Saturday 10 June 2017

Vông mồng gà (Đông A)

Vông mồng gà

Photobucket

いろみえて
うつろふ物は
世中の
人の心の
花にそありける

iro miede 
utsurou mono wa 
yo no naka no 
hito no kokoro no 
hana ni zo arikeru 

Ono no Komachi

Sắc ngoài không phai
mà vẫn biến đổi
là hoa trong lòng 
của người từng trải
ở cõi đời này

Lần đầu tôi thấy cây hoa này ở một con phố nhỏ ở Hà Nội. Tôi không biết cây hoa có tên là gì, hỏi những người bạn đi cùng cũng không ai biết. Về nhà tra Google mới biết là cây vông mồng gà, có tên khoa học là Erythrina crista-galli. Nhìn bức ảnh tôi chụp ở trên, bạn có nhận ra đặc điểm gì đặc biệt của Hà Nội không? Bụi. Bụi bám trên những chiếc lá. Hà Nội của tôi bụi bặm, đông đúc và ồn ào. Không gian ngột ngạt, chỉ còn những chùm hoa như những ngọn lửa trên cây, như phương Tây gọi cây là cây bông lửa (flame tree), và không biết đến bao giờ chúng mới bùng cháy cả Hà Nội này, và tôi chợt nhớ tới bài thơ của Akhmatova mà tôi đã từng dịch:

... Và tôi cảm thấy những ngọn lửa cháy rực
Bốc cùng tôi cho tới tận rạng đông
Và tôi vẫn chưa làm sao dò ra được 
Chúng màu gì, những con mắt đó lạ lùng
Tất cả vừa run run vừa ca hát bốn phương
Lẫn cả tôi không nhận ra, ngươi kẻ thù hay bè bạn
Và mùa đông hay mùa hạ ở đây.

Thiết mộc lan (Đông A)

Thiết mộc lan

Photobucket

夜の蘭 香にかくれてや 花白し
yoru no ran ka ni kakurete ya hana shiroshi
Buson

Dạ lan
trong mùi hương ẩn giấu
màu hoa trắng

Bài haiku của Buson viết về một loài hoa lan nở trong đêm. Trong bóng đêm chúng ta không nhìn thấy sắc hoa nhưng ngửi thấy hương hoa, cứ như là cây giấu hoa của mình trong mùi hương. Hương vị che giấu màu sắc là một cảm nhận rất vi tế.

Thiết mộc lan có tên khoa học là Dracaena fragrans, không phải là một loài hoa lan. Hoa của thiết mộc lan cũng nở vào buổi tối và hương cũng rất thơm. Thiết mộc lan rất dễ trồng và rất dễ sống. Đây cũng là loại cây có tác dụng lọc formaldehyde trong không khí, và theo nghiên cứu của NASA là một trong top 10 loài cây lọc không khí tốt nhất, và như vậy rất có ích trồng ở trong nhà. 

Xích đồng (Đông A)

Xích đồng

Photobucket

桐の花咲くや都の古屋敷
Kiri no hana saku ya miyako no furuyashiki
Shiki

Hoa đồng nở
ngôi nhà cổ kinh đô
bày ra

Cây xích đồng (hay mò đỏ) có tên khoa học là Clerodendrum japonicum. Tên gọi xích đồng khá thống nhất với tên gọi trinh đồng của người Trung Quốc và phi đồng (higiri) của người Nhật Bản [xích, trinh, phi đều có nghĩa là màu đỏ]. Tuy cũng gọi là "đồng" nhưng cây không có liên quan với cây ngô đồng mùa thu lá rụng. Bài haiku của Shiki nói về cây ngô đồng. 

Trúc Nhật (Đông A)

Trúc Nhật

Photobucket

稲妻にこぼるる音や竹の露
inazuma ni koboruru ota ya take no tsuyu
Buson

Trong tia chớp
tiếng rơi khắp
những giọt sương lá trúc

Tia chớp lóe lên nhưng không nghe thấy tiếng sấm, mà nghe thấy tiếng những giọt nước rơi khắp trên cây trúc, nhìn ra thì lại là những giọt sương. Trong ánh chớp đấy, những giọt nước mưa trên lá trúc trông giống như những giọt sương, long lanh, tròn trịa, nhưng lại khác những giọt sương ở chỗ chúng tạo ra âm thanh, như một hệ quả của tia chớp.

