Tuesday 17 October 2017

Về Bảo Ân – con trai út của vua Bảo Đại (Huy Phương - Người Việt)

Về Bảo Ân – con trai út của vua Bảo Đại

Print Friendly, PDF & Email
bao-an-1
Tác giả: Huy Phương
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng.
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.
phi anh
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
163634-DP-130325-ChoTroi-1-400
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
co troi
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.
Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
163634-DP-130325-ChoTroi-3-400
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”
Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
bao An va Mong Diep
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
bao an va mo bao dai
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
bao an va cont rai
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
164028-DP-130401-BaoDai-8-400
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
164412-DP-BD11-400
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
  • Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
  • Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
  • Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
  • Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
bao dai
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc bài viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
Nguồn : Người Việt – Hình : Gactholoc.net
http://nghiencuuquocte.org/2016/11/22/ve-bao-con-trai-ut-cua-vua-bao-dai/

Sunday 15 October 2017

Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn

Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn
Print Friendly, PDF & Email
leduan
“Chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng, nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI mới có đổi mới, ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước”, Đại tướng Lê Đức Anh nhớ lại.
“Ông Hai trăm Bu-gi”
Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đầu năm 1947 ở Đồng Tháp Mười. Lúc đó ở Nam Bộ tổ chức cộng sản có hai phái  “Tiền Phong” và “Giải Phóng” cùng lãnh đạo quần chúng làm cách mạng  nhưng hai phái không đoàn kết mà lại tranh giành ảnh hưởng với nhau. Anh Lê Duẩn chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó hợp nhất, củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức Đảng các cấp trong toàn Xứ ủy để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách đang diễn ra.
Từ hội nghị này, anh em Nam Bộ đặt cho anh cái biệt danh “Ông Hai trăm Bu-gi”, ý nói đôi mắt và tư duy mẫn tuệ  sáng như ngọn đèn hai trăm Bu-gi.
Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có nhiều lần từ chiến trường được ra Bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện gặp anh nhiều hơn. Không phải ở anh cái gì tôi cũng tán thành 100%, nhưng có hai điểm thì tôi luôn luôn nhất trí:
Một là, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày đêm anh đau đáu suy nghĩ việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản “Đề cương cách mạng miền Nam” ra Bắc. Đó là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết 15, tạo nên bước nhảy vọt cho cách mạng miền Nam.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Lê Duẩn báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam (1957). Ảnh tư liệu: Báo Nhân dân.
Năm 1972, quốc tế diễn ra nhiều sự kiện gây khó khăn lớn đối với cách mạng Việt Nam. Một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị – Bộ chỉ huy tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Rồi tiến tới quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, tiến tới giải phóng trước tháng 5/1975 khi thời cơ đã tới. Đây là một quyết định sáng suốt. Tôi cho rằng, quyết định này xuất phát từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng.
Hai là, anh luôn là một con người đôn hậu. Sự đôn hậu không chỉ thể hiện khi anh đưa ra những chủ trương, chính sách để cải thiện, mang lại cuộc sống cho người dân ngày càng tốt hơn, mà còn cả trong tiếp xúc, ứng xử đối với anh em, đồng chí, với bạn bè quốc tế, kể cả khi đối với sự việc và con người không đáng được nhận sự nhân ái và lòng bao dung đó.
Hội nghị 81 Đảng cộng sản và những vết rạn
Cuối những năm 50, đầu những năm 60 (của thế kỷ 20), tình hình quốc tế có hai diễn biến gây bất lợi và cản trở rất lớn đối với cách mạng Việt Nam: Một là, với tư duy “Một ngọn lửa nhỏ cũng dễ làm bùng cháy cả cánh đồng, một xung đột vũ trang nhỏ cũng dễ thành ngòi nổ chiến tranh hạt nhân”, xu hướng “thi đua hòa bình, thủ tiêu đấu tranh vũ trang, cầu an, quá đề cao nguy cơ chiến tranh hạt nhân” đang thắng thế trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới, mà dấu mốc là Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân, mùa Thu năm 1960 tại Mat-xcơ-va do Khơ-rút-xốp, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên-xô chủ trì.
