Wednesday 18 July 2018

Săn bắn thú vật hoang dã ở Nam Bộ đầu thế kỷ 20 (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)


Săn bắn thú vật hoang dã ở Nam Bộ đầu thế kỷ 20

Nguyễn Đức Hiệp

Trong vòng chỉ khoảng hơn 100 năm, môi trường sinh thái ở Saigon và các tỉnh xung quanh đã thay đổi nhanh chóng không thể tưởng tượng được. Cả bao ngàn năm trước đó, môi trường thiên nhiên thật hoang dã, hầu như không thay đổi bao nhiêu qua các năm tháng, với sông nước chăng trịt, rừng dầy đặc đầy hoang thú, nơi mà các dân tộc bản địa như Mạ, Stiêng đã sống bao đời từ thời tiền sử cho đến cuối thế kỷ 19. Nhưng ngày nay dân số con người tăng trưởng, rừng bi tàn phá và các loài sinh vật dần biến mất: tê giác, cọp, beo, voi, bò tót, cá sấu và cá heo nước ngọt (không còn trên sông Đồng Nai. Và Cửu Long)…
Vào đầu thế kỷ 19, một thương gia người Anh, ông Purefroy đến Saigon buôn bán dưới thời tổng trấn Lê Văn Duyệt đã có viết (16) là trong các sản phẩm buôn bán trong vùng này có sừng tê giác, sừng nai, ngà voi, cá khô. Vào giữa thế kỷ 19, khi quân Pháp trú đóng ở Saigon, trong đêm 2, 3 tháng 9 năm 1864 có con cọp vào vườn nơi lính pháo binh ở. Những điều này cho thấy Saigon và các tỉnh chung quanh vào thế kỷ 19 còn rất hoang dã, thưa dân và còn nhiều thú vật như cọp, voi, tê giác, nai, heo rừng.
Cho đến cuối thế kỷ 19, nhiều loài thú trên vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi khắp đồng bằng và trong lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ông George Dürrwell, luật sư người Pháp và là chủ tịch Hội “Etudes indochinoises de Saigon” sống ở Nam Kỳ từ năm 1881 đến 1910, đã mô tả như sau (2):
Những con cọp và beo không phải là các loài thú duy nhất sống ở vùng quê Nam Kỳ, mà còn có các đoàn voi hoang dữ phá hoại. Ngày xưa chúng ở khắp nơi trong vùng Đồng tháp mười (plaine des Joncs) rộng lớn, nơi mà một vài thợ săn gan dạ, người Âu và người bản xứ, đã có một cuộc chiến tranh đẫm máu với chúng, và sau đó chúng đã dần dần rút về phía bắc, để vào xứ sở đất Khmer, nơi mà trong số các con voi có những con đã được thiên nhiên cẩn thận quan tâm sinh ra màu trắng (albino), các con voi trắng này trở thành con vật đặc biệt được người Khmer sùng bái, tôn kính.
Gần đây những con voi to lớn vẫn còn làm nhiều người nói về chúng khi các con voi này đi vào vùng Cần Thơ mà chúng phá hoại không thương tiếc, tàn phá tất cả những gì trên đường chúng đi qua. Những cuộc săn bắn thật sự được tổ chức chống lại các đàn voi đều không có hiệu quả: những thợ săn voi cự phách nổi tiếng, thực tế đã biến mất khỏi thuộc địa này khi Tổng đốc Lộc ngủ giấc ngủ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ ở Cái Bè, và người bạn đồng hành dũng cảm trong các cuộc thám hiểm của ông Lộc, bá tước V., cựu thống sứ (resident superieur) ở Cam Bốt, mà mới đây tôi đã có dịp đi đưa đám tang ở trong thành phố lớn Paris của chúng ta, nơi mà ông ta đã tìm thấy một nơi yên nghỉ tốt đẹp xứng đáng. 
Để có thể hình dung về sự thay đổi môi trường sinh thái qua thời gian và không gian ở vùng Nam Bộ, ta có thể đọc lại các tư liệu và hồi ký về thú tiêu khiển săn bắn của một số người Pháp, người ngoại quốc và người Việt giàu và có thế lực tổ chức đi săn ở các tỉnh Nam Kỳ, được coi là một trong những địa đàng săn bắn ở Đông Dương vào đầu thế kỷ 20.
Ông L. Roussel (11) đã tả ở chung quanh Saigon vào đầu thế kỷ 20, thú hoang dã còn nhiều, người ta tổ chức những chuyến đi săn vịt trời, gà rừng, nai, heo, bò rừng ở Tây Ninh, bò rừng, heo rừng, chim trĩ, công, cọp ở vùng Thủ Dầu Một (Hương Quan), hươu, gấu ở Biên Hòa (Vĩnh Cửu, Phước Thọ, Phước An), voi, gấu ở Đồng Nai.
Hoàng tử Thụy Điển Wilhem, viếng Saigon đầu năm 1912 đi qua các vùng phụ cận Saigon (và sau đó không lâu đi săn bò tót với ông hoàng Duc de Monpensier ở rừng núi Chứa Chan) đã mô tả (12) về nhiều loài thú vật như khỉ, cọp, beo, cá sấu, voi, các loài chim…
Các địa điểm có thú rừng quanh Saigon hấp dẫn các thợ săn vào cuối thế kỷ 19 đến các thập niên đầu thế kỷ 20 gồm có Thủ Đức, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long Thành – Bà Rịa, Chứa Chan Bình Thuận, Bảo Lộc – Djiring, và nhất là khu vực chung quanh thành phố Đà Lạt và Ban Mê Thuột ở vùng Cao Nguyên Lang Bian.
hinh-1
Hình 1: Bản đồ các trung tâm săn bắn ở Nam Đông Dương

