Wednesday 18 April 2018

70 người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học trong nước lên tiếng về vụ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội không công nhận luận văn và thu hồi bằng thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan (tức nhà văn Nhã Thuyên) (Diễn Đàn)




Phản đối và yêu cầu



Những người muốn tham gia ký tên vào Bản phản đối và yêu cầu dưới đây, nhằm bày tỏ thái độ trước quyết định vô lý và vi phạm các quy định hiện hành của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong việc hủy bằng và phủ quyết luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan, nhằm bày tỏ tinh thần tương ái đối với đồng nghiệp bị đối xử bất công, và nhằm bảo vệ tương lai nghề nghiệp của chính mình, đồng thời thể hiện trách nhiệm, danh dự và tư cách của cộng đồng giáo dục và nghiên cứu Việt Nam, xin gửi thư điện tử về địa chỉ :

Do đặc thù của vụ việc và nội dung của Bản phản đối và yêu cầunên xin phép chỉ chấp nhận chữ ký của những người đảm bảo các điều kiện sau:

- Đã và đang làm việc trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu, tại Việt Nam.
- Ghi đầy đủ các thông tin : Họ tên, học hàm học vị (nếu có), lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu, Bộ môn/ Khoa (đối với các trường Phổ thông và Đại học), Phòng/Ban (đối với các Viện nghiên cứu), cơ quan công tác, địa chỉ nơi ở.
(Riêng thông tin về cơ quan công tác, sẽ không công bố nếu người ký tên nêu yêu cầu này trong thư. Nơi ở sẽ chỉ công bố tên của tỉnh/thành phố, không công bố địa chỉ cụ thể.)
- Nhận chữ ký đến 12h ngày 25/4/2014.

Bản phản đối và yêu cầu cùng tất cả các chữ ký thu thập được sẽ được gửi tới Ông Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào ngày 26/4/2014.
Những người ký tên ở văn bản dưới đây xin chân thành cảm ơn quý đồng nghiệp sẽ tham gia đồng hành cùng chúng tôi.


BẢN PHẢN ĐỐI VÀ YÊU CẦU


Kính gửi : PGS. TS. Nguyễn Văn Minh,
Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Chúng tôi, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, gửi đến Ông văn bản này để bày tỏ những điều sau đây :

1. Chúng tôi phản đối và yêu cầu Ông hủy Quyết định số 667/QĐ-ĐHSPHN ngày 11 tháng Ba năm 2014 và Quyết định số 708/QĐ-ĐHSPHN ngày 14 tháng Ba năm 2014, do trường Đại học Sư phạm Hà Nội ban hành, về việc không công nhận luận văn và thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan, bởi hai văn bản này là phi pháp và phi lý, vì các lý do :

1.1. Theo Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 28 tháng Hai năm 2011, không có cơ sở pháp lý cho việc được gọi là “thẩm định” đối với bất cứ luận văn thạc sĩ nào.
Quy chế này chỉ quy định thẩm quyền về việc thẩm định kết quả tuyển sinh (Điều 19), chứ không quy định thẩm quyền về việc thẩm định kết quả chấm luận văn hay thẩm định hội đồng chấm luận văn. Điều 26 của Quy chế đã bao hàm toàn bộ quy trình đánh giá một luận văn, trong đó có các vấn đề về thành lập hội đồng đánh giá luận văn, nhóm họp hội đồng, và tiêu chí về kết quả của luận văn, mà hoàn toàn không có khoản nào cho phép lập hội đồng thẩm định để đánh giá lại một luận văn đã có kết quả đánh giá.

1.2. Việc đơn phương ban hành hai quyết định trên mà không đưa ra các văn bản làm chứng lý theo quy trình chuyên môn phải có (quyết định thành lập Hội đồng thẩm định, quyết định họp Hội đồng, bản đánh giá của từng thành viên Hội đồng, biên bản họp Hội đồng…), cũng như việc Hội đồng này không họp công khai, là vi phạm hết sức nghiêm trọng Khoản 1 Điều 26 của Quy chế nói trên.

1.3. Khoản 1 Điều 22 Quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân ban hành kèm theo QĐ số: 33/2007/QĐ-BGDĐT, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 26 tháng Sáu năm.2007 đã quy định cụ thể năm trường hợp bị thu hồi hay huỷ bỏ văn bằng: a) Có hành vi gian lận trong học tập, trong thi cử, tuyển sinh hoặc gian lận trong việc làm hồ sơ cấp văn bằng, chứng chỉ ; b) Cấp cho người không đủ điều kiện ; c) Do người không có thẩm quyền cấp ; d) Bị tẩy xóa, sửa chữa ; đ) Để cho người khác sử dụng.

Đỗ Thị Thoan không thuộc trường hợp nào trên đây, do đó thu hồi văn bằng của Bà là trái với Quy chế này.

2. Chúng tôi yêu cầu Ông minh bạch hóa toàn bộ quá trình đi đến hai quyết định nêu trên của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trên tinh thần tuân thủ các quy định có hiệu lực pháp lý.

3. Trên cơ sở pháp lý vừa nêu, trên chuẩn mực và thông lệ học thuật, việc thẩm định Luận văn Vị trí của kẻ bên lề : thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa đã xâm phạm thẩm quyền và quyền lợi của Hội đồng Đánh giá luận văn, của Người Hướng dẫn và Tác giả luận văn, bởi họ không hề được biết và không hề được tham gia vào quá trình thẩm định.

Chúng tôi yêu cầu Ông tôn trọng thẩm quyền khoa học và danh dự khoa học của Hội đồng Đánh giá luận văn, của Người Hướng dẫn luận văn và Tác giả luận văn khi có bất kỳ hành động hay quyết định nào liên quan đến Luận văn. Họ phải được tham gia vào mọi hoạt động và quyết định liên quan đến Luận văn, đúng như các quyền mà họ được hưởng theo quy định.
Chúng tôi mong nhận phản hồi từ Ông.
Trân trọng,