Hai là, sự mâu thuẫn và rạn nứt quan hệ giữa Liên-xô và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện tại cuộc gặp mặt các Đảng cộng sản và công nhân ở Bucarest (Rumani), tới Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mat-xcơ-va thì công khai bộc lộ ra. Khơ-rút-xốp thì chỉ trích ban lãnh đạo Trung Quốc là chủ nghĩa giáo điều; còn Trung Quốc thì kết tội ban lãnh đạo Liên-xô là chủ nghĩa xét lại hiện đại.
Sau Hội nghị 81 Đảng, giữa hai bên ngày càng căng thẳng: Các quan hệ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật bị đình chỉ, quan hệ ngoại giao hạ xuống mức thấp nhất; dọc biên giới hai nước, các cuộc khiêu khích vũ trang liên tiếp xảy ra, cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới.
Hai bên chửi nhau công khai trên trường quốc tế, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động dụ dỗ, gây sức ép để lôi kéo các đảng khác ngả về phía mình… Tình hình quốc tế nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của các thành viên trong Ban lãnh đạo đảng ta.
Từ sau 1954, trong nội bộ ta có ba khuynh hướng: Một khuynh hướng kiên quyết đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào, Bắc Nam sum họp. Đứng đầu và tiêu biểu cho khuynh hướng này là Bác Hồ, các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh. Một khuynh hướng là: Mỹ nó mạnh quá, không thể đánh được.
Một khuynh hướng khác: Nếu đánh nó thì nguy cho cả miền Bắc, hãy làm theo tinh thần của Hội nghị 81 Đảng –Thi đua hòa bình, tập trung xây dựng miền Bắc Việt Nam, xây dựng phe XHCN ngày càng mạnh lên, phe TBCN ngày càng yếu đi, đến lúc sắp lụi tàn nó sẽ đầu hàng…
Có thể nói, đây là một trong những thời kỳ phức tạp nhất về chính trị đối với việc hoạch định đường lối chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết 15 Trung ương ra đời trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp như vậy chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và trưởng thành vượt bậc của Đảng ta cả về lý luận và thực tiễn, cả về đường lối và phương pháp cách mạng. Nó thể hiện rõ đường lối độc lập, tự chủ và sách lược mềm dẻo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền Nam.
Nghị quyết 15 thật sự là một nghị quyết về “chuyển chiến lược” từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch. Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam.(1)
Chuyện chưa từng kể về Việt Nam và hai “người anh lớn”
Cách đây mười một năm, mùa Hè năm 2005, khi anh Phạm Văn Xô bệnh nặng, tôi tới thăm anh tại Bệnh viện Thống Nhất, được anh cho biết: Anh và anh Phan Văn Đáng được thay mặt Xứ ủy Nam Bộ ra dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng).
Tháng 8 /1957, hai anh ra tới Hà Nội, chờ đợi hết năm 1958, đến tháng 1/1959, mới được dự họp, nhưng không phải họp toàn Ban Chấp hành Trung ương ở hội trường, mà chỉ là thảo luận ở tổ để quán triệt tinh thần “Thi đua hòa bình”- Nội dung cốt lõi và bao trùm nhất tại văn bản do nhóm anh Võ Nguyên Giáp soạn thảo.
Tôi tin lời anh kể; vì trước đó, ngày 5 tháng 6-1956, Báo Nhân Dân đã đăng (gần hết cả số báo) bài “Thi đua Hòa bình” của anh Võ Nguyên Giáp; trong đó có câu: “Người ta hỏi rằng, có thể thống nhất đất nước  bằng phương pháp hòa bình được không? Câu trả lời là được! Và đó là con đường duy nhất đúng…” Sau hội nghị đợt 1 không thấy kết quả, các anh buồn nản xin trở về Nam.
Trước khi về, đồng chí Lê Duẩn bố trí cho hai anh lên chào Bác Hồ. Anh Duẩn nhủ: “Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác”. Và, Hồ Chủ tịch đã căn dặn các anh: “Miền Nam ở xa, Xứ ủy Nam Bộ phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để Mỹ-Diệm tiêu diệt cách mạng miền Nam.”
Các anh đã trao đổi hai ngày với anh Lê Duẩn trước khi trở về Nam. Anh Lê Duẩn bảo: “Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!”. Sau đó, miền Nam bùng lên “Đồng khởi”, không khí cách mạng của cả miền Nam hừng hực như cánh đồng cỏ khô, chỉ chờ một mồi lửa là bùng cháy….
Đất nước ta còn đầy mình thương tích sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp lại phải lâm vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ số 1, trong khi nền kinh tế của ta vừa nghèo nàn vừa lạc hậu vào bậc nhất nhì thế giới.
Chúng ta ý thức được rằng, nếu không có sự chi viện và giúp đỡ của Liên-xô, Trung Quốc – Hai người Anh Cả của Việt Nam, rồi của các nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới thì chúng ta không đủ sức đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Nhưng lúc đầu, Liên-xô không đồng ý cho ta phát động đấu tranh võ trang, yêu cầu ta quán triệt và thực hiện “Thi đua hòa bình”. Còn Trung Quốc thì bảo ta “Kiên trì mai phục”; tới lần thứ ba ta đề nghị thì mới đồng ý để ta tổ chức vũ trang ở quy mô cấp tiểu đội là phổ biến, cấp đại đội chỉ là cá biệt. Về vũ khí, Trung Quốc chỉ cho ta loại súng trường K44 bắn phát  một, nói là “để tự vệ, chống càn!”.
Cả hai người Anh lớn không đồng tình việc ta đấu tranh bằng bạo lực cách mạng, trong khi hai ông Anh lại đang mâu thuẫn gay gắt với nhau. Ta làm sao đây? Khó lắm thay!…
Được sự tin cậy và dặn dò của Hồ Chủ tịch, anh Lê Duẩn đã nhiều lần đi Mat-xcơ-va và Bắc Kinh. Anh đưa ra những thắng lợi đầu tiên, những chuyển biến tích cực của chiến trường Nam Bộ để thuyết phục. Và, bằng lối tư duy và ứng xử sắc sảo, tài ngoại giao khôn khéo của mình, dần dần anh đã thật sự thuyết phục được họ: Liên-xô đồng ý viện trợ cho ta toàn bộ vũ khí, khí tài và phương tiện để ta chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