(1) Khu vực Thủ Đức, Biên Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa

Chỉ cách đây khoảng 100 năm, qua các tư liệu như một số đã đề cập trên, ta thấy muôn thú và sự đa dạng sinh học rất cao ở Việt Nam ngay cả ở gần thành phố.
hinh-2
Hình 2: Cá sấu bắt được ở Mỹ Tho
Người Pháp thường tổ chức đi săn thú trong rừng gần Saigon. Năm 1891, nhân dịp hoàng tử Nga Nicolas II (sau này là vị vua, sa hoàng, cuối cùng của Nga trước cách mạng tháng 10) ghé Saigon trên đường đi chu du nhiều nước ở Á Châu (Siam, Nhật, Hong Kong, Ấn Độ, Tích Lan), chính quyền thuộc địa Pháp ở Saigon có tổ chức đi săn cho hoàng tử Nicolas II (nhưng thật ra họ lấy thú nai, hươu từ sở thú rồi thả vào rừng ở Thủ Dầu Một) để chúng dễ được săn cho vị hoàng tử này (1)(2).
Vị Sa hoàng cuối cùng (1868-1918) trong lịch sử Nga viếng Saigon vào ngày 21 tháng 3.1891 trong chuyến viễn du đi nhiều nước như Siam, Đông Dương, Trung Quốc và Nhật. Hạm đội hải quân Nga và vị Sa hoàng tương lai được đón tiếp trọng thể ở cảng Saigon, có cổng chào ở công trường Rigault de Genouilly (Mê Linh).
Nhiều người dân được Pháp vận động và những người tò mò đứng chen xem đoàn xe ngựa và kỵ binh tùy tùng của thái tử Nga đi trên đường phố Saigon như trên đường Catinat, đại lộ Norodom. Trong những ngày viếng thăm có buổi dạ tiệc ở dinh thống đốc do toàn quyền Piquet chiêu đãi, dạ vũ trên tàu hải quân “La Loire”, xem opera Giroflé-Girofla ở nhà hát, đến Chợ Lớn xem múa lân ở rạp người Hoa, đến vườn thành phố, và đi săn…
hinh-3
Hình 3: Cổng chào mừng hoàng tử Nga Nicolas II viếng thăm Saigon
Những người Pháp ở Saigon, Biên Hòa và Tây Ninh cũng đi săn bằng xe hơi ban đêm dọc trên đường nối Saigon với miền Đông, các con thú ra ăn cỏ dọc đường bị đèn xe chiếu không thấy nhảy qua hai bên đường để trú ẩn, xe chỉ chạy chậm và bắn chúng dễ dàng (2). Ở những cánh rừng giữa Biên Hòa và Bà Rịa thuộc địa phận Long Thành là nơi săn bắn thú đủ loại, hoặc đi săn chim, cò ở Gò Công.
Cọp, beo, voi có mặt khắp Nam Kỳ. Ở Đồng Tháp Mười, có nhiều đàn voi hoang dã phá phách đến tận vùng Cần Thơ và các cuộc săn voi trong đó có Tổng đốc Lộc. Cọp, beo có nhiều ở miền Đông Nam Bộ lên đến tận Trung Kỳ, tuy vậy ngay cả ở miền Tây Nam Bộ cũng có chúng, chúng ở các cánh rừng, bụi cây vùng Châu Đốc, Hà Tiên và ngay cả vùng đầm lầy Rạch Giá.
Có những lúc cọp tấn công người, như một người đưa thư cưỡi ngựa băng qua rừng ở Bình Thuận đã bị cọp bắt ăn cả người và ngựa (2). Hay trong bụi rậm ở Phuoc Thinh, một người Pháp đi săn phải đánh nhau với cọp và đã bị thương nặng ở chân, phải cưa đi. Ở Vũng Tàu, có một con cọp đi vào nhà ăn ở trong khu ở của các người Anh đang xây dựng trạm điện tín. Ngay ở giữa chợ Bà Rịa, cọp bắt và ăn một bà già. Khoảng năm 1889, có nhiều người đi săn ở ngoại ô Saigon và đã săn bắt được cả beo.
hinh-4
Hình 4: Người Cho Ro bắt cọp ở Biên Hòa hinh-5
5b
Hình 5: Săn cọp ở Nam Kỳ