Những người ký tên
  1. Bùi Thanh Truyền, TS Văn học Việt Nam, Giảng viên Khoa Ngữ Văn, ĐH Sư Phạm TPHCM, HCM
  2. Bùi Trân Phượng, TS Lịch Sử, Giảng viên Đại học, TP HCM.
  3. Châu Minh Hùng, TS Lý luận văn học, Đại học Quy Nhơn, Tp Quy Nhơn, Bình Định
  4. Chu Hảo, TS Vật lý, Phó Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh, Hà Nội.
  5. Chu Văn Sơn, TS Văn học, Giảng viên khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
  6. Đặng Thị Hảo, TS Ngữ văn, Hà Nội
  7. Đào Tiến Thi, ThS Văn học, Nghiên cứu Văn học, Ngôn ngữ, Giáo dục; Uỷ viên BCH Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
  8. Đỗ Thị Hoàng Anh, ThS Ngữ Văn, Giáo viên THPT Chu Văn An, Hà Nội.
  9. Đỗ Hải Ninh, TS Văn học Việt Nam, Viện Văn học, Hà Nội.
  10. Đỗ Ngọc Thống, PGS, TS Văn học, Chuyên nghiên cứu lí luận và phương pháp dạy học Ngữ Văn, Hà Nội.
  11. Đỗ Xuân Khôi, TS, Giảng viên Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
  12. Đoàn Ánh Dương, ThS Văn học, Nghiên cứu viên Lý luận và văn học Việt Nam hiện đại, Viện văn học, Hà Nội.
  13. Hà Sĩ Phu, TS Sinh học, nguyên giảng viên đại học, Đà Lạt.
  14. Hà Thúc Huy, PGS, TS Hoá học, giảng viên đại học, TP Hồ Chí Minh.
  15. Hồ Thị Hoà, ThS Truyền thông, giảng viên đại học, TP Hồ Chí Minh.
  16. Hồ Tú Bảo, Giáo sư tin học, Viện John von Neumann, Đại học Quốc gia – TP HCM
  17. Hoàng Dũng, PGS, TS Văn học, Đại học Sư phạm TPHCM, TPHCM.
  18. Hoàng Hưng, Nghiên cứu thơ hiện đại VN và thế giới, TP HCM.
  19. Hoàng Phong Tuấn, Ths Văn học, Giảng viên Đại học Sư phạm TPHCM, TPHCM
  20. Hoàng Tố Mai, TS Văn học, Nghiên cứu viên Văn học nước ngoài, Hà Nội.
  21. Huỳnh Ngọc Chênh, cử nhân hoá học, cựu giáo viên trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng, TP HCM
  22. Lê Minh Hà, PGS, TS, Khoa Toán-Cơ-Tin học, Đại học khoa học tự nhiên, ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
  23. Lê Thanh Loan, Ths Ngữ Văn, Giáo viên THPT Chu Văn AN, Hà Nội
  24. Lê Thu Phương Quỳnh, Ths Văn hoá Văn học Châu ÂU, Room to Read Vietnam, TP HCM.
  25. Lê Tuấn Huy, TS triết học, TP HCM.
  26. Mai Thái Lĩnh, phụ giảng Ban triết học tại trường đại học Văn khoa, Viện Đại học Đà Lạt (1970-1971), Phó hiệu trưởng trường PTTH Thăng Long (Hà Nội, 75-88), Đà Lạt.
  27. Ngô Thị Ngọc Diệp, TS Văn học Việt Nam hiện đại, giảng viên trường Cao Đẳng Sư Phạm Gia Lai, Gia Lai
  28. Ngô Văn Giá, PGS TS Lý luận Văn học, Chủ nhiệm khoa Viết văn-Báo chí, Đại học Văn hoá Hà Nội, Hà Nội.
  29. Nguyên Ngọc, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh, Hà Nội.
  30. Nguyễn Đăng Hưng, GS TS KH, Cố vấn học thuật Đại học Việt Đức, TP HCM.
  31. Nguyễn Đăng Quang, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Lý luận Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương từ 1991 đến 1996, Hà Nội.
  32. Nguyễn Đình Cống, GS TS, Đại học Xây dựng, Hà Nội
  33. Nguyễn Đông Yên, GS, TS KH, nghiên cứu và giảng dạy toán học, Hà Nội.
  34. Nguyễn Đức Hiệp, cựu giáo viên vật lý trung học phổ thông, đã nghỉ hưu, TP HCM
  35. Nguyễn Hoài Anh, Ths Ngữ Văn, giáo viên THPT Chu Văn An, Hà Nội.
  36. Nguyễn Hoàng Ánh, PGS.TS, giảng viên trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
  37. Nguyễn Hoàng Diệu Thuỷ, Ths Văn học, cựu sinh viên khoa Ngữ Văn, ĐH SP Hà Nội, Hà Nội.
  38. Nguyễn Huệ Chi, GS Văn học, Nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Văn học, Hà Nội.
  39. Nguyễn Hữu Việt Hưng, GS, TS KH, Khoa Toán, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
  40. Nguyễn Mạnh Tiến, Ths Văn học, Dân tộc học, Nghiên cứu văn học, dân tộc học, Hà Nội.
  41. Nguyễn Nam Hải, ThS Công nghệ thông tin, nguyên giảng viên ĐH Công nghệ, ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
  42. Nguyễn Phương Chi, nguyên Phó phòng TC Nghiên cứu Văn học, Viện văn học, Hà Nội.
  43. Nguyễn Quang A, TSKH, nguyên GS Đại học Kĩ thuật Budapest, nguyên Trưởng khoa CNTT, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
  44. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, phó chủ tịch Hội Cơ học Thuỷ khí Việt Nam, Đà Nẵng
  45. Nguyễn Thị Bình, PGS, TS Văn học, nguyên trưởng bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, khoa Ngữ Văn, ĐH Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội.
  46. Nguyễn Thị Hương Thuỷ, Ths Ngữ Văn, Giáo viên THPT Chu Văn An, Hà Nội.
  47. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn hoá, TPHCM.
  48. Nguyễn Thị Từ Huy, TS Văn học, cựu giảng viên khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, TP HCM.
  49. Nguyễn Văn Long, PGS, Nhà giáo nhân dân, Nguyên chủ nhiệm Bộ môn VH Việt Nam hiện đại, Khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
  50. Nguyễn Xuân Diện, TS Ngữ văn, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
  51. Phạm Toàn, nghiên cứu giáo dục, sáng lập viên nhóm Cánh Buồm, Hà Nội.
  52. Phạm Minh Gia, TS Kinh tế, Hà Nội.
  53. Phạm Quốc Lộc, TS Văn học So sánh, Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá, ĐH Hoa sen, TP HCM
  54. Phạm Thị Ly, TS Ngữ văn, Viện đào tạo quốc tế, ĐHQG TP HCM, TP HCM
  55. Phạm Thị Phương, PGS TS Ngữ văn, khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM
  56. Phạm Xuân Nguyên, Trưởng phòng Nghiên cứu Văn học So sánh, Viện Văn học, Hà Nội.
  57. Phan Hồng Hạnh, ThS Ngữ Văn, Giáo viên THPT Chu Văn An, Hà Nội.
  58. Phan Thị Hà Dương, PGS TS Toán học, Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội.
  59. Phan Thị Hoàng Oanh, TS Hoá học, Giảng viên Đại học, TP HCM, TP HCM.
  60. Phùng Hoài Ngọc, ThS Văn học, Nguyên giảng viên Đại học An Giang, An Giang.
  61. Trần Đình Sử, GS TS Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
  62. Trần Đức Anh Sơn, TS Lịch Sử, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển KT XH Đà Nẵng, Tổng biên tập Tạp chí Phát triển kinh tế -xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.
  63. Trần Hữu Tá, GS Văn học, Tp HCM.
  64. Trần Ngọc Vương, GS TS Văn học, Hà Nội.
  65. Trần Ngọc Hiếu, TS Văn học, Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
  66. Trần Quang Đức, Nghiên cứu văn học, lịch sử, Phòng Văn học So Sánh, Viện Văn học, Hà Nội.
  67. Trịnh Thu Tuyết, TS Văn học, Chuyên ngành văn học Hiện đại, Hà Nội.
  68. Tương Lai, Gs Văn học, Nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP HCM.
  69. Vũ Thế Khôi, TS, Nguyên Trưởng khoa tiếng Nga, ĐH Ngoại Ngữ Hà Nội, Hà Nội.
  70. Vũ Thị Phương Anh, TS Giáo dục, Nguyên giám đốc Trung tâm khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo ĐHQG TPHCM, TP HCM.