Trung Quốc đồng ý viện trợ vũ khí, phương tiện, tiền bạc và vật chất để ta chiến đấu với đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
“Chớp thời cơ càng nhanh càng tốt”
Trước kia tôi ở cương vị thấp nên không có điều kiện tiếp xúc nhiều với anh Lê Duẩn.
Đến tháng 11/1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng cách mạng của Quân khu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, làm phá sản chiến lược bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn gọi ra Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng: “Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực hiện ý đồ “Quốc gia dân tộc”; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và mâu thuẫn nhau nên chưa thực hiện được.
Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ, từ quân chủ lực tới quân địa phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự… đông, đồ sộ nhưng không mạnh”. Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: “Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt.
Nếu một khi nó đã hết hoang mang, ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về “Việt Nam hóa” của nó mà làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành nội chiến; mà đã như thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được”.
Nghiên cứu tình hình thì thấy rất rõ là  từ giữa năm 1973 đến đầu 1974, địch bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa” ở một số vùng ven đô. Bởi vậy, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ là sức mạnh. Đây là một tư duy sáng suốt.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Tổng Bí thư Lê Duẩn (đứng thứ 6 từ phải sang) và đồng chí Lê Đức Anh (đứng ngoài cùng bên phải) cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam – thống nhất đất nước (Đà Lạt 1975). Ảnh tư liệu/ CAND
Ngay sau đó, đầu năm 1974, anh Lê Duẩn đã trực tiếp chỉ đạo Bộ tổng Tham mưu chuẩn bị kế hoạch quân sự tiến công giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976; đồng thời chỉ đạo Trung ương Cục miền Nam khẩn trương tổ chức phong trào quần chúng và các lực lượng tại chỗ (lực lượng chính trị và lực vũ trang địa phương, lực lượng quân báo, biệt động, lực lượng tình báo…) trong lòng các đô thị mà quân địch đang chiếm đóng.
Khi đó, anh đã chỉ rõ: “Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ… Chuẩn bị và tổ chức tốt lực lượng tại chỗ thì đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến lũy gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây và tiêu diệt quân thù.
Mà chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ… nơi nào cũng làm được như thế cả…”
Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra đúng như ý kiến tiên liệu của anh.
Chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam
Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chủ tịch, anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thác ghềnh cập bến vinh quang. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, anh Lê Duẩn đã có công rất lớn.
Phẩm chất và di sản của anh để lại, chúng ta còn phải nghiên cứu học hỏi để dần dần hiểu được hết anh.
Chúng ta hãy hình dung lại, sau ngày miền Nam giải phóng, nền kinh tế của ta nghèo nàn và lạc hậu như thế nào. Sau 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới.
Khói súng chiến tranh chưa tan hết, hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh chưa khắc phục được bao nhiêu. Chúng ta bị Mỹ và các nước thân Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đang mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn đến sụp đổ. Theo đó, khối SEV, nguồn viện trợ duy nhất của ta đã cạn dần rồi mất hẳn. Nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, lạm phát tới 774%. Trong khi Liên-xô rơi vào khủng hoảng toàn diện, lạm phát còn nặng hơn ta nhiều.
Trong hoàn cảnh nghiệt ngã như thế, tôi cho rằng, Đảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chèo chống như vậy, giữ cho không bị sụp đổ, tuy có gian nan vất vả nhưng vẫn trụ vững, dần ổn định và tìm cách đi lên là một kỳ tích đáng tự hào.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), Báo cáo chính trị do anh trình bày đã nghiêm khắc phê bình hai loại nhận thức: Một là “chủ quan nóng vội”, đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất… đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Hai là “bảo thủ, trì trệ”, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, nên đã kìm hãm sản xuất.
Đại hội đã quyết định “Đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ… Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa coi trọng giá trị và quy luật giá trị”. Như vậy, ngay từ Đại hội V, Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Hay nói một cách khác là “tư duy về đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước” đã xuất hiện từ trước thềm Đại hội V.
