 濁 đọc là đục, trúng 中 đọc là đúng, phọc đọc là buộc, vụ 霧 (sương) đọc là mù, vu 巫 (bà đồng) đọc là mụ.
1b, Các mã chữ không đọc theo âm Hán Việt cũng không đọc theo âm Hán thượng cổ mà: a/ có thể nghĩ là đọc theo âm nửa vời trên con đường chuyển sang âm Hán Việt hoặc b/ đọc theo âm Việt cổ. Ví dụ âm đầu t Hán Việt có đi qua một âm trung gian là s(6) hoặc có thể nghĩ là âm đầu t Việt ngày nay trước thế kỷ XV còn đọc là âm đầu s. Ví dụ: Sách PT câu "bạch cốt phiêu linh" dịch là "Xương bạc 珊 (trong san hô) 索(7) (trong yêu sách)" san sách là từ tan tác sau này (7 trường hợp).
Các mã chữ có âm đầu th Hán Việt ngày nay được viết bằng các chữ có âm đầu s. Âm s cũng là âm trung gian s trước khi sang âm th Hán Việt(8) và cũng là âm đầu trong tiếng Việt cổ S, sang thế kỷ XVI sẽ chuyển thành th như là hệ quả của quá trình s > t đã xảy ra ở thế kỷ XV. Tất cả các từ thưa, thơ (thơ ca) trong Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú đều được ghi bằng chữ (9) (bộ túc + thúc Trong PT, tất cả các chữ ninh (thà) đều được dịch thành 蛇 10) như câu "ninh dĩ tỏa chủy trảm toái kỳ thân" dịch là "Sà (thà) lấy dùi sắt chém bướp (rách mướp) cong (trong) vóc (thân) này", câu "bất tôn sư phạm" dịch là "chẳng đòi (theo) 柴 (11) (thầy) dạy". Lại có nhiều chỗ dùng chữ Hán Việt đọc thiết để ghi từ sắt (đọc với âm s).
Cách ghi các nhóm âm đầu tiếng Việt cổ cũng có những nét đặc biệt ở một số chữ Nôm. Trong PT và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (bản Dương Bá Cung) từ trong nhất loạt được ghi bằng chữ 工 (công). Một số sách phiên âm trước đây phiên là cong, thực ra là cách ghi đặc biệt của Klong sau biến âm thành trong. Cũng vậy, ở các sách trên từ trả nhất loạt được ghi là 把 (bả) ví dụ câu "dĩ thử báo thân ân" dịch là "lấy vậy mà bả (trả) ơn áng ná", câu “lục giả nhĩ bú dưỡng dục ân” dịch là: "sáu là bả ơn bú mớm". Từ trăm sách PT đều ghi là 林 (ghi ăm tlăm), như câu "mẫu niên nhất bách tuế" dịch là "tuổi mẹ một lâm (trăm) năm" từ trẻ được ghi là 禮 (lễ), ví dụ câu "hài nhi tại mẫu phúc" dịch là "con lễ" (trẻ) ở cong (trong) lòng mẹ". Ta biết các âm đầu ts ngày nay đều bắt nguồn từ các âm kl, bl tl cổ. bl tl còn tồn tại đến thế kỷ XVII trong từ điển của A.de Rhodes. Trong chữ Nôm có thể ghi bằng âm đầu l như vừa dẫn trên, cũng có thể ghi bằng kl như cự-l..., cá-l..., cổ-l hoặc ba-l..., ví dụ ở PT câu "chiêm ngưỡng tôn nhan" dịch là " (12) (Klong > (trông) mặt Bụt", từ trạng ghi là ba-lăng .
Cách ghi bằng l cự-l..., cô-l..., còn được dùng để ghi nhóm phụ âm kr sau này sẽ biến thành S tiếng Việt hiện đại. Do hệ thống âm Hán Việt không có thủy âm r nên phải dùng l thay thế vào. Ta gặp ở PT rất nhiều trường hợp này, ví dụ câu "đệ tử như hà nhận biện" dịch là "đệ tử làm 牢(13) (Krao) mà biết", câu "ẩm nương bát hộc tứ đấu bạch nhũ" dịch là "uống vào tám hộc tư đấu (14) (Krã > sữa); câu "huyết lưu biến địa" dịch là "máu chảy 律(15) (Kruat > suốt) hết đất" - trường hợp này cũng có thể ghi theo từ cổ, ta biết từ suốt tiếng Việt ngày nay đồng nghĩa với từ lọt trong tiếng Tày cổ; câu "đề khốc mục thũng" dịch là "Kêu khóc mắt (16) (Krưng > sưng)".
Các hiện tượng s > t; s > th đã được Nguyễn Tài Cẩn chứng minh rất rõ (sđd). Hiện tượng kl, bl, kl > thì bl tl ta thấy ở thế kỷ XVII nó còn tồn tại song song với tr. Trong từ điển của A.de Rhodes có 25 trường hợp tl tồn tại song song với tr, 7 trường hợp bl tồn tại song song với tr. Xét về nguồn gốc, gl tl có thể bắt nguồn từ kl. Maspéro(17) cũng cho rằng kl đã được thay thế bằng tl trước khi chuyển sang tr trong tiếng Việt, bằng gl trong tiếng Thái, Mèo. Trong tiếng Mường hiện tồn tại cả kl tl hiện tượng kr > s thì ta thấy trong Việt Mường chung tồn tại các nhóm phụ âm có r như kr trong tiếng La ven. Úy Lô, gr trong tiếng Thái, pr trong tiếng Bana. Những nhóm phụ âm này được duy trì trong một thời gian dài sau đó r chuyển thành âm lỏng l trong các tiếng Hung, Khong Kheng, Sách và Tha vừng. Ở tiếng Việt thì nhóm phụ âm này tới thế kỷ XV chuyển sang âm sát quặt lưỡi s (s quốc ngữ). Theo M.Ferlus(18) có lẽ trước nhất các nhóm có r phải hòa lẫn vào nhau thành Kr rồi qua Khr để thành ks trong tiếng Thạch bì. Từ đây K bị rụng lại r trong tiếng Mường Làng Lỡ, trong khi ấy /kh/ ở tiếng Vân Mộng và Tân Lạc cũng bắt nguồn từ Kr do tính xát mà chuyển sang s, ta có thể so sánh như sau:

Uý Lô Vân Mộng Thạch Bì Làng Lỡ Việt
Kraw Khaw Ksaw saw sao
Krong Khong ksong song song
Kru Khu Ksâu so sâu