Monday 16 April 2018

CHỮ NÔM VỚI NGỮ ÂM ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ - Nguyễn Thị Lâm - Tạp Chí Hán Nôm số 2/1993


TB

Có một hiện tượng mà những người làm công tác nghiên cứu các văn bản Nôm địa phương không thể không xét đến. Đó là sự phản ánh ngữ âm của từng vùng vào chữ viết, tuy nhiên mỗi vùng lại có những sắc thái riêng. Điều này được quy định bởi nhiều nguyên nhân như điều kiện lịch sử, địa lý, sự giao lưu văn hóa… kết quả là tạo nên một số nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân. Gần đây, trong khi tiếp xúc với một số tác phẩm Nôm xuất xứ ở Nam Bộ(1) chúng tôi thấy có những đặc điểm cần lưu ý như sau:
1. Về âm đầu:
Âm đầu hay thanh mẫu là một thành tố kết hợp với âm đệm, vần và thanh điệu để tạo thành từ, đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Nếu so sánh với hệ thống phụ âm đầu ở Bắc Bộ và Trung Bộ thì Nam Bộ không có âm /v/ mà âm /v/ được thay thế bằng /z/, (chính tả ghi các phụ âm này là d và gi). Chúng ta cũng có thể thấy rõ điều này qua chữ Nôm, chẳng hạn dùng chữ “dã” 也 ghi “vả”, dùng “giới” 界 ghi “vái”:
“Vả” chăng đường còn xa, sao ông không đi mà ông ngồi xuống đó a ông Địa ?”

Vái phật trời chứng Địa người ngay” v.v…
(Địa Nàng(2), tr.6b và tr.10b)
Như vậy ở đây không còn sự phân biệt giữa ba phụ âm v, gi, d. Ngay cả ở những tác giả lớn như Nguyễn Đình Chiểu cũng có hiện tượng như vậy, chẳng hạn dùng chữ “dòng” 匇(Nôm, yếu tố Hán Việt biểu âm: dụng) để ghi âm “vòng”:

“Bĩ bàn trà rượu vừa xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ”
(Lục Vân Tiên, tr.13a).
Những chữ Nôm thuộc loại này có khoảng 2%. Ngoài ra, việc dùng chữ “giả” 者 ghi “trả”, dùng “dầu” 油 ghi “giàu” lại thể hiện dấu vết của cách phát âm không phân biệt tr và gi hoặc giữa gi với d:

“Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền”.
“Mệnh Kim lại ở cung Càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trên đời”
(Lục Vân Tiên, tr.20a và 23a).
Một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cũng đã viết:
“Phương ngữ nam Trung Bộ - Nam Bộ phản ánh sự tranh chấp giữa hai biến thể tr và gi”(3). Tình hình này có phần như ở Bắc Bộ, chẳng hạn có thể dùng song song cả hai cách phát âm: trầu - giầu, trăng - giăng, trời - giời… Hai phụ âm d và gi cũng hầu như nhập làm một /z/ cho nên trong chính tả có người viết “déo dắt” có người lại viết “giéo giắt”… Theo điều tra ngôn ngữ học thì hiện nay chỉ có một vài địa phương lẻ tẻ phía bắc Bình Trị Thiên là còn phát âm phân biệt d, gi mà thôi(4).
2. Về âm cuối.
Âm cuối kết hợp với yếu tố đứng trước nó là nguyên âm để tạo thành vần. Một đặc điểm nổi bật của ngữ âm địa phương Nam Bộ là hầu như toàn bộ những vần có phụ âm cuối [-n,-t] đều biến thành [-ng,-k]. Hiện tượng này khá phổ biến trong chữ Nôm:
-n thành -ng: chẳng hạn dùng chữ “thang” 湯 để ghi âm “than”, dùng “dạng” 樣 ghi “dạn”:
“Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần”
(Lục Vân Tiên, tr.14a).
“Hổ bì mặt dày mày dạn, tiếc thay mình ngọc vóc ngà” v.v.
(Kim Thạch kỳ duyên, tr. 30b).
-t thành -k: chẳng hạn dùng “các” 各 ghi “cát”, dùng 得 “đắc” ghi “đắt”:
“Xuống sông có rắn mãng xà, doi cát trường sa đi về lục động”
(Địa Nàng, tr.6a).
“Kiệm rằng; nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt, mà ngồi chợ trưa” v.v…
(Lục Vân Tiên, tr.40a).
Bởi những chữ như “than” và “thang” đều thành “thang”, “đắt” và “đắc” đều thành “đăk” nên tần số xuất hiện của loại này cũng tăng lên gấp đôi, với tỉ lệ khoảng 6%. ở đây đã có sự biến đổi của cặp phụ âm đầu lưỡi thành phụ âm gốc lưỡi. Cách phát âm này bao trùm một vùng rộng lớn từ phía Bắc Thừa Thiên - Huế vào đến tận Minh Hải. Có ý kiến cho rằng sở dĩ có sự phát âm không phân biệt -n, -ng, -t, -k ở Nam Bộ là do ảnh hưởng của tiếng Triều Châu. Người Triều Châu chiếm một số lượng đáng kể trong số người Hoa di cư sang miền Nam nước ta và trong tiếng nói của họ cũng chỉ có hai cặp phụ âm cuối [-m, -p] và [-ng, -k] (5). Lý do này cũng có cơ sở bởi vì: “Chúng ta không thể phủ nhận những mối quan hệ họ hàng và ảnh hưởng qua lại, sự vay mượn lẫn nhau giữa tiếng nói của các dân tộc định cư và sống trong một vùng, trên một lục địa”(6). Trong thực tế, tiếng địa phương Nam Bộ ngoài việc giao lưu với tiếng Khơ me, tiếng Chàm là những ngôn ngữ bản địa, còn có sự tiếp xúc với tiếng Hán của những người Hoa di cư sang, nên không thể không có những mặt ảnh hưởng nhất định.
3. Về thanh điệu.
Trong tiếng Việt, thanh điệu là một đặc điểm chủ yếu giúp cho việc phân biệt tiếng nói giữa người vùng nọ với người vùng kia. Song mỗi vùng lại có một hệ thống thanh điệu riêng: Bắc Bộ nhìn chung có sáu thanh (không, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng). Hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc Trung Bộ phát âm không phân biệt thanh ngã với thanh nặng. Còn Thanh Hóa và các tỉnh từ Bình Trị Thiên trở vào Nam phát âm không phân biệt thanh hỏi với thanh ngã. Người đọc cũng dễ nhận ra điều này khi tiếp xúc với các tác phẩm Nôm Nam Bộ, như dùng chữ 解 “giải” ghi “dãi”, dùng 保 “bảo” ghi “bão”
“Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên”
(Lục Vân Tiên, tr.3b)
Bão tháng chín tháng mười, chớ bão đâu tháng hai tháng ba mà bão” v.v…
(Địa Nàng, tr.1a).
Loại này có khoảng 1,5%.
Khi gặp những chữ Nôm thuộc các trường hợp trên đây, nếu người đọc không chú ý đến xuất xứ của tác phẩm, thì cũng dễ cho là tác giả viết cẩu thả hoặc khắc in sai. Những chữ như “đắt” được ghi bằng “đắc”, “với” được ghi bằng “giới” hoặc “vả” được ghi bằng “dã”… thực khó có thể tìm thấy ở trong bất kỳ một cuốn tự điển, từ điển chữ Nôm nào. Nhưng đích thực đó là sự phản ánh của ngữ âm địa phương vào chữ viết. Hiện trạng này lại có thể nảy sinh ra nhiều cách viết khác nhau. Thậm chí có những chữ người vùng này sáng tạo ra thì người vùng kia không hiểu được. Nhưng xét từ các đặc điểm của ngữ âm địa phương thì không thể cho đó là những chữ viết sai. Bởi vậy, chúng ta cần có những tri thức nhất định về phương ngữ học thì mới có thể đọc và lý giải được những ví dụ tương tự như chúng tôi vừa nêu.
Nhưng như vậy không có nghĩa là bất kỳ một đặc điểm nào của ngữ âm địa phương cũng ghi nhận ở trong chữ Nôm. Chúng ta biết rằng cặp phụ âm cuối [-nh, -ch] thường đứng sau các nguyên âm ngắn (i, ê). Nhưng trong cách phát âm của người Nam Bộ không có hai phụ âm cuối đó, chúng chuyển thành [-n, -t], nghĩa là ở đây có sự biến đổi của cặp phụ âm mặt lưỡi thành phụ âm đầu lưỡi. Song dù có phát âm “anh, ách” thành “ăn, ắt”, “khanh, khách” thành “khăn, khắt” thì chữ Nôm vẫn cứ ghi là 英 厄 , 卿 客 phải chăng đây là một thứ chữ đã được sử dụng rộng rãi trong phạm vi cả nước. Và các nhà thơ, nhà văn của ta ngay từ thời trước cũng đã có ý thức viết thế nào cho toàn dân dễ hiểu. Dù họ là người trong Nam hay ngoài Bắc, cái ngôn ngữ mà họ sử dụng trên đại thể vẫn là dựa trên nền tảng của ngôn ngữ toàn dân. Nguyễn Du là người Nghệ Tĩnh, vậy mà trong Truyện Kiều bất hủ của ông người ta chỉ đếm được có bảy từ địa phương mà thôi(7).
Trên đây mới chỉ là kết quả bước đầu. Muốn hiểu biết một cách đầy đủ, chúng ta cần cố gắng đi sâu vào nhiều tác giả, tác phẩm hơn nữa. Tuy nhiên, sự phản ánh của ngữ âm địa phương vào trong chữ Nôm vẫn là một vấn đề mang tính chất khách quan. Những cách phát âm đó không phải đã đi vào quá khứ mà vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Nếu biết nhìn nhận một cách đúng mức vấn đề này thì nhất định chúng ta sẽ tiến hành công tác phiên âm, chú thích văn bản một cách có hiệu quả hơn.
CHÚ THÍCH
1. Ví dụ: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu (Nguyễn Đình Chiểu); Kim Thạch kỳ duyên (Bùi Hữu Nghĩa), Địa Nàng (khuyết danh), Phan Lương Khê lịch sử tập (có Nôm, Diệp Bá Ngự sao chép) v.v.
2. Xem Huỳnh Ngọc Trảng: Địa Nàng (Nxb. Tp. HCM. 1992). Đây là một tiết mục diễn xướng dân gian Nam Bộ có kết hợp với nghệ thuật tuồng. Những dẫn chứng trong tác phẩm này chúng tôi ghi theo bản phiên âm của Cao Tự Thanh (Sđd).
3. Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước Nxb. KHXH, 1989, tr.71.
4. Nguyễn Tri Niên - Nguyễn Phan Cảnh: Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt d và gi hiện nay - Nghiên cứu Văn học 8-1961.
5. Hoàng Thị Châu, Sđd, tr.227.
6. Nguyễn Khánh Toàn: Về lịch sử tiếng Việt - Ngôn ngữ số 4 - 1978.
7. Hoàng Dũng - Nguyễn Tiến Mậu - Đinh Văn Thiện: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngôn ngữ số 4-1982./.