Hoàng tử Thụy Điển Wilhem ghé Saigon, Nam Kỳ và tham dự một chuyến đi săn gần Saigon đã viết:
.. Nhưng ngoài những thông tin trên, tôi dám nói chắc là có một nơi nữa như là thiên đàng Eldorado của săn bắn, trong lãnh vực các thú lớn, mà có thể chắc chắn so sánh được với vùng hoang dại ở Phi châu, đó là Nam Kỳ và Trung Kỳ ở bán đảo Viễn Ấn. Nơi đây voi hoang dã vẫn còn đi lại tư do trong những cánh rừng mà phần lớn chưa bao giờ con người hẻo lánh đến; nơi đây có hàng ngàn trâu bò rừng dương những sừng cong của chúng trên đầu ngọn cỏ cao trong những cánh đồng, hăm dọa bất cứ ai đến xâm phạm lãnh địa đồng cỏ của chúng qua quyền của thú nào có sức mạnh hơn; nơi đây các con tê giác da dầy đi trên các đường lối ẩn xuyên qua rừng dây lá dầy đặc, và cọp, beo với chân mềm ẩn hiện trong rừng ít ánh sáng, nằm chờ mai phục các con mồi, trong lúc các con khỉ nhảy không nghĩ từ cành này qua cành khác. Thế giới loài chim cũng hiện diện rất nhiều, từ con công màu lòe loẹt cho đến các con két kêu la, con chim mỏ kèn (hornbill) xấu xí, hay con chim địa đàng (bird of paradise) rực rỡ. Những loài nai, tuy vậy không có nhiều như ở Đông Phi; và ngựa vằn dĩ nhiên thì ở đây không có.
Wilhem cũng có nói chung quanh Saigon và ngay cả vùng rất cận sát Saigon có rất nhiều muông thú mà ông thấy hay được cho biết qua các chuyến đi ra ngoài Saigon:
.. khi thì qua nhiều dặm các đồn điền cao su, khi qua các rừng rậm, khi qua cầu nhẹ làm băng cây tre mà bên dưới là các kênh phân nửa phủ bởi cây lá, chảy qua những thực vật nhiệt đới choáng ngợp. Các con khỉ la hét nhảy từ cành này qua cành nọ, và đủ loại chim nhiều màu sắc khác nhau bay nhanh trước xe khi xe hơi chạy sát đến.
Có một câu chuyện là một ngày nọ có một con trăn to lớn nằm giữa đường, trải hết mặt đường. Người tài xế không kịp thắng lại và nguyên chiếc xe cán băng qua chướng ngại vật là con trăn này. Con trăn, tuy vậy, không hề bị suy xuyển, chỉ lắc mình một chút cái thân hình dài của nó và trườn đi mất như không có việc gì xảy ra. Những sự kiện nhỏ như vậy dĩ nhiên là ngoại lệ, nhưng chỉ cách đây vài năm dã thú là gây sợ hãi thực sự trên nhiều nơi của xứ này.
Trên tất cả sợ hãi, dĩ nhiên, là cọp mà con người gặp nạn rất nhiều, nhất là những người bản xứ, nhưng các con voi cũng gây rất nhiều phiền toái, đặc biệt là trên các đường xe lửa. Cách đây không lâu, một trong những quái vật khổng lồ này đã làm một xe lửa trật đường rầy và lật đi một phần. Đúng thật là con voi đã bị đụng chết bởi cú sốc này, nhưng từ đó trở đi các xe lửa chỉ còn chạy ban ngày mà thôi. 