Ở trong tiếng Thái ngày nay cũng có hiện tượng những từ ghi bằng nhóm phụ âm có r đã được đọc bằng âm s, ví dụ:

chữ âm nghĩa
dron son làm
druan suân ngực
dram sam đáng yêu
drôm sôm tưới

2. Tiếp theo, cần xem xét các mã chữ Nôm ít gặp và chưa được khảo sát kỹ. Dĩ nhiên ở đây không thể nào đưa ra được tất cả vì các văn bản cổ còn chưa phát hiện được nhiều. Tuy nhiên, những cứ liệu có được cũng đáng để chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc.
Thường một tiếng, một âm tiết trong tiếng Việt đều được biểu hiện bằng một khuôn vuông chữ Nôm, nhưng trong PT và lẻ tẻ một số nơi ở văn bản khác ta lại gặp hiện tượng một từ đơn tiếng Việt được thể hiện bằng hai khuôn chữ Nôm. Ví dụ câu "bách thần toàn bị" dịch là "lâm (trăm) thần 婆 論19) no", ở đây bà luận là phiên âm blọn, sau là trọn. Câu "nhậm nhiễm nhân tuần" dịch là 麻 吞 麻 碌 (20) "luân hồi", ở đây ma lận ma lục, là ghi âm mlăn mloc. Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ta cũng gặp hiện tượng tương tự. Ví dụ câu 婆 馭 bà ngự (ngựa) già thiếu kẻ chăn". Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn cũng có câu "văn chói chói gấm trên bà ngự (ngựa)", bà ngự là từ cổ hiện tồn tại trong tiếng Pakatan với hình thức [mang] tương ứng với từ ngựa tiếng Việt, chỉ là một âm tiết mờ vô nghĩa). Câu khác: "dấu người đi 多 mòn" trước thường phiên là "là đá", không rõ nghĩa. Thực ra la đa cũng là cách phiên từ lata hiện tồn tại trong các tiếng Mày, Rục tương ứng với từ đá Việt, la cũng phiên âm một âm tiết mờ vô nghĩa. Nhìn chung, loại chữ Nôm hai khuôn này nhằm phiên âm một từ cổ gồm một âm tiết mờ và một âm tiết tỏ (hay một âm tiết phụ tố và một âm tiết căn tố).
Điều này sẽ được sáng tỏ hơn khi ta xét đến những chữ Nôm hai khuôn âm tiết khác. Sách PT có câu "ách nan huỳnh chiền" dịch là "khổ nạn 多 默 多 甫 (20) (đa mặc đa bổ), câu "cốt đầu bạch sắc" dịch là 阿 多(21) (a đa) cục xương màu bạc". Câu "sủng lộng chấn năng hoan" dịch là 阿 普, 阿 批 (22) (a phả a phê) một dường hay vui', "tập học" dịch là 巴 欲 (23) (ba dục học"... Theo ý chung tôi, các yếu tố a, đa hay ba, thể hiện một yếu tố tiền tắc họng hóa (preglottalisée) thường đứng trước các âm đầu b, đ gặp trong tiếng Việt ở thế kỷ XII (ghi là ?b, ?d) mà Haudricourt và M. ferlus thường nhắc tới (sau chúng tôi thêm ?j và ?g(24), vậy:
a đơ là ? đơ (sau thành đầu)
a bổ là ? bỗ (sau thành vỗ)
a bê là > bề (sau là về)
đa mặc là ? mắc (theo biến đổi ?b > ? m > m).
đa bộ là ? bó (sau là bó)
ba dục là ?jượt (sau là dượt).
Một số chữ Nôm khác nhìn vẻ ngoài không có gì là lạ nhưng xét mối quan hệ tay ba hình - âm - nghĩa thì lại cho những tư liệu rất quý giá và do đó cũng phải xếp vào loại quý hiếm. Ví dụ, trong PT, câu "nhật nhật tự hôn trầm" dịch là "ngày ngày tựa mơi 麻 列 25) (ma liệt) câu "thủ phan a nương tâm can" dịch là "tay bèn 波 來 (26) (ba lai) lòng gan ná". Ta thử xét các trường hợp vừa nêu:
ma liệt (mliệt) là âm tiền thân của mệt
ba lai (blơi) là âm tiền thân của bới (sau chuyển thành với). Đây là con đường biến đổi ngữ âm không điển hình mà ta đã bắt gặp trong từ điển của A. deRhodes, ví dụ: blàn > bàn mesa ou altar (bàn viết hay bàn thờ)
blệt > bệt assentarse (ngồi xuống)
Nhân đây cũng nêu ra một hiện tượng rất độc đáo, ở PT câu "Tả kiên đảm phụ hữu kiên đảm mẫu" dịch là(26) (đa mai) đam gánh áng đa mai chiêu gánh ná". Tất nhiên, theo chữ Hán, ta hiểu mai ở đây là phiên âm vai. Từ vai có nguồn gốc âm đầu m chăng? Trong tiếng Campuchia ngày nay, vai là chma "vai kề vai" là "chma kịa chma". Có một thời b m còn chưa tách bạch rõ ràng trong quá trình b > m (thực ra là ?b > ?m > m) vậy mai hay bai có lúc lẫn nhau là điều dễ hiểu. Một điều chú ý là ngoài mai, các từ ghi âm vai trong chữ Nôm đều có yếu tố lai như: 肩來 (kiên + lai) 巴來 (lai + ba) 月來 (nhục + lai). Sự có mặt của lai cho phép người ta nghi ngờ rằng khi ở dạng âm đầu b do áp lực của từ có âm đầu bl bai (vai) cũng có dạng blai trước khi sang vai. Và từ blai biến thành trai (từ điển A. de Rhodes ghi blai : macho de homen = đàn ông) và vai trong khi từ 丐 (cái) với nghĩa là đầu ("gật đầu lắc cái", sách PT) và gái (đàn bà) phải chăng có liên quan đến dân tộc học vì đàn ông mang vác bằng vai và đàn bà mang vác bằng đầu?
Cũng trong PT câu "di can tựu thấp" dịch là "dời chốn"(27) đến chốn thấp (ẩm)", cấu tẩu trạc bất tịnh" dịch là (28) (tả tái) cứt đái" (4 lần). Có thể giải thích như sau tái, tả, táo như đã biết lúc này còn đọc bằng âm đầu s. Nhưng giữa s Mường và r Việt tương ứng với nhau. Chữ Nôm ra đời khi có âm Hán Việt (thế kỷ XII) và cũng là lúc bắt đầu quá trình tách đôi Việt > < Mường, nên sự lẫn lộn s r là điều dễ hiểu. Trong An nam dịch ngữ có hiện tượng sống) để phiên âm răng và dùng sao (chép) để phiên âm rau, như vậy ở thế kỷ XV có khả năng r vẫn còn đọc là s(29). Ta lập sự so sánh Mường - Việt.