Saturday 14 April 2018

CHỮ NÔM TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ HÁN DÙNG ĐỂ MÔ PHỎNG ÂM TRONG TIẾNG PHẠN (Ishii KIminari - Tạp Chí Hán Nôm số 6/2002)



TB

1. Lời mở đầu
Các nước xung quanh Trung Quốc một mặt rất tích cực học Hán văn quy phạm, mặt khác lại muốn thử dùng chữ Hán để ghi lại những từ vốn có của mình vốn khác hẳn với hệ thống âm chữ Hán. ở Triều Tiên nảy sinh Lidoku và cũng dùng cả dạng giản lược của nó. ở Nhật Bản Manyogana được sử dụng, phát triển dạng Hiragana và Katakana trên cơ sở yếu tố gốc là chữ Hán, rồi những chữ Quốc tự như Sakaki , Tsuji , Tooge cũng được tạo ra. ở Việt Nam - một nước cùng nằm trong vành đai văn hóa Hán - chữ Nôm cũng được tạo ra với mục đích là thử biểu đạt vốn từ vựng tiếng Việt bằng cách sử dụng chữ Hán. Về sự hình thành chữ Nôm có thuyết cho là vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV do việc Hàn Thuyên đời Trần Nhân Tông (1278 - 1293), Nguyễn Sĩ Cố thời Anh Tông (1293- 1314) dùng nhiều tiếng Việt để làm thơ phú. Thế nhưng bằng cứ trong sách Đại Việt sử ký chỉ ghi là:
“(Hàn ) Thuyên năng quốc ngữ phú thi. Ngã quốc phú thi, đa dụng quốc ngữ thực tự thử thủy” (Thiệu Phong nguyên niên [1282] thu bát nguyệt điều).
“Mệnh thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố giảng ngũ kinh. Sĩ Cố Đông Phương Sóc chi lưu, thiện khôi hài, năng tác quốc ngữ thi phú. Ngã quốc tác thi phú đa dụng quốc ngữ tự thử thủy” (Hưng Long thập tứ niên [1306] thu cửu nguyệt điều).
Tức là sách Đại Việt sử ký ghi bắt đầu từ Hàn Thuyên thơ phú quốc âm được làm ra nhiều, nhưng ở chỗ khác lại ghi bắt đầu từ thời Nguyễn Sĩ Cố. Chúng ta cũng biết có các ghi chép cho rằng thời Nguyễn Sĩ Cố đã có nhiều người dùng Quốc ngữ để làm thơ rồi như:
“Triều dã văn nhân đa tá Hán Hoàng dĩ Chiêu Quân giá hung nô sự, tác quốc ngữ thi từ phong thích chi” (Hưng Long thập tứ niên [1306] hạ lục nguyệt điều)
Nói rằng thơ Quốc âm bắt đầu từ Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố tôi cho rằng là do tác phẩm của hai ông rất nổi tiếng và có sức ảnh hưởng lớn. Cho dù có thừa nhận cùng với việc xác lập thể thơ phú của dân tộc, cách ghi âm tiếng Việt dựa vào chữ Hán đã hoàn chỉnh trên đại thể vào khoảng cuối thế kỷ XIII cho đến đầu thế kỷ XIV, thì việc làm văn thơ dùng chữ Hán ghi âm tiếng Việt có từ cuối thế kỷ XIII trở về trước cũng là điều tự nhiên. Theo trường hợp Nhật Bản thì có thể suy đoán rằng trước khi các bài thơ như vậy được làm ra cách ghi tên người tên đất bằng chữ Hán, phương thức ghi tiếng Việt căn cứ vào chữ Hán ở mức độ nào đấy là đã phát triển rồi. Không có tư liệu về nguồn gốc của bản thân chữ Nôm thì phải chăng nên cho rằng chữ Nôm đã có một quá trình phát triển lâu dài. Lại như thời Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố dùng cách ghi như thế nào? Chữ Hán của Việt Nam đã được tạo ra hay chưa? Thời nhà Trần trở về trước là như thế nào ? Rất đáng tiếc là tư liệu không đủ nên chúng ta không thể biết rõ được. Điều đó cũng có nghĩa là về quá trình hình thành chữ Nôm chỉ toàn là những điểm không rõ ràng.
Cho nên tôi cũng lưu ý rằng ở chữ Nôm có rất nhiều chữ Hán dùng trong các tác phẩm dịch kinh điển Phật giáo để mô phỏng âm Phạn và rồi những chữ có hình thức giống với chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn như vậy liên tiếp được tạo ra; đồng thời cũng muốn chỉ rõ rằng những người có kiến thức về âm Phạn thông qua việc chú giải âm nghĩa trong các kinh điển Phật giáo có khả năng có liên quan đến việc hình thành và hoàn chỉnh của chữ Nôm. Trong số những người đó có các tăng lữ hay không là điều không thể đoán được. Thế nhưng từ sau đời Hán, Việt Nam chịu sự thống trị của Trung Quốc trong một thời gian dài, văn hóa Trung Quốc thâm nhập khá sâu vậy mà số quan lại được học Nho học không nhiều. Như vậy phải chăng Hán tự, Hán văn chỉ thực sự phổ cập trong giới tăng lữ. Có thể thấy rõ do ảnh hưởng của Phật giáo Tùy Đường nhiều tăng lữ xuất hiện và rất giỏi thơ văn; hơn nữa không thể không nói đến bản thân ông Lý Thái Tổ (1010-1028) - người dựng nên nước Đại Việt - cũng là người xuất thân nơi cửa Phật, năm 1018 ông đã mang kinh Đại Tạng từ Trung Quốc về. Về âm chữ Hán của Việt Nam, ông Mine Yatooru suy đoán rằng “Hệ âm quy phạm đời Đường đã được truyền vào Việt Nam có lẽ với tư cách là cách đọc các tác phẩm kinh điển Phật giáo, hệ âm này được đồng hóa và cố định sao cho phù hợp với hệ thống âm vận của tiếng Việt”. Từ việc cho rằng bộ phận cơ bản của âm Hán Việt là âm thời Đường được truyền vào qua con đường Phật giáo cũng có thể nghĩ rằng có nhiều khả năng việc sử dụng chữ Hán thời kỳ đầu ở Việt Nam có liên quan rất chặt chẽ với Phật giáo.