Mùa săn bắn thuận lợi nhất ở phía nam Đông Dương là từ tháng 5 đến tháng 10 và ở phía bắc Đông Dương là từ tháng 10 đến tháng 4 (7). Các thú săn gồm: voi (nhiều ở nam Đông Dương, những cũng có ở Thượng Lào và Bắc Kỳ), bò rừng (Bos gaurus, bắc Nam Kỳ, nam Trung Kỳ, Hạ Lào và vùng gần Vinh), tê giác (trong những rừng có đầm lầy và rậm rạp ở Nam Đông Dương), trâu rừng (sống từng đàn ở cánh đồng và thung lũng đầm lầy ở nam Đông Dương), cọp và beo (khắp Đông Dương), gấu, nai hưu, cá sấu (đầm lầy, sông ở Nam Kỳ), các loài khỉ, công, trĩ, vịt trời, chim có bộ lông quí đẹp như cò già (marabouts) vùng Cà Mau, Bà Rịa, bồ nông (pelican) và cò bạch (aigrettes) vùng đồng bằng châu thổ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và biển hồ ở Cam Bốt…
Trong nghị định (arrêté) quản lý điều hành săn bắn ở Nam kỳ được ban hành ngày 11 tháng 3.1926, ngoài các thú được bảo vệ và cấm buôn bán sản phẩm thú như da, đầu thú… thì trong điều 7 của nghị định này săn bắn được cho phép trong mọi thời gian, không cần giấy phép và không giới hạn số lượng các thú vật được coi là phiền nhiễu, có hại như: cọp, beo, mèo rừng, chó hoang dại, chó ngao (loup-cervier), chồn đen (martre), chồn sóc (fouine), chồn hôi (putois), sóc (belette), chồn hương (civette), đại bàng, diều mốc (buse), chim ưng (faucon), chim bồ cắt (épervier), diều hâu, chim kền kền (vautour), quạ, chim biềm bịp (coq de pagoda), trăn (pithon). Săn bắn các thú khác như voi, tê giác, bò tót (gaurs), bò và trâu rừng thì phải có giấy phép (loại A) có giá trị trong 1 năm và lệ phí 120 đồng (piastres) và chỉ được săn tối đa 2 voi, 2 tê giác, 2 bò tót, 4 trầu rừng và 4 bò rừng và phải chịu thuế phụ thâu 40 đồng mỗi con (trừ trâu và bò rừng là 20 đồng mỗi con) (9).
Sau đây là đoạn trích từ sách “Continental Saigon” của ông Philippe Franchini, chủ khách sạn Continental ở Saigon, viết về sự thình hành của thú đi săn bắn ở Nam Kỳ như sau:
Sau hoàng tử Henri d’ Orléans, tiếc đã ra đi quá sớm, thì hoàng tử Waldemar của Đan Mạch, kế đó là ông hoàng Duc de Montpensier, đến Saigon, họ đều bị thu hút bởi đi săn thú. Heo rừng, nai đực cao, nai con chạy rông chỉ vài cây số cách thủ đô Nam kỳ (Saigon). Trong vùng Thủ Đức, người ta nghe từ rừng tiếng tù và săn và tiếng đàn chó săn sủa. Ngạc nhiên bởi những cách săn bắn này, người Việt nhanh chóng chạy biến mất vì họ sợ chính họ có thể trở thành vật bị săn. Những tai nạn xảy ra nhiều.Những con cọp và beo cũng thường đến rừng này và khi chúng đến thì cả đàn chó săn đều chạy hết
Ông hoàng Duc de Montpensier thì đi săn bò rừng và voi ở nơi xa hơn.”
Ông hoàng Monpensier là người ở Việt Nam trong một thời gian khá lâu, ông thích đi săn bắn nên rất thông thuộc các nơi đi săn. Chính ông là người đã mời hoàng tử Thụy Điển Wilhem đi săn trong lúc Wilhem và vợ là công chúa Maria Pavlovna ghé Đông Dương vào đầu năm 1912 để viếng thăm Angkor trong chuyến đi du lịch các nước Á châu của gia đình hoàng tử Wilhem (3).
Wilhem vì ham săn bắn nên sau khi thăm quốc vương Cam Bốt vua Sisowath, đã để vợ và phái đoàn đi Angkor còn ông và một thân tín tên là Lewenhaupt đi tàu trở về Saigon bỏ dở cuộc viếng thăm Angkor để được đi săn cùng với ông hoàng Monpensier.