Mường Ngọc Lạc sa sắn sết
Mường Làng Lỡ sa sin sịt sa
Mường Lâm La sa sằn sùn sịt
Mường Úy Lô sa sin sun sịt sau
Việt ra rắn rốn rết rau(30)

Như vậy thì những chữ Nôm ở trên: táo phải đọc là ráo, tả đọc là rửa, tái đọc là ráy. Cũng ở PT, câu "bão trì dưỡng dục" dịch là "cự + lẫm ấp nuôi nấng" 巨稟 (31) (Klăm) có thể biến chuyển như sau kl > bl. Từ đây nẩy ra sự biến đổi không điển hình blẵm > bẵm và câu dịch trên là "bẵm ấp nuôi nấng"...
Tất cả những điều trình bày trên sẽ cho ta một ấn tượng chung là: xác định các mã chữ Nôm cổ không nên chỉ dựa vào tự dạng mà phải xét đến mối quan hệ tay ba hình - âm - nghĩa trong đó phải lấy phần ngữ âm làm chính. Nó cho phép xác định rõ một chữ này cổ hơn một chữ kia dù rằng chữ cổ ấy nhìn tự dạng vẫn không có gì đặc biệt. Việc xác định chữ Nôm cổ dựa vào ngữ âm còn góp phần ước đoán một cách có cơ sở khoa học niên đại của một văn bản ta đang nghiên cứu. Tuy nhiên, thành tựu nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt chưa phải đã thực đầy đủ mà cần phải có nhiều phát hiện và nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa. Điều đáng nói là ngày nay các nhà Nôm học nên ngả hơn nữa về xu hướng ngữ âm để có thể phát hiện thêm và giải mã hợp lý nhiều từ cổ và nhờ đó có thể phiên âm, xử lí tốt các văn bản Nôm.

CHÚ THÍCH
(1). Nxb. ĐH và THCN, H.1985
(2). Nguyễn Ngọc San: Góp vài ý kiến về âm đầu tiếng Việt cổ qua cứ liệu Nôm trong sách "Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh" - Ngôn ngữ số 3/ 1992; Thử tìm hiểu một vài sự chuyển biến âm đầu trong tiếng Việt cổ qua cứ liệu Nôm - Ngôn ngữ số 3/ 1985.
(3). Ví dụ: Đào Duy Anh: Chữ Nôm - nguồn gốc - cấu tạo diễn biến - Nxb KHXH. H, 1975. Hoàng Xuân Hãn: Chữ Nôm thời Trần Lê, phái Trúc Lâm Yên Tử. Tập san KHXH (in ở Pháp) 1979 - 1980.
(4). Tham khảo Miche, Ferlus, ASEMI 1975, vol VI, No4.
(5). Từ đây trở đi gọi tắt là PT.
(6). PT trang 18 (số đánh viết tay).
(7). Xem Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb KHXH, H. 1979, tr.191.
(8). PT.tr.37
(9).Sđd - tr.195
(10). PT - tr.14
(11). PT - tr.59
(12). PT - tr.34
(13). PT - tr.63
(14). PT - tr.13
(15). PT - tr.33
(16). PT - tr.32
(17). PT - tr.73.
(18). Maspéro - Études sur la phonétique histori que de la langue Annamite - Le initiales - BEFEO 1912.
(20). M. Ferlus (sđd)
(21). PT - tr.18
(22). PT - tr.36
(23). PT - tr.36
(24). PT - tr.12,13
(25). PT - tr.25
(26). PT - tr.33
(27). Nguyễn Ngọc San: Bđd
(28). PT - tr.22
(29). PT - tr.19
(30). PT - tr.44
(31). PT - tr.25
(32). PT - tr.32
(33). Sự chuyển đổi r ~ s còn để lại dấu vết trong tiếng Việt hiện đại ở một số từ đồng nghĩa như: sầu-rầu, sờ-rờ, soi-rọi v.v.
(34). Xem Maspéro: Bđd.
(35). PT - tr.64./.