Cây trúc Nhật có tên khoa học là Dracaena surculosa. Cái tên trúc Nhật là một cách gọi tùy tiện của dân gian, kiểu cũng giống như trúc Pháp, lan Ý. Những cây này hoàn toàn không có nguồn gốc riêng biệt từ Nhật, Pháp hay Ý. Tuy gọi là trúc, chi Dracaena không có liên quan gì tới tre trúc. Trái lại, cây trúc Nhật khá gần gũi với thiết mộc lan hay cây phất lộc (phát lộc, Dracaena sanderiana). Người Việt còn gọi cây trúc Nhật là trúc Quan Âm, trong khi đấy người Trung Quốc, Nhật Bản gọi cây trúc Quan Âm là cây trúc mây. Người Nhật gọi cây trúc Nhật là tinh thiên niên mộc, còn người Trung Quốc gọi là du điểm mộc, cho thấy cả người Nhật lẫn người Trung Quốc đều không coi cây trúc Nhật thuộc loại tre trúc. Vì cây trúc Nhật thuộc chi Dracaena nên hoa của nó hoàn toàn không giống hoa tre trúc cũng như hoa cau, cọ. Chúng nghiêng về phía thiết mộc lan

Tử đằng (Đông A)

Tử đằng

Photobucket

Hoa tử đằng này có tên khoa học là wisteria floribunda. Hoa này còn gọi là tử đằng Nhật để phân biệt với hoa tử đằng Trung quốc cùng chi (wisteria sinensis). Tiếng Đức gọi hoa tử đằng là Blauregen, mưa tím, bởi vì hoa rủ xuống như làn mưa màu tím chảy xuống từ mái hiên. Cái tên vừa đẹp lại vừa man mác buồn. Màu tím đã man mác buồn lại thêm mưa. Cứ theo kiểu Việt Nam loại hoa này dễ bị gọi là lan hay phong lan. Nhiều khi tôi không thể nào hiểu được cách gọi tên hoa của người Việt. [Bổ sung: tiếng Việt gọi hoa này là dây sắn tía]. Loại hoa tím gọi là tử đằng, loại hoa trắng gọi là ngân đằng. Quảng quần phương phổ chép rất nhiều loại cây đằng. Đằng là tên chung chỉ loại cây có tua rủ xuống.

Lý Bạch có bài thơ Tử đằng thụ:

Tử đằng quải vân mộc
Hoa mạn nghi dương xuân
Mật diệp ẩn ca điểu
Hương phong lưu mỹ nhân

Tôi dịch bài Cây tử đằng này thành thơ:

Tử đằng treo chót vót
Lớp lớp tưởng đương xuân
Cánh rậm che chim hót
Hương bay níu mỹ nhân

Tôi bỗng nhận ra ở Việt Nam rất ít hoa mọc trong tự nhiên, hay chính xác hơn, ở thành phố thấy rất ít loại hoa nở ở những nơi công cộng. Có thể rừng Việt Nam có nhiều hoa, nhưng tôi lại chưa bao giờ vào rừng ở Việt Nam. Vào rừng ở Việt Nam có lẽ không an toàn vì dễ có những thứ vắt, rắn, rết. Người Việt chơi hoa không được tự nhiên. Chẳng hạn đào, quất cứ phải thiến đào, đảo quất để ép cây nở hoa hay ra quả vào một khoảng thời gian nhất định. Tưởng là hay, nhưng thực ra rất dở vì không thể nào tạo ra được một phố đào, phố quất. Dịp Tết tôi ra bãi Phúc Xá xem hoa đào, nhưng quả thật không thể nào đẹp bằng một rừng đào hay một bãi đào vì những cây đào ở Phúc Xá đều con con, mang tính bài trí trong nhà hơn là ở ngoài tự nhiên. Cứ tưởng Việt Nam có nhiều loại hoa đào, nhưng thực ra Việt Nam có rất ít loại hoa đào nếu so với các nước khác. Hay là xuân hết lại viết về đào.
Photobucket

Hoa Ưu Đàm (Blog Đông A)