(2) Khu vực núi Chứa Chan, Bình Thuận

Hoàng tử Wilhem đã viết hồi ký đầy đủ về chuyến đi săn chung quanh Saigon trong vùng rừng núi Chứa Chan (12). Ông cho biết vùng hoang dã này có rất nhiều trâu rừng (hay bò tót) và nai. Sau đây là một đoạn ông nói về một chuyến đi săn với ông hoàng Duc de Monpensier :
Ngay sau khi cái nóng tệ nhất của buổi trưa đã qua, chúng tôi tiếp tục lên ngựa và đi qua cánh đồng với kính che mắt. Một vài con nai thấp thoáng trong cỏ cao và nhanh chóng nhảy qua các khoảng trống. Ông hoàng (Monpensier) – với một trong những cú bắn đạt nhất mà tôi được chứng kiến – đã có cơ hội bắn được hai con; phát đầu của ông hạ gục con nai cách khoảng 150 bước chân (yards), và phát thứ hai bắn vào con chim đại bàng lớn, lúc đó đang bay trên đầu chúng tôi làm nó rơi xuống đất với một viên đạn 0,405 li xuyên qua mình.
Sau đó đoàn bắn được một con bò tót lớn. Ngày hôm sau ông kể đoàn của ông bị hàng trăm con bò tót đuổi, nhưng may mắn thoát khỏi cảnh bị đàn bò tót đạp chết như sau :
Ngày hôm sau, chúng tôi trải qua một cuộc mạo hiểm thích thú nhất, mà tôi tin rằng cho đến nay là một sự kiện rất hi hữu. Dù gì chăng nữa, ông Oddéra, người đã tham dự vào nhiều cuộc đi săn và đã bắn hơn ngàn con bò tót, cũng đã chưa từng gặp trường hợp như vậy.
Chúng tôi cỡi ngựa đi trong cánh đồng gần nguyên cả buổi sáng mà chưa thấy con vật nào, và mặt trời bắt đầu hâm nóng làm khó chịu, thì thình lình các lưng đen của một vài con bò tót xuất hiện trên cỏ cao. Chúng tôi vui mừng nhảy xuống ngựa, ngựa sau đó được dắt ra một khu rừng nhỏ, và chúng tôi như thường lệ bò rạp tiến tới gần các con bò tót. Khi chúng tôi bò một lát và cảm thấy đúng trong tầm khoảng cách, chúng tôi cẩn thận ngửng đầu lên trên cỏ cao. Và đúng là khoảng cách tốt, trước mắt chúng tôi trong một vùng bán nguyệt rộng, không phải có một hay vài con bò tót mà chúng tôi tưởng, mà là khoảng hai mươi đến ba chục con bò tót to lớn, tất cả đều đăm mắt nhìn về hướng chúng tôi. Các khẩu súng hầu như bắn liền một lúc, tuy vậy không thấy có ảnh hưởng gì. Cả đàn bò tót quay đi chậm rãi. Chúng tôi đứng lên không mãn nguyện và đứng nhìn một lúc đàn bò rút lui, thì thình lình chúng quay đầu lại và bắt đầu đi thẳng đến chúng tôi.