Trao đổi với mọi người, anh Lê Duẩn vẫn thường nói một mệnh đề mà anh hằng tâm đắc: “Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý”.
Lịch sử về đổi mới nông nghiệp đã minh chứng: Bắt đầu từ tư duy “Khoán hộ” của anh Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; 15 năm sau thì xuất hiện “Khoán chui”, “Khoán sản” của Bí thư Hải Phòng Đoàn Duy Thành đã làm cơ sở cho “Chỉ thị 100” của Ban Bí thư tháng 1-1981 và Nghị quyết “Khoán 10” (tháng 4/1988) của Bộ Chính trị khóa VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất bung ra, lương thực bung ra.
Nếu như trước đó, khi anh Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn, nhiều người hoài nghi, thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản về lương thực, bảo đảm an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu – một sự kiện “như mơ giữa ban ngày”.
Bởi vậy, tôi cho rằng, chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng. Nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI thì mới có đổi mới, mà ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần ra, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt (nhận thức, tư tưởng, kinh tế-xã hội…) đã chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
“Nhân dân sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!”
Trước khi Bác Hồ qua đời, Bộ Chính trị đã có quyết định nhờ Liên Xô giữ thi thể của Bác cho con cháu hôm nay và mai sau được mãi mãi trông thấy Bác. Liên Xô đồng ý nhưng yêu cầu đưa thi hài của Bác sang Mat-xcơ-va… Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp Bộ Chính trị, anh Lê Duẩn đến nhà khách của Chính phủ, nơi nghỉ của đồng chí Côxưgin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô sang dự Lễ tang của Bác.
Anh Duẩn nói: “Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc Việt Nam là thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào miền Nam, họ hy sinh chiến đấu để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho toại nguyện. Bác cũng rất muốn vào Nam gặp đồng bào Miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép. Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào Miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan của Bác sau ngày chiến thắng.
Chúng tôi biết, ngoài Liên Xô ra, không nước nào có kỹ thuật gìn giữ thi thể. Nếu Liên Xô nói phải đưa thi thể Bác sang Liên Xô mới giữ được thì chúng tôi đành phải chôn Bác, bởi vì nếu chúng tôi đưa Bác sang thì nhân dân chúng tôi sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!- Và khi quyết định chôn Bác, chúng tôi sẽ nói với đồng bào chúng tôi: Chỉ có Liên Xô mới có kỹ thuật giữ thi thể của Bác, nhưng vì Liên Xô không chịu làm, nên Bộ Chính trị đau lòng gạt nước mắt để chôn Bác”.
Nghe anh Duẩn nói xong, Côxưgin liền nói: “Thôi thôi, tôi sẽ gọi chuyên gia của chúng tôi đến ngay và ra lệnh cho họ phải giữ thi hài Bác Hồ ngay tại Việt Nam. Nếu thiếu phương tiện gì, tôi sẽ điện về Mat-xcơ-va đưa sang ngay bằng chuyên cơ”.
Sau đó, thi hài của Bác đã được chuyên gia Liên Xô giữ lại ngay tại Việt Nam; và vì thế ngày nay nhân dân ta mới có cơ hội hàng ngày vào Lăng viếng Bác.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/9/1969). Ảnh tư liệu/ Hochiminh.vn
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã rất tin tưởng, sáng suốt khi giao cho anh trọng trách: Trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam kháng chiến chống thực dân Pháp; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong suốt chiến tranh chống Mỹ và Tổng Bí thư của Đảng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bằng tư duy sáng tạo và phẩm chất lớn lao, anh đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả đó; anh đã thật sự xứng đáng với sự ủy thác to lớn đó. Tự giác tôi luyện mình trong đấu tranh cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam.
Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về anh, một người anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn!.
Tháng 7 năm 2016
Đại tướng Lê Đức Anh, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Đại tá Khuất Biên Hòa(chắp bút)
Hình: Từ trái qua phải: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Trường Chinh, Tổng bí thư Lê Duẩn. Ảnh tư liệu.
—————
1-    Hội nghị Trung ương (Khóa II) lần thứ 15 phải họp thành 2 đợt trong 7 tháng. Đợt 1 từ ngày 12 đến 22-1-1959; Đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959. Văn bản Cục Lưu trữ Ban Chấp hành Trung ương số 83-TB/TW ngày 24-7-1997: “Thông báo về các kết luận Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII”: “Nghị quyết 15 của Trung ương Khóa II là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị Khóa II, xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên của Hồ Chủ tịch từ tháng 7 năm 1954 khi hòa bình vừa mới lập lại trên một nửa đất nước, có sự chỉ đạo công phu của đồng chí Lê Duẩn, Quyền Tổng Bí thư lúc bấy giờ, cùng một số đồng chí trong Bộ Chính trị và trong Trung ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí ở miền Nam nước ta lúc đó”.
Nguồn: Tuần Việt Nam
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/09/dai-tuong-le-duc-anh-viet-ve-nguoi-anh-le-duan/