Hoa ưu đàm

Photobucket

優曇華の花待ち得たる心地して   深山桜に目こそ移らね
udonge no  hana machi-etaru kokochi shite 
mi-yama-zakura ni me koso utsurane

In thirty hundreds of years it blooms but once
My eyes have seen it, and spurn these mountain cherries
Tale of Genji

Hoa ưu đàm hay ưu đàm bát la là tên phiên âm kiểu Hán-Việt từ tiếng Pali hay Sanskrit udumbara. Trong tiếng Pali hay Sanskrit udumbara là cây Ficus racemosa, tức là cây sung trong tiếng Việt. Thế nhưng về hoa ưu đàm có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí mang tính huyền bí. Tại sao? Nguyên do các kinh điển Phật giáo đề cập tới loài cây này, vừa theo nghĩa đen, vừa theo nghĩa bóng với những ẩn dụ mang tính tôn giáo. Nhìn bên ngoài, cây sung vốn được coi là loài cây không có hoa, chỉ có quả. Nhưng về mặt khoa học, điều đó không đúng. Cây sung có hoa, cả hoa đực lẫn hoa cái, nhưng hoa phát triển cùng với hạt trong cùng một khối mà chúng ta gọi là quả sung. Thực chất bên trong quả sung chính là hoa sung. Nhưng dân gian không biết điều đó, cho rằng cây sung không có hoa hoặc rất khó ra hoa. Vì vậy mà cây sung còn có tên gọi là "vô hoa quả". Chính vì đặc tính không có hoa như vậy mà cây sung được ẩn dụ hóa thành một loài cây rất hiếm khi ra hoa, và do vậy cây sung ra hoa là một sự kiện hy hữu, được liên kết với những sự kiện tôn giáo mang tính hy hữu đặc biệt.

Hoa ưu đàm trong các kinh tạng của Phật giáo Nguyên thủy bằng tiếng Pali chỉ hàm nghĩa ẩn dụ như trên, chưa có các đặc điểm huyền bí như sau này. Udumbara trong kinh tạng tiếng Pali khi được dịch ra các tiếng khác, đều dịch là cây sung, kể cả tiếng Việt. Ví dụ như trong Kinh tập của Tiểu Bộ kinh, phần phẩm Rắnkinh Rắn, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch như sau:

"Ai trong các sanh hữu,
Không tìm thấy lõi cây,
Như kẻ đi hái hoa,
Trên cây sung không hoa.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa."

Cây sung không hoa chính là udumbara, tức là ưu đàm bát la. Cũng như vậy trong Thiên Đại phẩmcủa Tương Ưng Bộ kinh, phần Tương Ưng Giác Chi, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch rất rõ udumbara là cây sung:

"Và này các Tỷ-kheo, những cây lớn nào sanh từ hột giống nhỏ, có thân cây lớn, lớn lên bao trùm các cây khác, các cây ấy bị bao trùm, bị phá hủy, bị hư hại, ngã xuống, nằm rạp xuống? Ví như cây Bồ-đề, cây bàng, cây sanh (pilakka), cây sung (udumbara), cây bách hướng (kacchaka), cây kapitthaka; những cây lớn này, này các Tỷ-kheo, sanh từ hột giống nhỏ, có thân cây lớn, lớn lên bao trùm các cây khác. Các cây ấy bị bao trùm, bị phá hủy, bị hư hại, ngã xuống, nằm rạp xuống."

Thế nhưng ngay ở kinh tạng tiếng Pali, udumbara không chỉ hàm nghĩa là một loài cây hiếm khi ra hoa, mà còn hàm nghĩa là loài cây giác ngộ tức là một loài cây bồ đề, thành ra udumbara lại có thể được hiểu thành cây bồ đề. Nguyên do Thế tôn Konagamana giác ngộ dưới cây udumbara. Thực chất, cứ hiểu Thế tôn Konagamana giác ngộ dưới gốc cây sung sẽ chẳng có vấn đề gì, nhưng tôn giáo luôn muốn thần thánh hóa, không muốn gọi là cây sung, mà muốn gọi là cây giác ngộ, thành ra chuyện trở nên rắm rối. Kinh Đại Bổn trong Trường Bộ kinh có đoạn được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch như sau:

"Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pàtali (bà-bà-la). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pundarika (phân-đà-ly). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây sirĩsa (thi-lợi-sa). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây udumbara (ô-tam-bà-la). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây nigrodha (ni-câu-luật-đà). Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa-la)."