Nhưng chưa hết. Từ một vũng bùn cạnh đó, mà chúng tôi không thấy do vị trí của chúng tôi, từng con quái vật đen này đến con khác trỗi dậy và gia nhập đàn bò tót vừa bị bắn ; và chẳng bao lâu, ở khoảng cách chưa đầy 200 bước (yards, 1 yard dài khoảng 0.9m) là một dãy hàng dài có khoảng 120 con bò tót trải dài khoảng 300 bước đứng đối diện với chúng tôi. Quả là một quang cảnh vĩ đại khi ta thấy tất cả các con quái vật này tiến tới phía mình, với cổ của chúng giãn thẳng về phía trước và mặt mõm ướt của chúng ở độ cao cùng với cổ, phản chiếu dưới ánh sáng mặt trời và chớp sáng như sét. Nhưng do vì chúng tôi là đối tượng của sự giận dữ của chúng, và khoảng cách giữa chúng tôi và đàn bò như lũ tràn đến ngắn dần một cách báo động sau mỗi giây phút, đây chính là thời khắc chúng tôi phải chạy cứu lấy mình, nếu không muốn bị đè bẹp, bị cán nghiền dưới sức nặng của những quái vật khổng lồ này, và sau đó trở thành bữa ăn tối thuận tiện cho các con chim kên kên
Tình hình thật nghiêm trọng không chối cãi. Khoảng cách tới bờ khu rừng nhỏ, nơi các con ngựa của chúng tôi đứng thì vào khoảng 5 fulông (1 furlong dài khoảng 200m) nên chắc chắn không có cơ hội nào chạy đến được trước khi lũ bò tràn đến chúng tôi. Đứng yên chờ sự tấn công của chúng, bắn hạ vài con nhưng bị đè nát bởi các con khác cũng không có gì hấp dẫn cho chúng tôi cả. Bắn một vài viên đạn vào con đầu đàn, môt con bò tót lớn tuổi với sừng khổng lồ mà tôi rất mong ước có được để thêm vào bộ sưu tập của tôi – trúng đích rất tốt, nhưng không có tác dụng gì đối với sự tiến công bạo lực của đàn bò. Trong khoảnh khắc chúng tới chúng tôi, không làm gì được ngoài cách chạy để cứu mình. Đó là một trong những lúc thất vọng nhất tôi đã trải qua : bị bắt buộc bỏ chạy trước những con vật săn tuyệt diệu khi trong tay có khẩu súng tốt. Nhưng sự tất yếu không có luật, vì thế chúng tôi chạy.
Đàn bò hoang dã tiếp tục tiến chạy khoảng 100 yards, khoảng cách giữa chúng tôi và đàn bò chạy đuổi ngắn dần, và đến phía trú bờ rừng vẫn còn xa. Tình hình thật là tuyệt vọng.
Thế rồi đàn bò đang nước phóng thình lình dừng lại ngay tại chỗ mà chúng tôi lúc trước đã nằm và bắn chúng. Những vỏ đạn vung vãi và có lẽ mùi của chúng tôi để lại ở đó dường như ảnh hưởng đến những miệng mõm chớp sáng của chúng một cách khó chịu. Sự kiện này cho chúng tôi có cơ hội một lúc, một khoảng cách thở. Một vài phát súng bắn ra, lúc đó một hay hai con quay hẳn lại, kế đó đàn bò tiếp tục tiến. Hàng dãy bò dài lúc này được chia ra làm hai, một tiếp tục tiến chạy tiếp, trong khi dãy kia làm một động thái bọc chung quanh chúng tôi, hiển nhiên có ý định ập về phía sườn chúng tôi\. Nhưng không biết có một lý do nào đó, chúng dần dần chạy chậm lại và chạy sau chúng tôi từ từ. Hết hơi và chảy đầy mồ hôi, chúng tôi cuối cùng chạy được đến chỗ ngựa của chúng tôi, và cảm thấy làm chủ lại được tình hình.
6
Hình 6 : Săn beo ở Nam Kỳ