Saturday 14 October 2017

TỪ “HÀN MẶC” ĐẾN “HÀN MẠC” (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công Thư Phòng)

http://tuancongthuphong.blogspot.com.au/2017/08/tu-han-mac-en-han-mac.html

12 thg 8, 2017

TỪ “HÀN MẶC” ĐẾN “HÀN MẠC”

         
Bút làm bằng lông cánh chim
Đồ hoạ" ST
         HOÀNG TUẤN CÔNG
     
       Năm 2014, Nhà xuất bản Văn học tái bản “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân - một cuốn sách có nhiều sai sót, số lượng tái bản tới 4.000 cuốn. Bất bình với chuyện này, chúng tôi (bút danh Hoàng Tuấn Công) có bài “Vài lời nhân từ điển của GS. Nguyễn Lân được NXB Văn học tái bản” đăng trên Blog Tuấn Công Thư Phòng (2/12/2014). Trong đó, chúng tôi đưa ra một đoạn giả tưởng (về suy nghĩ của soạn giả từ điển) như sau (xin trích):


 “…chữ thần () trong Bắc thần nghĩa là trăng sao, tôi lại nghĩ đó là chữ thần () trong tinh thần; chữ hàn () trong “hàn mặc” có nghĩa là cái bút, tôi lại ngỡ đó là chữ hàn () nghĩa là nghèo túng, cùng quẫn (trong “hàn sĩ”…)”.