BỘ THỦ HÁN MANG NGHĨA LÂM THỜI TRONG CHỮ NÔM - Lã Minh Hằng


TB

Khi nghiên cứu phân loại chữ Nôm, chúng ta bắt gặp những chữ thật khó quyết định nên xếp chúng vào tiểu loại nào: loại ghép Âm - Âm hay ghép Âm - Ý ? Về cấu tạo của loại chữ này, giới nghiên cứu Hán - Nôm lâu nay cũng chưa giành nhiều sự quan tâm. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt nghiên cứu loại chữ vừa nói trong các từ và ngữ tiếng Việt.
1. Trong từ song tiết tiếng Việt:
Xét các ví dụ sau:
賋 帲 Rõ ràng
錃 忚 Rẻ rúng
笡 女难 Nợ nần
Trong 3 từ trên, các chữ rõ, rẻ, nợ là những chữ Nôm có cấu tạo Âm - Ý, các chữ còn lại: ràng, rúng, nần nên phân tích chúng như thế nào ?
Chữ Nôm 帲 ràng gồm 床 sàng biểu thị âm đọc và 火 hỏa là bộ phận biểu thị ý nghĩa (ngày ngay, chữ ràng được dùng láy lại; ràng ràng hay rành rành vẫn còn mang nghĩa sáng sủa, rõ nét, ký tự biểu thị nghĩa này được do ảnh hưởng của bộ phận mang nghĩa chính - chữ trong rõ ràng. Phép lặp lại ký tự biểu nghĩa như trên được dùng rất nhiều trong từ ghép đôi tiếng Việt
Chữ Nôm 忚 rúng gồm có 用 dụng biểu thị âm đọc và 礼 Lễ . Chữ lễ này nên coi là bộ phận biểu âm hay biểu nghĩa ?
- Trong chữ Nôm có thể dùng thanh mẫu l (Hán) để ghi thanh mẫu d (Việt) và Lễ lúc này có thể hiểu là bộ phận biểu thị âm thanh trong chữ rúng. Nếu quả vậy, thì chữ Nôm rúng sẽ có cấu tạo theo phương thức ghép Âm - Âm.
- Ngược lại, nếu coi 礼 Lễ là bộ phận biểu nghĩa, có nghĩa rúng là một yếu tố có nghĩa. Như vậy, rẻ rúng là một từ ghép hợp nghĩa trong đó rúng có nghĩa gần tương đương như rẻ, có điều rúng ngày nay đã bị mờ nghĩa nên chúng ta không nhận thấy được, giống như trường hợp xe cộ, tre pheo.
Cộ pheo tuy ngày nay đã bị mờ nghĩa. Nhưng, cứ liệu chữ Nôm đã chứng minh nó vẫn còn mang bộ thủ chỉ nghĩa rất rõ. Điều này không giống như trường hợp chữ rúng: Chữ Lễ không có nghĩa nào cho thấy một phạm trù nhỏ, ít... của chữ Rẻ rúng. Trường hợp chữ 女难 nần cũng là cứ liệu bổ sung cho trường hợp lưỡng khả này.
Ta có thể xem rúng được cấu tạo bởi rẻ viết tắt + chữ dụng và chữ Nôm nần được cấu tạo bởi chữ nợ viết tắt + chữ nan hay không ? Chúng tôi sẽ không có ý định làm phức tạp thêm những chữ Nôm vốn rất phức tạp này.
1.a. Vậy chữ Hán 礼 Lễ trong chữ rúng và 女 nữ trong chữ nần nên hiểu như thế nào cho đúng ?
- Hai chữ rúng nần không nên xếp vào dạng chữ Nôm có cấu tạo ghép Âm - Âm. Dạng ghép Âm - Âm là cách ghi phản ánh sự tồn tại của tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt cổ, nó có số lượng rất ít và thường dùng để ghi những từ Việt cổ.
- Trong từ ghép đôi tiếng Việt, hiện tượng lặp lại ký tự biểu nghĩa khá phổ biến. Có lẽ áp lực hệ thống này đã đẩy hai chữ rúng nần vào tiểu loại có cấu tạo ghép Âm - Ý, trong đó bộ phận biểu nghĩa là chữ Hán 礼 lễ và 女 nữ.
1.b. Chấp nhận 礼 Lễ và 女 nữ là bộ phận biểu nghĩa trong chữ Nôm rúng nần ta cũng thấy:
- Các chữ Hán lễ trong chữ rúng, nữ trong chữ nần hỏa trong chữ rạng đều là những bộ phận biểu nghĩa mang tính chất nhất thời, nó chỉ biểu nghĩa cho chữ đó khi nằm trong từ đó, trong văn cảnh đó, chúng tôi tạm gọi đó là loại bộ thủ Hán mang nghĩa lâm thời.
Bộ hỏa đã góp phần ít nhiều vào việch tạo chữ cho chữ Nôm rạng. Trái lại, chữ Hán lễ nữ gần như chỉ là những bộ phận biểu nghĩa hình thức. Bởi vậy khi nghiên cứu loại chữ Nôm có bộ phận biểu nghĩa lâm thời này, ta có thể phân biệt hai tiểu loại nhỏ sau:
1b.1. Lấy bộ phận biểu nghĩa của chữ trước để biểu nghĩa cho chữ sau: Nghĩa là chữ sau có mối quan hệ về ngữ nghĩa với chữ trước.
Ví dụ:
剗 梻 Lo lắng
裵 石尼 Nặng nề
賋 帲 Rõ ràng
1.b.2. Lấy bộ phận biểu âm của chữ trước để biểu nghĩa cho chữ sau. Như vậy, bộ phận biểu nghĩa của chữ sau mang tính chất biểu nghĩa hình thức.
Ví dụ:
絉 礻 雷 Lẻ loi
錃 忚 Rẻ rúng
笡 女难 Nợ nần
1.c. Tại sao lại dùng 礼 lễ để biểu nghĩa cho rúng và 女 nữ để biểu nghĩa cho nần?
Để trả lời câu hỏi này chúng tôi xin trích lời giới thiệu của U.M.DOXKOHOB - nhà ngôn ngữ học Liên xô cũ(2).
"Trong khi vay mượn văn tự con ngưòi thường không thể hiện sáng kiến sáng tạo của mình, anh ta bắt đầu ghi từ của tiếng mẹ đẻ tuân thủ theo các quy luật của văn tự vay mượn và chỉ trong một thời gian dài, theo một quá trình tiến hoá từ từ nhất, văn tự đó mới dần dần thỏa mãn những cái mà ngôn ngữ mới cần. Quá trình thích ứng như thế thường diễn ra không mang tính sáng tạo mà nặng nề máy móc và vô thức"(*).
Quả thật, việc tạo ra các chữ rúng nần như trên hoàn toàn không mang tính sáng tạo mà thật sự máy móc và vô thức. Người tạo chữ đã tuân theo các quy luật tạo chữ Hán - phép hình thanh để tạo ra các chữ rúng trong rẻ rúng, nần trong nợ nần bằng phương pháp ghép Âm - Ý. Các chữ đó đã nhập vào một với hệ thống các chữ lắng trong lo lắng, nề trong nặng nề ràng trong rõ ràng.