2. Những nét tương đồng với chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn
Điều đáng lưu ý khi đọc các tác phẩm viết bằng chữ Nôm là chữ có bộ 口 (khẩu) khá nhiều. Ví dụ nếu đem so sánh bản Chinh phụ ngâm tác phẩm thơ chữ Hán kể về nỗi buồn của người phụ nữ có chồng đi chiến đấu xa mà Đặng Trần Côn (1710? – 1745?) làm ra với bản diễn âm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 – 1746) tức là bản dịch chữ Nôm Chinh phụ ngâm khúc theo thể song thất lục bát – thể thơ truyền thống của Việt Nam, thì thấy rõ những khác biệt của nó. Theo sách của Yonosuke Takeuchi khảo về hai tác phẩm, ông đã lấy những chữ Hán có bộ khẩu từ nguyên bản ra, thì ở Chinh phụ ngâm chỉ có 10 chữ tương ứng về(), nội dung, đó là:
喧(3), 鳴(2), 啼(2), 吹(2), 咿 喔 嘆(2), 咨(4), 嗟(5), 唱(4), (eo óc 咿 喔 là tiếng gà gáy nghe vọng lại từ khuê phòng lúc nửa đêm), với số lần xuất hiện là 26 lần.
Trong khi đó ở Chinh phụ ngâm khúc có tới 63 chữ với số lần xuất hiện lên tới 102 lần:
(3), 曢 (6) , (2) , 虝 , 唉 (2), 処 (3) , 唏 (5) , , (4), 唯 , 噲 , , 嘹 , 俌 (2), (2) , , , , 坙 , , , 坘 (3), , 凩, , 垬 (5) , , 哢, , , 喔, (6), , 噴, 口斗, 咏, 凩, 吶 (2), , 冨 (2), 唸, 咮 (2), (2), (2), 喑, 寕 , , 叫, 口衣 , , , 俧, 吿, , , , , (2), 吟 (2), 哦, 喂, 嘌, 凒, .
Lại còn thấy cả những chỗ dùng liên tiếp 4 chữ Hán có bộ khẩu ở bên như: “Khúc nhạc từ réo rắt khong khen”. 曲 樂 詞 冨 . Hơn nữa, trong số 63 chữ này chỉ có các chữ 嘹 叫 喔 令 là sử dụng với ý nghĩa vốn có của chữ Hán thôi. Chữ 吶 nói không chỉ dùng với nghĩa vốn có là “nói lắp” mà còn dùng với nghĩa là “nói”. Chữ 唯 dùng lặp lại là 唯 唯 (dòi dõi). Thế nhưng, bộ 隹 ở bên vì là dạng viết lược nét của 堆 cho nên nó khác với chữ Hán 唯. Tức là bộ khẩu trong hầu hết trường hợp kết hợp với chữ Hán biểu thị phát âm của tiếng Việt; chữ đó biểu thị các động tác có liên quan đến mồm hoặc nếu không thì trở thành phù hiệu dùng để ghi âm mà không có liên quan gì đến ý nghĩa của chữ Hán đó.
Việc bộ khẩu trong chữ Nôm với cách dùng như trên, đặc biệt là được dùng nhiều với mục đích ghi âm đã được Văn Hựu chỉ rõ từ rất sớm. Ông Văn Hựu đưa ra rằng khi dịch các sách kinh Phật, bộ 口 khẩu) bên có tiền lệ là được dùng với tư cách biểu trưng âm tiết như: dùng 囉 để biểu thị phát âm “ra”, dùng để biểu thị phát âm “tha” là những âm không có trong tiếng Trung Quốc. Ông còn giới thiệu báo cáo về Sekitooki thời Cao Ly của ông Zenma Kyosaku như chữ dùng để mô phỏng âm Mek và cho rằng từ sau sách Ryoushi, phương pháp này được dùng nhiều để ghi âm Ural Altail . Ông đưa ra ví dụ từ sau thời Minh Thanh, chữ ghi âm 英 吉 利 (igirisu) 荷 蓮 (oranda) được viết 英 咭 埅, 呵 蓮 ; nó biểu thị các chữ đó khác với ý nghĩa vốn có của 英, 荷, rồi đưa ra kết luận chữ Nôm không thuộc nhóm chữ , 囉 mà lại thuộc vào nhóm sau. Ông Văn Hựu đưa ra các ví dụ để chỉ ra rằng không chỉ trong các chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn mà cả trong các chữ tục tự thời Minh, các phương ngôn Việt cũng có nhiều chữ Hán dùng bộ khẩu để biểu thị hạn định.
Những điều mà Văn Hựu chỉ ra có thể nói là rất quan trọng. Việc trong chữ Nôm có nhiều bộ khẩu là do người Việt dựa vào việc xác lập phương pháp tạo chữ mới, bằng cách gắn bộ khẩu vào chữ Hán có cách phát âm gần với tiếng Việt hoặc là chuyển dùng toàn bộ chữ Hán có bộ khẩu như một biện pháp ghi tiếng Việt, nhờ đó số lượng chữ Nôm liên tiếp tăng lên, những người đó đã đẩy mạnh chữ Nôm theo xu hướng văn tự biểu âm.