          Nhân cuốn sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu” (Hoàng Tuấn Công - NXB Hội Nhà văn, 2017) ra đời, chị Thuý Hằng Nghiêm (một độc giả trên FB) đã chia sẻ bài “Vài lời nhân từ điển của GS. Nguyễn Lân được NXB Văn học tái bản” (đã dẫn trên đây), kèm những dòng tâm tư, gửi tới chúng tôi (Hoàng Tuấn Công), xin trích:

“…mình không thể không chau mày suy nghĩ khi đọc một số chi tiết trong bài viết của bạn. Cũng với tinh thần phản biện khoa học nghiêm túc, xung quanh chữ hàn mạc hay hàn mặc, cụ Nguyễn Lân có thật là đã sai, không đọc được mặt chữ Hán như nội dung bạn viết trong bài "Vài lời nhân từ điển của Nguyễn Lân nhân được NXB Văn học tái bản" trong blog Tuấn Công thư phòng hay chính bạn có thể đã mắc phải sai lầm chưa khảo cứu kỹ tư liệu gốc và đã trách lầm cụ Nguyễn Lân. Bạn kiểm tra lại rồi nếu có thời gian thì phản hồi lại giúp nhé. Mình chưa có cuốn sách trong tay nên cảm thấy cũng chưa nên nói thêm gì”.

Chị Thuý Hằng Nghiêm cũng đăng kèm bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử” (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education (SEACAEF) 2009), trong đó, tác giả bài viết bàn về mấy chữ “Hàn Mạc Tử”, hay “Hàn Mặc Tử”.

Thật khó cho chúng tôi, bởi chị Thuý Hằng Nghiêm đề cao “tư liệu gốc”, "tinh thần phản biện khoa học nghiêm túc", nhưng lại chưa hề xem trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, GS Nguyễn Lân viết “hàn mặc”, hay “hàn mạc”; cũng chưa đọc trong sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu” chúng tôi viết ra sao. Tuy nhiên, xét thấy vấn đề khá thú vị, xung quanh hai chữ “hàn mặc”, hay “hàn mạc,” chúng tôi đã xin phép chị Thuý Hằng Nghiêm, sẽ trả lời trên mục “Tiếng Việt tinh tuý” của báo Người Lao Động, mục đích để đông đảo độc giả cùng tham khảo.

Trong sách “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân – NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh – 2006), mục “hàn mặc”, GS Nguyễn Lân giải thích như sau:

hàn mặc • dt. (H. hàn: lạnh, nghèo khổ, mặc: mực.- Nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ) <> Quen nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục”.
Mục "hàn mặc" trong "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn Lân
Ảnh: HTC

Chúng tôi cho rằng, mục từ “hàn mặc”, GS Nguyễn Lân đã giải nghĩa yếu tố Hán Việt sai. Nghĩa là chữ “hàn” trong “hàn mặc”, là cái bút, chứ không phải “lạnh, nghèo khổ”. Bởi vậy trong sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi đã viết như sau:

“Ở đây, GS Nguyễn Lân lầm giữa hai chữ “hàn”. Chữ hàn trong “hàn mặc”, tự hình là có nhiều nghĩa; một nghĩa là lông cánh chim (cấu tạo chữ có bộ vũ , chỉ nghĩa lông chim). Vì ngày xưa dùng lông cánh chim làm bút viết chữ, nên “hàn” còn có là nghĩa cái bút. “Hàn mặc” 翰墨 là bút và mực, nên nghĩa bóng mới được hiểu là văn chương (như chính GS Nguyễn Lân đã giảng). Còn chữ hàn với nghĩa lạnh, nghèo khổ, tự hình là , (có bộ băng [] chỉ nước đóng băng; lạnh; run sợ...,) không liên quan gì đến cấu tạo từ “hàn mặc” (bút và mực, chỉ văn chương). Nếu GS Nguyễn Lân dùng hàn , nghĩa là “lạnh”; “nghèo khổ” trong cấu tạo từ “hàn mặc” “寒墨” thì nghĩa của nó phải hiểu là “mực lạnh”, hoặc “bút mực nghèo khổ”(!), sao có thể giảng là “văn chương”?”(*)