Lưu ý trong trích đoạn trên Hòa thượng Thích Minh Châu không dịch udumbara là cây sung như đã dịch trong Tiểu Bộ kinh hay Tương Ưng Bộ kinh mà phiên âm thành ô-tam-bà-la. Chính sự thiếu nhất quán như vậy của những người theo đạo Phật dẫn tới sự rối rắm, không nhất quán về cách hiểu ưu đàm bát la hay ưu đàm hoa.

Về hoa ưu đàm các kinh tạng tiếng Pali viết còn đỡ rắc rối. Sang các kinh tạng tiếng Hán của Đại Thừa, hoa ưu đàm trở nên rắc rối hơn. Diệu Pháp Liên Hoa kinh liên kết hoa ưu đàm với sự ra đời của chư Phật:

"Chư Phật xuất thế
là sự khó có,
vì lẽ lâu xa
mới gặp một lần.
Mà dẫu chư Phật
đã xuất thế rồi,
nói về pháp này
là sự khó có.
Vô số thời kỳ
mới nghe pháp này,
nên sự nghe ấy
là sự khó có.
Và rồi những ai
nghe nổi pháp này,
thì người như vậy
là người khó có.
Như hoa ưu đàm
ai cũng ưa thích,
đến như chư thiên
cũng thấy hiếm có,
vì lẽ thỉnh thoảng
mới trổ một lần.
Những người nghe nổi
pháp như thế này,
nghe rồi hoan hỷ
ca tụng tán dương,
thì dẫu đến nỗi
chỉ phát một lời,
cũng đã hiến cúng
tam thế chư Phật.
Nên người như vậy
hết sức khó có,
khó có hơn cả
hoa thiêng ưu đàm."

Đoạn trích trên do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch. Hòa thượng Thích Trí Quang còn dẫn giải:

"... chính trong phẩm 2, Phật nói Nhất thừa hiếm có như hoa ưu đàm. Ưu đàm là ưu đàm bát la (udumbara) mà nay có người nói tên khoa học là ficus glomerata. Ưu đàm là hoa thiêng quí hiếm hay là ficus glomerata thì tôi tồn nghi. Nhưng điều chắc chắn là ưu đàm không thể không liên hệ gì với hoa sen."

Ở đây có thể nhận thấy cách hiểu của Hòa thượng Thích Trí Quang. Hòa thượng nghi ngờ ưu đàm bát la không phải là cây sung, mà là một thứ cây linh thiêng gì đó có liên hệ với hoa sen. Lý do tôi nghĩ rằng Hòa thượng Thích Trí Quang đã cho rằng ưu đàm bát la nở khi chư Phật xuất hiện, do vậy nó phải là thứ hoa linh thiêng, và hơn nữa nó được nói tới trong Liên Hoa kinh, do vậy ắt phải có liên quan tới hoa sen. Nhưng nếu nhìn nhận nghĩa ẩn dụ của cây sung là một thứ cây rất hiếm khi ra hoa như trong kinh tạng Pali, và ẩn dụ hóa tiếp tính linh thiêng của nó bằng liên kết với sự xuất hiện của chư Phật cũng không có vấn đề gì. Như vậy có thể thấy từ Phật giáo Nguyên thủy tới Phật giáo Đại Thừa và các pháp môn, hoa ưu đàm đã trở nên rắc rối hơn nhiểu.