Điều đáng lưu tâm ở đây là những chữ Hán dùng để mô phỏng âm của tiếng Phạn loại như chữ 囉 khác hẳn với tính chất của chữ Nôm thì ông Văn Hựu đã thấy khá nhiều trong chữ Nôm. Cho dù ông đưa ra chữ 埅 khác với chữ 囉 như trên thì thực tế chữ đó lại cũng được dùng nhiều để ghi âm Đa la ni mà trước hết phải kể đến chữ 紇 埅 (hri) (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.785 hàng 2) ở trong Bát nhã ba la mật đa lý thú phẩm mà Bất Không dịch từ Đại lạc kim cương bất không chân thực tam ma gia kinh. Hán Hòa đại từ điển của ông Monohashi còn ghi rằng theo sách Tập Vận biên tập đời Tống thì chỉ ghi: “Ly, thanh dã” mà thôi. Đó là vì chỉ do điều tra trong các sách kinh Phật thôi thì không đủ. Nếu nói về chữ có bộ khẩu trong sách Chinh phụ ngâm khúc thì có thể lấy ví dụ chữ là chữ lược nét của 嚧. Thế nhưng chữ 嚧 này lại còn được dùng nhiều để mô phỏng âm Đa la ni trong các sách dịch thời Đường như 3 ví dụ ở Đại thừa lý thú lục ba la mật đa kinh do Đường Bát Nhã Tam Tạng dịch (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.873 hàng 27 trên và hàng 24 dưới, tr.874 hàng 13 giữa).
Ngoài ra, cho dù sách Đại Hán Hòa từ điển có những chữ biểu thị ý nghĩa và cách dùng chuẩn xác mà chỉ có thể tìm thấy trong Tập vận hoặc các sách vận thư sau đó thì trên thực tế lại còn có những ví dụ 啊, 噁, , , 嘌 được dùng nhiều trong việc mô phỏng âm Phạn thời Đường hoặc trước thời nhà Đường hay là dùng với tư cách là chữ Nôm.
Thế nhưng trong số những chữ không được thu thập trong bộ Đại Hán Hòa từ điển lại thấy có những chữ như sau được dùng với tư cách là chữ Hán để mô phỏng âm trong tiếng Phạn hay là với tư cách là chữ Nôm.
: 部 薩 利 (隋 三 歲 闍 那 崛 多 共 笈 多 “添 品 妙 法 蓮 華 經” 陀 羅 尼 品 第 二 十 一 大 正 大 藏 經 9 卷, 頁 中 段 7 行 )
: 者 娜 野 (唐 不 空 “仁 王 議 國 般 若 波 羅 密 多 經” 卷 下 , 大 正 大 藏 經 8 卷 , 843 頁 下 段 行
: 日 囉 二 合 娜 那 引 囉 引 野 一 句 吽 引 二 合 钵 多 引 計 引 一 句 (宋 法 賢 說 最 上 根 本 大 樂 不 空 三 昧 大 教 王 經” 卷 第 四 , 大 正 大 藏 經 8 卷 , 807 頁 上 14-15 段 行 ).
3. Chữ Nôm ghi tổ hợp phụ âm và dạng ghép hai chữ Hán để mô phỏng âm trong tiếng Phạn
Trong số những chữ Nôm có bộ khẩu như đã thấy cũng bao gồm cả những chữ được tạo thành do giản lược các chữ Hán rồi sau đó cho thêm bộ khẩu vào. Mặt khác nếu phương thức tạo chữ bằng cách cho bộ khẩu vào được xác lập thì những chữ có cấu tạo đơn giản như vậy có thể được tạo ra rất nhiều, cho nên không thể đoán định được đâu là những chữ Hán dùng để mô phỏng âm trong tiếng Phạn đã được đưa vào chữ Nôm. Thế nhưng, trong trường hợp muốn dựa vào chữ Hán để mô phỏng âm của những từ khác với hệ âm của chữ Hán, điều cần tham khảo trước hết là các ví dụ mô phỏng âm qua các ghi chép về các dân tộc xung quanh trong các bộ chính sử Trung Quốc hay các chữ Hán dùng để mô phỏng âm tiếng Phạn. Ta lại thấy có trường hợp dùng liên tục 4 chữ Hán ghi âm có bộ khẩu như trong Tự luân phẩm Đại Nhật kinh (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 18, tr.30).
Ở Nhật Bản, trong Cổ sự ký và các di văn thời Suiko có dùng nhiều chữ “di”, la rất có khả năng đó là các ví dụ dùng trong Phật giáo như Phú lâu na di đa la ni tử, di lặc bồ tát, a di đà, di lâu sơn. Ông Tsuki shima Yutaka so sánh số tự mẫu Đà la ni trong các sách chép tay thời Na ra như Kim quang minh tối thắng vương kinh quyển 4 và Đại tỳ lư giá na kinh quyển 1 với Manyogana và đưa ra kết quả như sau: Số tự mẫu chung ở quyển trước là 44/105 chiếm khoảng hơn 40%; và ở quyển sau là 25/56 cũng chiếm khoảng 40%; ông đoán rằng những loại sách này là cơ sở chính cho Manyogana. Chỉ một ít sách chép tay hiện còn mà có thể thấy những điểm chung như vậy thì trên thực tế những phần chung còn nhiều hơn nữa. Nghĩa là, sự hình thành Manyogana có liên quan đến những người có hiểu biết về tiếng Phạn. Nếu suy nghĩ thêm về lịch sử Việt Nam mà tôi đã nói trên đây thì có thể nghĩ rằng trường hợp Việt Nam phải chăng cũng giống như vậy.
Giúp cho các suy đoán trên là những chữ Nôm có tổ hợp phụ âm trong các văn bản trước thế kỷ XVII. H.Maspero cho rằng giáo sĩ người Pháp A.De Rhodes căn cứ vào cách phát âm trong từ điển Đông Kinh tiếng Việt ấn hành năm 1651 trên cơ sở tham khảo từ điển của giáo sĩ Bồ Đào Nha và cách phát âm của các dân tộc xung quanh Việt Nam; ông đã giải thích như sau: “Trong tiếng Việt trước đây tồn tại tổ hợp phụ âm đầu bl, kl, tl, những phụ âm này chuyển thành phụ âm đơn trong tiếng Việt hiện nay”. Song những chữ Nôm có tổ hợp phụ âm trong các văn bản thế kỷ XVII về trước có những chữ không đẹp với tư cách là chữ Hán. Ví dụ mà ông Nguyễn Phú Phong đưa ra dưới đây biểu thị sự thay đổi ít nhiều: (a) Chữ Nôm, (b) Cấu tạo chữ, (c) âm đương thời, (d) âm thay đổi, (e) cách ghi của A. De Rhodes và (f) cách ghi tiếng Việt hiện đại.