Chúng tôi cũng cần nhấn mạnh thêm rằng ở chữ Nôm không phải tất cả các trường hợp tạo chữ để không mang tính sáng tạo. Rất nhiều chữ đã thể hiện óc sáng tạo, sự tinh thông Hán văn để tạo ra những chữ của riêng Việt nam. Nhưng riêng đối với trường hợp rúng nần - trường hợp lấy bộ phận biểu âm của chữ thứ nhất để biểu thị ý nghĩa cho chữ thứ hai thì lời nhận xét của U.M. DOXKOHOB là có cơ sở.
2. Trong một ngữ đoạn, một câu hoàn chỉnh.
Trước đây, trong bài Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm(3) PTS. Nguyễn Tá Nhí đã nghiên cứu hiện tượng biểu nghĩa này trong cấu tạo từ ghép đôi Tiếng Việt. Chúng tôi muốn vượt ra khỏi biên giới của một từ, tìm hiểu hiện tượng biểu nghĩa đặc biệt này trong một ngữ đoạn, thậm chí trong một câu hoàn chỉnh. Chúng tôi xin được gọi các ký tự biểu nghĩa này là các ký tự biểu nghĩa lâm thời vì cho rằng ký tự đó đã tạo nên các chữ Nôm Âm - Ý, song ký tự biểu nghĩa trong chữ Nôm Âm - Ý này lại chỉ có giá trị trong ngữ đó, trong câu văn đó, ra ngoài văn cảnh đó chưa chắc đã có nghĩa như vậy.
2.a. Ảnh hưởng từ bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm đi trước:
2a.1. Trong chữ Nôm 土吝 rắn với nghĩa cứng, chắc, ta có chữ 吝 lận là bộ phận biểu âm. Lẽ ra bộ phận biểu nghĩa phải là một chữ có nghĩa rắn chắc, ví dụ như chữ cương chẳng hạn. Nhưng ở đây lại dùng bộ 土 thổ làm bộ phận biểu nghĩa. Sở dĩ có bộ phận biểu nghĩa này là do ngữ cảnh quy định mà lặp lại bộ thổ biểu nghĩa trong chữ Nôm 坦 đất đứng đằng trước. Ta có đất rắn cùng có cấu tạo Âm - Ý, trong đó cả hai cùng có bộ phận biểu nghĩa là bộ thổ. Ví dụ:
Đất rắn ( 坦 土吝 ) nặn chẳng nên nồi (9.52a) (**)
2.a.2. Chữ Nôm ắớ đựng gồm có chữ đăng biểu thị âm đọc và bộ mộc biểu thị nghĩa. Bộ mộc vốn là bộ phận biểu nghĩa trong chữ Nôm 木開 cơi đứng trước. Và khi đặt ra chữ đựng, ông cha ta đã áp dụng phương pháp cấu tạo chữ Hán - phép hình thanh để đặt ra 蟩 bằng cách lấy bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm đứng trước. Bộ mộc trong chữ Nôm đựng có tác dụng khu biệt nghĩa.
Ví dụ: Đàn bà sâu sắc như cơi đựng (木開 蟩) trầu (9.38a).
2.a.3. Để chỉ một đặc điểm của động vật có vú giống cái đang nuôi con nhỏ, ta có từ sề (từ ghép sồ sề), từ này chẳng gợi cho ta một nét đẹp nào cả. Vậy thì, ta có thể dùng bộ phận biểu nghĩa là chữ 疾 tật để chỉ một tật xấu hay dùng bộ nữ 女 chỉ giống cái để hướng cho ta đến đối tượng nhanh hơn. Song câu văn dưới lại dùng bộ vật 犭, bộ vật là bộ phận biểu nghĩa của chữ 妌 lợn đi trước. Có lẽ cứ liệu này đã nói rõ xuất phát điểm của từ sề là dùng để nói đến giống lợn cái, khi chúng đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ. Ví dụ:
Chẳng nề chó ghẻ chẳng toan lợn sề (妌 犭仕 ) (7.111a).
2.a.4. Từ cằn có nghĩa: chỉ đất trồng trọt không có hoặc hết mất chất mầu mỡ, cũng có khi để chỉ cây cối thiếu chất dinh dưỡng không đủ sức lớn, sức phát triển. Trong ví dụ sau, chữ cằn được viết 蠞 : Người khi xuân cỗi liễu khi thu cằn (8.13a).
Từ cằn gồm có chữ Hán cần biểu thị âm đọc và bộ mộc biểu nghĩa. Dùng bộ mộc ở đây do ảnh hưởng ngữ cảnh, đồng thời cũng là lặp lại bộ mộc trong chứ cỗi đi trước. Rõ ràng bộ mộc ở đây có tác dụng phân biệt nghĩa là cây cằn chứ không phải đất cằn.
2.a.5. Cũng vậy, chữ Nôm rình 裎 gồm có chữ Hán 呈 trình biểu âm và bộ thị 礻 biểu nghĩa. Bộ thị ở đây được dùng lặp lại của bộ thị trong chữ Nôm dòm phía trước.
"Rày dòm nhà Bắc nay rình nhà Nam (7.117b)
Vì như ta đã biết, rình còn có thể dùng 擪. Ví dụ: rình mò
2a.6. Đã, sẽ, đang là nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt. Như ta biết, phó từ là từ loại không có ý nghĩa từ vựng chân thực, chúng chỉ bổ sung cho động từ, tính từ một ý nghĩa ngữ pháp nào đấy. Bởi vậy, cũng khó có thể dùng một bộ thủ Hán nào để biểu nghĩa cho nó. Ấy vậy mà chữ Nôm 冺 sẽ lại được cấu tạo theo phương pháp ghép Âm - Ý. Bộ khẩu ở đây chỉ mang tính chất là bộ thủ biểu nghĩa hình thức(***).
Hương rằng: Dạy sẽ (凧 冺) nhường hay (8.12b).
2.a.7. Ổi là một loài cây có quả ăn được, ta có thể dùng ơẩ ôi biểu âm, kết hợp với bộ mộc biểu thị giống loài thực vật. Nhưng trong Quốc âm thi tập, tác giả lại dùng bộ nữ 女 thay cho việc dùng bộ mộc.
世 事 得 奴 女畏 節 斎
Thế sự người no ổi tiết bẩy.
Đây là hiện tượng dùng lặp lại bộ nữ 女 trong chữ Nôm no (Hán đọc nô) đứng trước. Có điều sự lặp lại ký tự biểu nghĩa này không giống với các ví dụ đã trình bày ở trên. Ta có thể thấy rõ điều này qua so sánh sau:
妌 犭仕 lợn sề.
- Chữ thứ nhất - chữ Nôm 妌 lợn có cấu tạo Âm - Ý.
- Chữ thứ hai - Chữ Nôm 犭仕 sề lấy bộ thủ biểu nghĩa vốn có nghĩa chân thực trong chữ thứ nhất. Từ đây sẽ dẫn đến kết quả chữ thứ hai mang tính chất hạn định ngữ nghĩa cho chữ thứ nhất: là lợn sề chứ không phải là con vật khác.
奴 女畏 no ổi .
Chữ thứ nhất - Chữ Nôm 奴 no, là chữ Nôm mượn nguyên hình chữ Hán nhưng không mượn âm và nghĩa. Chữ thứ hai lấy bộ 女 nữ trong chữ thứ nhất để biểu nghĩa. Như vậy bộ nữ ở chữ thứ hai không có nghĩa gì trong chữ Nôm ổi cả, nó chỉ là bộ thủ biểu nghĩa hình thức. Loại này cũng giống như từ ghép đôi 腰月結 yêu ghét. Đến đây ta có thể phân loại chữ Nôm có bộ phận biểu nghĩa lâm thời như sau:

Nhóm Chữ thứ nhất Chữ thứ hai Ghi chú
Hình Loại Hình Loại
1 chữ Nôm AY chữ Nôm AY Mượn bộ thủ biểu nghĩa ở chữ thứ nhất để biểu nghĩa cho chữ thứ hai.
2 chữ Nôm chữ Nôm AY Mượn bộ phận biểu âm ở chữ thứ nhất để biểu nghĩa cho chữ thứ hai, nhưng chỉ là biểu nghĩa hình thức.
3 chữ Hán 女畏 chữ Nôm AY Bộ nữ không có giá trị ở chữ thứ nhất và chữ thứ hai. Nó mang tính chất biểu nghĩa hình thức ở chữ Nôm thứ hai.

2.b. Chịu sự chi phối của bộ thủ biểu nghĩa trong các chữ Nôm đứng sau.
Bộ thủ mang nghĩa lâm thời này chịu ảnh hưởng rất nhiều từ bộ thủ biểu nghĩa của chữ Nôm đi trước đó, song cũng có lúc nó lại chịu sự chi phối của bộ thủ, nghĩa trong các chữ Nôm đứng sau.
2.b.1. Chữ Nôm 足妙 dẻo gồm chữ 妙 diệu biểu thị âm đọc và bộ 足 túc biểu thị ý nghĩa. Bộ túc này được dùng do mối liên hệ với bộ túc trong chữ Nôm đi sau - chữ quỳ, nó có tác dụng phân biệt nghĩa là dẻo chân chứ không phải dẻo tay hay dẻo mồm.
Ví dụ: Dẻo quỳ 足妙 跪 bạch lạy tăng ông (10.3a)
2.b.2. Chữ Nôm 火覩 đỏ gồm chữ Hán 覩 đổ biểu thị âm đọc lẽ ra bộ phận biểu nghĩa phải là một chữ Hán có nghĩa đỏ. Ví dụ: chữ xích chẳng hạn. Ở đây tác giả lại dùng bộ hỏa để biểu nghĩa. Bộ hỏa này được dùng do ngữ cảnh quy định, do mối liên hệ với bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm lửa đứng sau.
Ví dụ: Đỏ lửa 火覩 帞 hâm trà một mụ hầu (6).
2.b.3. Chữ Nôm 衤馬 mớ gồm có chữ 馬 biểu thị âm đọc và bộ y 衤để biểu nghĩa. Bộ thủ biểu nghĩa này có được là do ngữ cảnh quy định, có tác dụng phân biệt từ đồng âm khác nghĩa, phân biệt mớ quần áo với mớ rau hay mớ cá.
"Người thì mớ 衤馬 bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơ i (9.17b)
Nghiên cứu các bộ thủ mang nghĩa lâm thời này cũng giống như khi nghiên cứu hiện tượng mượn nghĩa trong chữ Nôm, nó buộc ta không thể xa rời một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu Từ vựng ngữ nghĩa, đó là phương pháp phân bố. Phương pháp này có tác dụng tích cực trong việc xác định giá trị ngữ nghĩa đích thực của một yếu tố khi chúng nằm trong một văn cảnh cụ thể. Khẳng định vai trò của ngữ cảnh đối với một yếu tố cụ thể trong đó, F. de. Saussure nói: "Giá trị của bất cứ một yếu tố nào cũng đều do những yếu tố ở xung quanh quy định".

CHÚ THÍCH
(*) Bản dịch của PTS. Phạm văn Khoái.
(**) Ký hiệu 9.52a trong hai ngoặc đơn chỉ số thứ tự và số trang của sách tham khảo ghi ở cuối bài.
(***) Về bộ "khẩu" còn khá nhiều vấn đề, chúng tôi xin trình bày rõ trong một dịp khác, nếu có điều kiện.

SÁCH THAM KHẢO
A. Sách tiếng Việt
1. Giáo tình ngôn ngữ học đại cương . Ferdinand. de. Saussure Nxb. KHXH, H. 1973.
2. Về sự phát triển của văn tự và các loại hình của nó. U. M. DOHKOHOB, Lịch sử chữ viết M. 1979
3. Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm Nguyễn Tá Nhí, Tạp chí Hán Nôm, số 2/1987.
4. Ngữ pháp tiếng Việt Nguyễn Anh Quế Nxb. GD, H. 1996.
B. Sách Hán Nôm (lưu giữ tại Viện Hán Nôm).
5. Quốc âm thi tập Nv.5 (Viện Hán Nôm).
6. Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập AB.635.
7. Thiên Nam ngữ lục AB.478.
8. Hoa tiên nhuận chính VNb.72.
9. Lý hạng ca dao VNv.303.
10. Tây du truyện AB.81

BỘ PHẬN CHỈ NGHĨA GIẢ TRONG CHỮ NÔM - Nguyễn Tá Nhí

Thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã thống nhất phân chia chữ Nôm thành hai loại: chữ đơn (mượn nguyên từ chữ Hán) và chữ có cấu tạo ghép (chữ Nôm tự tạo)(1). Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong chuyên luận của mình đã đưa ra tiêu chí phân biệt: Chữ đơn gồm những chữ vừa có mặt trong văn bản Hán, còn chữ Nôm tự tạo gồm những chữ chỉ thấy xuất hiện trong các văn bản Nôm(2).
Tiếp đến, các nhà nghiên cứu lại căn cứ vào thế đối lập trong phương thức cấu tạo của từng chữ mà phân chia thành nhiều tiểu loại. Nhìn chung các tiểu loại này đã khái quát hầu hết số chữ Nôm có trong các loại văn bản Nôm. Nói là hầu hết bởi vì còn một số chữ Nôm nữa chưa biết sắp xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng đã ghi nhận điều này: “có một số chữ quá đặc biệt như đĩ, cụt thì chúng tôi chưa đưa vào đây(3). Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số chữ tồn tại khá phổ biến trong các loại văn bản Nôm, nhưng chưa thấy xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp như các chữ:
sửa 所 gần lùng 怰
Đối chiếu với các tiêu chí phân loại nói ở trên, thì thấy ba chữ này không thể xếp vào phạm vi chữ đơn được, bởi lẽ chúng chỉ có mặt trong các văn bản Nôm mà không thấy xuất hiện trong các văn bản Hán. Do vậy phải đưa chúng về loại chữ ghép tự tạo. Mô hình loại chữ ghép tự tạo mà giáo sư Nguyễn Tài Cẩn nêu ra gồm bốn tiểu loại:
D _ _ _ ) chữ Hán + dấu nháy
Đ _ _ _ ) âm + âm
E _ _ _ ) Nghĩa + Nghĩa
G _ _ _ ) Nghĩa + âm
Chúng ta hãy thử xét xem mấy chữ vừa nêu ra ở trên nên xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp. Rõ ràng không thể xếp loại vào tiểu loại D, vì cả ba chữ đều không sử dụng dấu nháy. Cũng không thể xếp vào tiểu loại E, vì cả ba chữ đều có bộ phận chỉ âm là: Sở, cân, lộng. Chỉ còn có khả năng xếp vào tiểu loại Đ hoặc G. Xin lần lượt xét từng trường hợp.
1. 所 Sửa (sở + cự)
Nếu xếp vào tiểu loại Đ, nghĩa là quan niệm “cự” là ký hiệu ghi thành tố thứ nhất trong tổ hợp phụ âm đầu K (?) nào đó, mà Sở là ký hiệu ghi thành tố thứ hai trong tổ hợp phụ âm đó. Thế nhưng, trong tiếng Việt, sự tồn tại của tổ hợp phụ âm đầu KS vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Do vậy giả định này cũng chưa có cơ sở vững chắc.
Nếu xếp vào tiểu loại G. thì ký hiệu “cự” lại không liên quan gì đến nghĩa của từ sửa cả. Do vậy cũng không thỏa đáng.
2. gần (bối + cân)
Trong chữ gần, ký hiệu “cân” có thể coi là bộ phận viết tắt của chữ cận (xước + cân), cũng có thể xem là bộ phận ghi âm gần. Thế nhưng nếu xếp vào tiểu loại Đ, thì ký hiệu “bối” không có liên quan gì đến âm đọc gần cả, nên không thích hợp. Còn nếu xếp vào tiểu loại G. thì ký hiệu “bối” không thấy có gắn bó gì với nghĩa của từ gần, nên cũng không thích hợp.
3. 怰 lùng (xước + lộng)
Nếu xếp vào tiểu loại Đ, thì ký hiệu “xước” không tìm thấy có liên quan gì với âm lùng. Nếu xếp vào tiểu loại G, thì ký hiệu “xước” không thấy có liên quan gì với nghĩa của từ lùng, do vậy đều không thỏa đáng.
Vậy thì nên xếp các chữ sửa, gần, lùng này vào đâu?
Nhìn lại toàn bộ hệ thống mô hình cấu trúc chữ Nôm mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dường như chỉ dựa vào từng cá thể đơn lập để phân tích xét đoán, chưa thấy xét đến quan hệ của từng cá thể với các yếu tố khác. Chẳng hạn như quan hệ của một chữ, đối với các chữ khác trong một từ ghép hoặc trong cả một câu. Trong thực tế các văn bản Nôm, chúng ta vẫn bắt gặp những chữ Nôm được tạo ra không phải chỉ do riêng bản thân nó quy định, mà còn chịu sự chi phối của các chữ khác ở xung quanh. Chẳng hạn, trong một từ ghép, hai chữ dùng để ghi hai từ đơn có nghĩa gần nhau, thường chi phối nhau, chữ thứ nhất dùng bộ thủ chỉ nghĩa nào thì chữ thứ hai cũng dùng bộ thủ đó. Ví dụ:
1. Đau đớn: được ghi bằng hai chữ có bộ phận chỉ âm là đao đán 刀 旦 còn ở bộ phận chỉ nghĩa, khi thì cùng dùng bộ “bệnh”:

Nghĩa duyên càng gợi tơ sầu,
Nghĩ thân càng lại thêm đau đớn tình.
Hoa Tiên truyện
Khi thì lại cùng dùng bộ “tâm đứng”:
Phạm Tải đau đớn trăm đàng,
Cầm lấy tay nàng rên khóc thở than.
Phạm Tải Ngọc Hoa
Đau đớn là một động từ, chỉ cảm giác do tổn thương về cơ thể, hoặc tổn hại về tinh thần gây ra. Vì vậy sử dụng bộ “tâm đứng” hoặc bộ “bệnh” đều thích hợp.
2. Vẫy vùng: được ghi bằng hai chữ có bộ phận chỉ âm là vĩ phùng 尾 逢 còn bộ phận chỉ nghĩa khi thì cùng dùng bộ “thủ xóc”:

Khi cha đòi gót vẫy vùng,
Mắc vào lưới cá khôn hòng vượt qua.
Hương Sơn quan âm Kinh
Khi thì dùng bộ “thủy”:
Mấy lời cặn kẽ thủy chung,
Hóa cơn mưa gió vẫy vùng chỉn ghê.
Chàng Chuối tân truyện
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi chống với anh hùng được sao
Đại Nam quốc sử diễn ca
Vẫy vùng là một động tác phải sử dụng đến chân tay nên chữ Nôm dùng bộ “thủ” để ghi như ở trường hợp 1 là rất hợp lý. Nhưng đến trường hợp 2 và 3, lại thấy dùng bộ “thủy”, thoạt nhìn có cảm giác chưa ổn. Nhưng xem xét ý nghĩa của cả câu, thì chúng ta thấy phương thức cấu tạo này lại có thể lý giải được: ở trường hợp 2, động tác vẫy vùng thực hiện được nhờ vào cơn mưa gió. Chàng Chuối vốn quen thạo sông nước, nay gặp được cơn mưa gió thì hẳn sẽ thỏa sức vẫy vùng. Ở trường hợp 3, động tác vẫy vùng được thực hiện trên vùng hồ Tây mênh mang nước cả.
Phương pháp tạo chữ thay đổi bộ phận chỉ nghĩa tùy theo ngữ cảnh cụ thể có mặt tích cực là giúp cho người đọc dễ dàng nhận biết âm đọc và ý nghĩa cụ thể của từ, song nó cũng có mặt hạn chế là tạo ra nhiều dị thể của chữ Nôm. Từ đó lại dẫn đến việc tạo ra một số chữ Nôm có bộ phận chỉ nghĩa không phù hợp. Chúng tôi tạm coi bộ phận chỉ nghĩa không phù hợp với chữ này là bộ phận chỉ nghĩa giả. Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy bộ phận chỉ nghĩa giả xảy ra trong những trường hợp sau:
1. Trong một từ ghép cố định, hai chữ ghi hai từ đơn, một chữ dùng lối chữ đơn (mượn Hán), một chữ dùng lối chữ Nôm tự tạo. Bản thân chữ Nôm vốn là nguyên hình chữ Hán, bộ phận chỉ nghĩa trong chữ Hán này không có liên quan gì đến chữ Nôm ghi từ ghép cố định đó, thế nhưng trong chữ tự tạo bộ phận chỉ nghĩa lại chịu sự chi phối của chữ đơn trên, sử dụng luôn bộ thủ của chữ đơn làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy tạo ra chữ Nôm có bộ phận chỉ nghĩa giả. Ví dụ:
- Yêu, ghét 腰 月結 :
Khiến thị quan nộp vật giá cái quý cái tiện để xem dân chưng thửa yêu ghét.
Lễ ký đại toàn tiết yếu diễn nghĩa
Yêu là chữ Hán ghi từ Hán Việt yêu chỉ phần eo lưng trong cơ thể con người, bộ “nhục” là bộ phận chỉ nghĩa. Ở đây mượn để ghi từ yêu trong từ ghép yêu ghét, mà bộ “nhục” thì không hề có liên quan gì đến khái niệm yêu ghét cả. Thế mà ở chữ ghét người viết lại dùng nó để làm bộ phận chỉ nghĩa trong chữ Nôm tự tạo ghét (nhục + kết).
Thấp thoáng 湿 淌
Lửa đâu thấp thoáng trong rèm
Khi đưa hương xạ khi đem khói tùng
Mai đình mộng ký
Từ thấp thoáng được Từ điển tiếng Việt giải thích là: “khi ẩn khi hiện một cách nhanh chóng”(4). Từ thấp ở đây được ghi bằng chữ Hán thấp, có bộ phận chỉ nghĩa là bộ “thủy” vốn để ghi từ Hán Việt thấp có nghĩa là ẩm ướt, không hề có liên quan gì đến nghĩa của từ thấp thoáng trong tiếng Việt. Đến khi ghi từ thoáng, người viết lại dùng ngay bộ phận chỉ nghĩa là bộ thủy, tạo ra chữ Nôm tự tạo thoáng (thủy + thượng).
Bộ bối trong chữ gần ghi từ ghép gần xa, bộ xước trong chữ lùng ghi từ ghép lạ lùng, và bộ cự trong chữ sửa ghi từ ghép sửa sang, cũng nên được xem là những bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm tự tạo (riêng chữ sửa có cấu tạo phức tạp hơn, chúng tôi sẽ bàn kỹ trong một dịp khác).
Đôi khi trong các từ ghép tự do, cũng thấy có hiện tượng dùng chữ Nôm tự tạo có bộ phận chỉ nghĩa giả. Ví dụ, chữ:
Vò (mịch + vu) 紆
Ruột tằm chín khúc vò tơ
Thương chàng nên nỗi tương tư đêm ngày
Ngọc Hoa cổ tích
Nhẹ nhàng càng nhắn nhe cho
Càng xui châu giã tơ vò càng thương
Hoa Tiên truyện
là động từ chỉ động tác thường được thực hiện bằng tay, do vậy chữ thường thấy dùng bộ “thủ” để chỉ nghĩa. Thế nhưng ở đây do tác động của chữ “tê”, đã tạo ra chữ Nôm tự tạo có bộ phận chỉ nghĩa là “Mịch”
- 犻 hái (thảo + hải)
Hái cúc ương sen hương bén áo
Tìm mai đạp tuyết nguyệt xâm khăn
Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập
Hái là động từ chỉ động tác thực hiện bằng tay, nên chữ hái phải dùng bộ “thủ” làm bộ phận chỉ nghĩa mới thỏa đáng. Thế nhưng ở đây chịu tác động của chữ cúc (菊), nên chữ hái cũng có bộ phận chỉ nghĩa là thảo là không được phù hợp.
2. Trong một từ ghép cố định được ghi bằng hai chữ Nôm đều là loại chữ tự tạo, song do đặc điểm của lối viết chữ khối vuông, để đảm bảo thế hài hòa cân đối trong từng chữ, người viết đã viết đảo thứ tự thông thường, viết bộ phận chỉ âm trước, bộ phận chỉ nghĩa sau. Khi viết đến chữ thứ hai, đã dùng bộ phận chỉ âm của chữ thứ nhất làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy cũng tạo ra bộ phận chỉ nghĩa giả không phù hợp với chữ. Ví dụ:
- Chữ “loi” 雷 trong từ lẻ loi
Người về chân gấm no đôi
Tôi nằm chiếu rách lẻ loi một mình
Nam giao cổ Kim lý hạng ca dao tập chú
Chữ lễ 礼佳 (lễ + chích), có bộ phận chỉ âm lễ, nét móc viết sau vòng sang bên phải, nếu theo thứ tự thông thường viết bộ phận chỉ nghĩa chích trước, bộ phận chỉ âm lễ sau sẽ tạo ra một khoảng trống không cần thiết, làm cho chữ mất cân đối, do vậy người viết đã viết đảo thứ tự. Đến khi viết đến chữ loi (lễ + lôi), dùng bộ phận chỉ âm lôi, và bộ phận chỉ nghĩa là lễ, không phù hợp với chữ, thành ra có bộ phận chỉ nghĩa giả.
- Chữ nần 女难 (nữ + nan), nần trong từ nợ nần:
Tham giầu lấp chú biện tuần
Tuy rằng bóng bảy nợ nần chan chan.
Nam giao cổ kim lý hạng ca dao tập chú
hoặc viết là 嫀 (nữ + tần)
Như ai dầu có nợ nần
Ta thì thay giả người ăn cũng đành.
Hương Sơn quan thế âm chân kinh
Từ nợ được ghi bằng chữ Nôm tự tạo 笡 (nữ + trái) bộ phận chỉ âm nữ đặt trước phần chỉ nghĩa trái. Trường hợp này có lẽ do thói quen khi viết chữ Hán bộ nữ thường được dùng làm bộ phận chỉ nghĩa, rất ít khi làm bộ phận chỉ âm, do vậy nó hay được viết trước. Đến khi viết chữ Nôm tự tạo nần, người viết lại dùng ngay bộ nữ này làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy đã tạo ra bộ phận chỉ nghĩa giả.
Xem xét những trường hợp cấu tạo chữ Nôm trên đây, chúng tôi nghĩ rằng thừa nhận có bộ phận chỉ nghĩa giả trong một số chữ Nôm, sẽ có thể đóng góp vào việc xây dựng mô hình chữ Nôm cho đầy đủ và chính xác hơn, từ đó giúp cho việc giải đọc các văn bản Nôm một cách có hiệu quả hơn.
CHÚ THÍCH
(1) Xin tham khảo các tài liệu
- Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981.
- Trần Xuân Ngọc Lan, Sơ bộ khảo sát quyển Tự điển Chỉ nam Ngọc giải âm nghĩa, luận văn Phó tiến sĩ.
- Nguyễn Ngọc San, Mô hình cấu trúc chữ Nôm, luận văn Phó Tiến sĩ (b. tóm tắt).
- Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985.
(2) Một số vấn đề về chữ Nôm, sách đã dẫn, tr.49. Xét kỹ ra, tiêu chí này cần phải có thêm giải thích, bởi lẽ chúng ta bắt gặp khá nhiều chữ Nôm tự tạo có mặt trong văn bản Hán, ví dụ những chữ ghi tên đất, tên người trong các văn bia chữ Hán v.v...
(3) Một số vấn đề về chữ Nôm, Sách đã dẫn, tr.80. Để tiện cho việc trình bày giải thích, trong bài viết này chúng tôi nhất loạt gọi tên các thuật ngữ theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã sử dụng, như: chữ đơn, chữ tự tạo...
(4) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1976, in lần thứ 2, tr.725./.