Song vấn đề không dừng lại ở đó. Từ Liên Hoa kinh, câu thành ngữ trong tiếng Hán "Đàm hoa nhất hiện" trở nên phổ biến. Nhưng ý nghĩa của thành ngữ này không còn giữ được nghĩa gốc như trongLiên Hoa kinhHán-Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích: "Đàm hoa nhất hiện, ý nói bỗng thấy lại biến đi ngay, tục thường mượn dùng để tả sự mau sinh, mau diệt". Thiều Chửu là một nhà tu hành đạo Phật, ông không thể không biết Liên Hoa kinh, vậy tại sao ông chỉ giải thích ý nghĩa của "Đàm hoa nhất hiện" như vậy? Vấn đề nằm ở chỗ cách giải nghĩa của Thiều Chửu là cách hiểu chính thức trong tiếng Hán. Rắc rối giờ đây nằm ở chính tiếng Hán. Trong tiếng Hán đàm hoa chính là hoa quỳnh trong tiếng Việt Epiphyllum oxypetalum (hoa quỳnh trong tiếng Hán lại là một loài hoa khác, hoa Viburnum sargentii, thành ra nếu ai dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt quỳnh hoa là hoa quỳnh thì đấy không phải là hoa quỳnh trong cách hiểu của người Việt). Đàm hoa hay hoa quỳnh, chỉ nở một lần, tối nở, sớm tàn, thành ra có ý nghĩa "bỗng thấy lại biến đi ngay" của "đàm hoa nhất hiện". Ngay trong Quảng quần phương phổ cũng có hai loài hoa cùng mang tên ưu đàm hoa. Một ưu đàm hoa được giải thích là vô hoa quả, và một ưu đàm hoa là một loài hoa ở Vân Nam được mô tả sắc trắng, hương thơm, trông như hoa sen, có 12 cánh, có nguồn gốc từ Tây Vực. Loài cây đầu có lẽ là cây sung, và loài thứ hai có lẽ là cây quỳnh.

Với tôi hoa ưu đàm chỉ là cây sung, và ý nghĩa điển cố của nó chỉ là một loài hoa rất hiếm gặp. Tất cả những thứ khác được cho là hoa ưu đàm đều là không phải.
 

Wednesday 26 April 2017

"Rửa" vàng bằng cơ chế? (Nguyên Hằng - Thanh Niên)


Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới:
“Rửa” vàng bằng cơ chế ?
Những bí mật của thị trường vàng Việt Nam đã được “kể” ra từ những con số thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới.
Thanh niên24/04/2013
Lượng vàng VN nhập khẩu
1
Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới -  Đồ họa: Hồng Sơn
Hàng tỉ USD nhập vàng lậu ?   
Theo Hiệp hội Vàng thế giới, chỉ trong hai năm 2011 và 2012, tổng nhu cầu vàng VN đã lên đến gần chục tỉ USD. Trong đó, giá trị vàng nữ trang nhập đã lên đến con số gần 1,3 tỉ USD. Cụ thể, lượng vàng nữ trang VN nhập khẩu năm 2011 là 13 tấn, trị giá 634 triệu USD. Sang năm 2012, ngoại tệ nhập vàng nữ trang còn nhiều hơn. Quý 1 nhập 5 tấn, trị giá 269 triệu USD, quý 2 nhập 3 tấn, trị giá 156 triệu USD, quý 3 nhập 2,5 tấn trị giá 130 triệu USD và quý 4 là 2 tấn, trị giá 111 triệu USD. Tổng cộng, năm 2012 VN đã nhập 12,5 tấn, trị giá 666 triệu USD. Chỉ tính riêng vàng nữ trang, trong 2 năm qua VN đã bỏ ra gần 1,3 tỉ USD để nhập khẩu. Đáng nói, cho đến nay NHNN chưa cấp phép cho bất cứ đơn vị nào nhập vàng nữ trang và nếu đúng thì số vàng nữ trang với khối lượng lên tới trên 25,5 tấn này là nhập lậu hoàn toàn.