Bút giả cổ làm bằng lông chim
Ảnh: ST

Như vậy, không có chuyện “chính bạn (tức chúng tôi – HTC) có thể đã mắc phải sai lầm chưa khảo cứu kỹ tư liệu gốc và đã trách lầm cụ Nguyễn Lân” như chị Thuý Hằng Nghiêm nghi ngờ. Bởi trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, chính GS Nguyễn Lân đã viết là “hàn mặc”, chứ không phải “hàn mạc”. Hơn nữa, ở mục từ này, chúng tôi bàn đến chuyện “hàn”, trong “hàn mặc” (là “hàn” [bút], hay “hàn” [lạnh]), chứ không tranh luận “hàn mặc” hay “ hàn mạc”.

Mặt khác, phải khẳng định rằng, nếu “hàn mặc” (bút và mực) với nghĩa bóng là “văn chương”, thì chỉ có “hàn mặc” 翰墨, chứ không thể là “hàn mạc” 寒幕 (“rèm lạnh”) trong (một thuyết về bút danh) Hàn Mạc Tử. Bởi vậy nếu đem kết quả cuộc tranh luận “Hàn Mặc”, hay “Hàn Mạc” trong bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử”, để làm khuôn thước cho từ “hàn mặc” 翰墨 (nghĩa [cụ thể] là: “Bút mực, chỉ về việc văn-chương” - Việt Nam tự điển, Hội khai trí tiến đức), như ý của chị Thuý Hằng Nghiêm, là không thể. Vì một đằng là nghĩa từ vựng trong tiếng Việt, một đàng là bút danh (có khi có nghĩa, có khi không có nghĩa, được đặt theo ý chủ quan cá nhân; cách viết chính xác, hay ý nghĩa của bút danh ấy là gì, cũng chỉ có thể khẳng định một cách chắc chắn, khi do chính tác giả viết ra, hoặc giải thích ý nghĩa của nó).
Một đoạn trong bài viết của chị Nghiêm Thuý Hằng gửi đến chúng tôi.
Ảnh: HTC

Bởi vậy, chúng tôi không có ý kiến gì về bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử”, mà chị Thuý Hằng Nghiêm gắn với câu chuyện chữ nghĩa trên Blog Tuấn Công Thư Phòng, vì cho rằng, nó không liên quan, hay tác động gì đến hai chữ “hàn mặc” 翰墨 , hay “hàn mặc” 寒墨, mà chúng tôi đang xét (trong từ điển của GS Nguyễn Lân). Nghĩa là nếu rồi đây, người ta tìm thấy bút tích của Hàn Mặc Tử, trong đó, chính tay ông viết bút danh mình là “Hàn Mạc Tử” (chứ không phải “Hàn Mặc Tử”), thì trong tiếng Việt, người ta vẫn viết là “hàn mặc” 翰墨, với nghĩa là văn chương, chứ không ai đổi thành “hàn mạc” cho đúng với bút danh của nhà thơ.

Cuối cùng, chúng tôi khẳng định ở mục từ “hàn mặc” GS Nguyễn Lân đã giải nghĩa yếu tố Hán Việt sai: “hàn” , trong “hàn mặc” 翰墨, có nghĩa đen là cái bút, chứ không phải là “hàn” , với nghĩa là “lạnh, nghèo khổ”.

                                               HTC/8/2017

Chú thích:

(*) “Hán điển” giảng hai chữ “hàn mặc” như sau: “hàn mặc • hàn: lông chim làm bút. Hàn mặc chỉ bút và mực, tỉ dụ văn chương, thư pháp (nguyên văn: 翰墨 hàn mò ,製筆的鳥毛.翰墨指筆墨.文章,書法)

http://tuancongthuphong.blogspot.com.au/2017/08/tu-han-mac-en-han-mac.html