(a)(b) : (c) (d) (e) (f)
= 巴 ba + 賴 lại : blai trai
疩 = 巴 ba + 陵 lăng : # # blang trăng
= 古 cổ + 弄 lộng : + klong tlong trống
巨 = 巨 cự + 侖 luân : + klon tlon tròn
= 巨 cự + 僚 liêu : + kleo tleo treo
禥 = 巨 cự + 郎 lang : + klang + krang sang
= 巨 cự + 立 lập : + klap + krap sắp
= 巨 cự + 稟 lẫm : + klam + kram

Giống như chữ giêng 喆, đặc trưng của những chữ loại này là được tạo thành chỉ bằng sự kết hợp âm thanh, khác hẳn với những chữ Nôm được tạo thành bởi sự kết hợp các chữ Hán có ý nghĩa. Cũng cần chú ý rằng đó là sự kết hợp giữa phụ âm đầu của một chữ với toàn thể âm của một chữ khác có phụ âm đầu. Tức là trong trường hợp biểu thị âm “đông”, khác với cách phiên thiết ghi bằng “đức hồng thiết”; đây là sự kết hợp giữa phụ âm đầu của chữ trên (thanh mẫu) và bộ phận không phải phụ âm đầu của chữ dưới (vận mẫu); đó là việc làm công phu để ghi tổ hợp phụ âm. Về nguồn gốc của phiên thiết vẫn đang còn nhiều giả thuyết khác nhau: Là do ảnh hưởng của âm Phạn học Ấn Độ hay là vốn có của Trung Quốc ? Cũng có thuyết lại cho đó là vốn có của Trung Quốc, nhưng dưới ảnh hưởng của âm Phạn học mà hoàn chỉnh lên ? Thế nhưng phương thức ghi tổ hợp phụ âm như đã nói ở trên không còn nghi ngờ gì nữa nó bắt nguồn từ ngoài Trung Quốc, từ cách mô phỏng âm trong tiếng Phạn như vajra 金 剛 (kim cương) được ghi 日 囉 二 合. Bản thân tự mẫu trong âm tiết, mọi người đều biết đến cách chọn ghép phụ âm hai chữ liên tiếp giống như sva 婆 thấy trong 42 tự môn của Nhập pháp giới phẩm trong Hoa Nghiêm Kinh. Trong khi tìm ra cách cấu tạo cơ bản cho phát âm tiếng Việt, việc tham khảo những điều trên là điều đương nhiên.
Lại nữa những người sống trong khu vực văn hóa Hán mà không thạo chữ Nôm khi xem những chữ trên thì sẽ nghi ngờ tại sao có nhiều chữ trong đó các bộ phận được xếp theo hình chữ nhật đứng, khác hẳn với những chữ “trống” và “sắp” như vậy. Vì không phải là một vài chữ, phải chăng nên chọn những chữ có số nét ít và khó lẫn với những chữ Hán thông thường; hơn nữa lại có thể cố định chúng trong trường hợp đặt chồng các bộ phận của chữ lên nhau. Điều cần xem xét ở đây là phải chăng những chữ này vốn là những chữ khác nhau được viết theo hàng dọc, nhưng quen tay viết liền nhau mà thành.
Trong các tư liệu viết chữ Hán bên cạnh chữ Phạn để biểu thị phát âm được ghi như sau:
阿 引 哩 野 引 二 合 路 引
以 諦
ā ryā va lo ki te
二 合 嚕 引
śva lo
Các chữ gồm hai chữ như 哩 野 và 滋 lại được gắn chặt nhau (viết liền nhau) (xem hình chụp ở cuối bài). Viết nhầm chăng ? qua ví dụ cách ghi 日 囉 thành 囉 二 合 trong Phật thuyết đế thích bát nhã ba la mật đa tâm kinh (Đại chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.847 hàng 11 giữa) mà Tống Thi Hộ dịch có thể nghĩ đến khả năng dạng chữ gồm hai chữ viết gắn chặt nhau là dạng chữ ghép. Cho dù không có dạng chữ viết gắn chặt nhau như trên, nhưng ở Việt Nam không phải là không có thời kỳ tổ hợp phụ âm đầu “Blai” được ghi bằng dạng viết rời hai chữ “ba” 巴 và “lại” 賴 theo chiều dọc.
ở đây chỉ là suy đoán thôi. Thế nhưng dù có cách ghi như vậy, dù chữ ghép đột nhiên được tạo ra để ghi tổ hợp phụ âm kép; thì vẫn có thể thấy rõ những người dày công tìm ra cách ghi như trên chắc chắn rất am tường về chữ Hán dùng để mô phỏng âm trong tiếng Phạn.

Lã Minh Hằng dịch
(Bài đăng trên Kỷ yếu nghiên cứu Đại học Kadazawa, số 26, tháng 3/1998)
CHÚ THÍCH
(1). Mineya Tooru, Chuuko Kango to Betonamu Kanjion, Kyuuko shoin, 1993, tr.201, tr385-6.
(2). Sđd, tr.388.
(3). Takeuchi Yonosuke, Chinh phụ ngâm khúc, Daigaku shorin, 1984.
(4). Văn Hựu, Luận chữ Nôm chi tổ chức cập kỳ dữ Hán tự chi giao thiệp, Yên Kinh học báo, số 14, 1933, tr.232- 234.
(5). Vẫn biết văn bản dịch Hán các tác phẩm kinh Phật không chỉ giới hạn ở cái gọi là tiếng Phạn hay tiếng Pa ri mà còn gồm cả các sách Phật giáo có lẫn với tiếng Phạn hay tiếng vùng Tây Vực, và các phương ngôn ấn Độ, thế nhưng ở đây để cho tiện xin được ghi bằng từ “mô phỏng âm tiếng Phạn”
(6). Kanda Hydeo, Kojiki no buntai ni kansuru- shi ron, các vấn đề “ Về manh nha của dạng văn Kojiki trong các di văn thời Suiko” “Quốc ngữ và Quốc văn học”, số tháng 8 năm Chiêu Hòa 25.
(7). Tsukishima Hiroshi, Kodai no moji; Nakada Norio, Kooza Kokugoshi 2 oninshi, mojishi, Taishuukan shoten, 1972, tr. 370- 371. Về Manyogana cần nghĩ đến mối quan hệ với Lidoku, xin xem Lidoku to Manyogana no kenkyuu, Izumi shoin, 1982.
(8). Henri Maspero: Etude sur la phonetique de la langue annamite, BEFEO XII, Hanoi, 1912.
(9). A PROPOS DU NÔM, ECRITURE DEMOTIQUE VIETNAMIENNE: Cahier de linguistique asie orientale, No. 4, 1978.
(10). Về các thuyết xin xem Ooshima Shouji, Trung Quốc Ngôn ngữ học sử, Kuuko shoin, 1997, tr. 142- 147.
(11). Về các loại tự mẫu xin lấy ví dụ Mabuchi Kazuo, Nihon ingakushi no kenkyuu 1, chương 1: Phạm ngữ học ở ấn Độ và Trung Quốc( Ringawa shoten, 1984); Yoshitani Toshinobu, Xoay quanh tên gọi Tự mẫu (Nhật Bản Trung Quốc học hội báo, tập 33, số tháng 10 năm 1981.
(12). Pelliot 4577. Hukui Humio, H nnyashinkei no Rekishiteki kenkyuu, Shunjuu sha1987, tr 104.
(13). Kausika - prajnaparamita, Mahayanasutrasamgraha pt.1, Buddhist Sansrit, Texts, No. 17, The Mithila Institute, Darbhanga, 1961, tr. 96.
Hình chụp chữ Phạn
(Pelliot, số 4577)