2Cũng theo thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, trong 2 năm này số lượng vàng thỏi nhập vào VN còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, trong năm 2011 vàng thỏi nhập vào VN tổng cộng là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD. Năm 2012, con số này cũng không kém với tổng cộng là 75,2 tấn, tương đương trên 4 tỉ USD. Riêng với vàng thỏi, trong năm 2011 và 2012, NHNN cũng không cấp phép công ty nào được nhập loại vàng này. Vì vậy, vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo 2 con đường. Thứ nhất là NHNN cho phép các NHTM mua trạng thái nước ngoài và thứ hai là vàng thỏi nhập lậu.
Những con số trên nói lên rằng, vàng lậu đã, đang và sẽ tiếp tục tràn vào VN. Đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá trong suốt thời gian qua. Điều này hợp lý và lý giải vì sao cầu ngoại tệ “chính thống” của nền kinh tế mấy năm nay không tăng, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh nhưng “sóng tỷ giá” vẫn thỉnh thoảng lại nổi lên. Ngay tại thời điểm này, khi khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục, trên 6 triệu đồng/lượng, thì tỷ giá ngoài thị trường tự do lại bị hun nóng một cách đáng ngờ.
Hợp pháp hóa vàng lậu ?     
Với những biến động tại thị trường vàng, các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào VN. Bởi như phân tích trên, ngoài “chui” vào kênh vàng nữ trang, vàng lậu còn có thể được dập thành vàng miếng giả thương hiệu SJC, vàng nữ trang dưới tên gọi phi SJC. NHNN đã chính thức quản lý việc dập vàng miếng thương hiệu độc quyền SJC nên nếu muốn hợp pháp hóa số vàng lậu chỉ có con đường duy nhất là xuất ra rồi nhập trở lại. Và cũng trùng hợp NHNN “bỗng dưng” (nói bỗng dưng là bởi trước đó, NHNN công bố có khoảng 500 tấn vàng đang nằm trong dân và lên phương án huy động. Với lượng vàng trong dân nhiều như vậy, không có lý do gì để nhập vàng) cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập vàng miếng SJC. Sự “trùng hợp” này rất dễ tạo điều kiện cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào để hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi khủng. Nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD.
Nhưng mọi chuyện không dừng ở đó. Số vàng lậu nhập vào VN trong 2 năm qua,3 như thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, là 25,5 tấn (chỉ tính riêng vàng nữ trang). Đợt “tạm xuất, tái nhập” vừa rồi được 11 tấn vàng và đã được NHNN bán hết sau phiên đấu thầu ngày hôm qua. Như vậy, còn khoảng gần 15 tấn vàng lậu vẫn đang “ẩn” trên thị trường chờ cơ hội hợp pháp hóa. Câu hỏi đặt ra là, liệu có xảy ra thêm một cuộc tạm xuất – tái nhập để chuyển thể về vàng miếng SJC một cách chính danh nữa hay không? Câu trả lời vẫn phải chờ, nhưng những biểu hiện của thị trường vàng hiện nay đang cho thấy điều đó hoàn toàn có thể tiếp tục được thực hiện. Cụ thể, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới (lý do lớn nhất để phải bình ổn) đang ở mức kỷ lục, khoảng 6 triệu đồng/lượng, lượng vàng NHNN nhập khẩu trước đó đã bán hết sau 11 phiên đấu thầu… Khả năng tạo những cơn khan hiếm giả gây áp lực xuất – nhập để hợp pháp hóa vàng lậu là rất lớn.
Giá vàng VN trong quá khứ có cao có thấp hơn giá thế giới, nhưng mấy năm trở lại đây luôn cao hơn vàng thế giới rất nhiều. Trong quá khứ, VN có xuất khẩu vàng, nhưng mấy năm gần đây vàng xuất hầu như không có mà vàng nhập thì rất lớn. Đặc biệt, là nhập lậu. Đây là kết quả từ chính sách quản lý thị trường vàng yếu kém, tạo cơ hội cho các đơn vị, giới đầu nậu, giới đầu cơ… thao túng, trục lợi từ ngay trên cơ chế.
Vàng là thủ phạm làm tăng giá USD: Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN cũng khẳng định, diễn biến kinh tế vĩ mô chưa cho thấy áp lực căng thẳng quá lớn về đồng USD. Nhưng vừa qua, sự nóng lên của đồng ngoại tệ này chính do các đầu nậu tranh thủ nhập vàng đế “kiếm lời”. Ở các địa bàn như TP.HCM, Hà Nội nhu cầu tiêu thụ vàng bao giờ cũng rất lớn, với mức chênh lệch giá như vừa qua, dễ hiểu giới buôn lậu vàng chắc chắn đã vào cuộc. Một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trên thị trường tài chính cũng nhận định, trong tình hình khó khăn hiện nay, cầu USD cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự chưa cao, trong khi đó nhập siêu quý 1 không quá lớn để gây áp lực lên cán cân thương mại, thì có thể thấy nhiều khả năng vàng chính là thủ phạm khiến USD đã tăng giá so với VND.Anh Vũ (ghi)
Nguyên Hằng
Nguồn: Thanh niên