(3) Tây Nguyên : Cao nguyên Lang-Bian, Djiring

Vùng nhiều thú và đa dạng nhất ở Đông Dương có thể nói là cao nguyên Lang-Bian ở Tây Nguyên. Ông Fernand Millet, một viên chức kiểm lâm và cũng là thợ săn lão luyện đã tổ chức nhiều cuộc đi săn cọp, bò tót, voi, bò Kouprey,… trên cao nguyên Lang Bian cùng với một số nhân vật mạo hiểm như phi công Pelletier-Doisy, nhà văn Albert Londres, các quan chức cao cấp trong các thập niên đầu thế kỷ 20.
Pierre Bouvard (18) cho biết và quảng cáo trong sách về cao nguyên Lang-Bian là nơi thu hút khách du ngoạn thế giới vì nơi đây là nơi lý tưởng săn những thú lớn như cọp, beo, gấu, voi, tê giác, nai, bò tót, trâu rừng. Ngoài ra còn có chim trĩ, công và nhiều loài chim khác. Ở các thung lũng trung lưu sông Đồng Nai và các suối phía dưới Di Linh còn có tê giác một sừng. Toàn quyền Philippines (lúc này là thuộc địa của Mỹ), Sir Harrison, đã đến cao nguyên Lang-Bian đi săn và đã bắn được 2 con cọp, 3 con conminh (một loại bò rừng nhưng lớn hơn, bibos concavifrons, cao 1m9 va dài 3m) và 5 hay 6 con Cà Tong (katang là một loài nai, Rucervus Eldi).
7
Hình 7: Bản đồ trong sách hướng dẫn của Pierre Bouvard, Fernand Millet
các vùng săn các loại thú (cọp, bò tót, voi, nai) gần Đà Lạt trên cao nguyên
Lang Bian (nay là tỉnh Lâm Đồng và Daklak) (10).
8
Hình 8: Các lộ đường quanh Đà Lạt (10). 9
Hình 9: Những thú săn được sau một tuần đi săn ở cao nguyên Lang-Bian
(trích trong sách “Dalat, sanatorium de l’Indochine française.
La chasse au Lang-bian”
của Pierre Bouvard và Fernand Millet)

Cao nguyên Lang-Bian đầu thế kỷ 20 còn rất nhiều cọp. Ông Millet, người đi săn cùng với Sir Harrison, vào tháng 11 năm 1906 đã săn được trên đỉnh Lang-Bian một con cọp với bộ long dầy không kém các con cọp vùng núi lạnh ở Vân Nam và Himalaya. Gần Đà Lạt, ông Barthe, một cảnh vệ địa phương, đã bắn được hai con cọp.

(4) Kỹ nghệ săn bắn dã thú

Saigon là trung tâm dịch vụ cho kỹ nghệ săn bắn đầu thế kỷ 20. Trên đường Catinat (Đồng Khởi), có tiệm bán súng đạn để đi săn của ông Cafford ở số 32-36 đường Catinat (theo niên giám Đông Dương năm 1910, 1911). Sau này vào thập niên 1950-1960, tiệm súng đạn Cafford được chuyển về ở góc đường Tự Do và Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.
Cửa hàng bán súng đạn dược « Comptoirs Généraux de l’Indochine » lớn nhất cũng nằm trên đường Catinat. Ở đây bán đủ các loại súng săn của các hảng Merkel và Walter, đạn dược từ công ty Coopal và là đại lý cho hãng Mauser (5).
Công ty du lịch « Didier & Defrosse Safari Service », của ông Didier và ông Defrosse, trụ sở đặt ở số 61 đường Pellerin (Pasteur ngày nay), tổ chức các chuyến đi săn, cắm trại, du ngoạn viếng các bộ lạc dân tộc thiểu số, bắt thú cho các viện nghiên cứu, bảo tàng, chuyến bay thưởng ngoạn trên vùng có thú săn, bán các da thú như voi, cọp, beo. Các hướng dẫn viên của công ty này đều nói được tiếng Anh, phục vụ cho khách hàng từ các nước khác đến đi săn ở Việt Nam (5).
Ngoài ra còn có công ty vận chuyển du lịch, « Société Indochinoise de Transports », có các chuyến xe hơi và xe ca đi Saigon-Pnom Penh-Kampot-Angkor-Poipet, và các chuyến đi săn những thú lớn, có hướng dẫn viên nói tiếng Anh, trụ sở đặt ở 93 đường Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) ở Saigon và 35 đường Hassokan ở Pnom Penh. Công ty này có liên hệ trực tiếp với các công ty Thomas Cook & Sons, The American Express, The Borneo Company, Siam Steam Navigation, K.P.M Line…
10
Hình 10: Quảng cáo bán phim chụp ảnh của hãng Kodak-Pathé
ở tiệm “Pharmacie Solirène” trên đường Catinat, Saigon, năm 1937 (5)
11
Hình 11: Nhóm đi săn gần Saigon dừng nghỉ uống rượu.
Các sản phẩm của các thú được phép săn, như ngà voi, da cọp,… được một số các cửa tiệm ở Saigon bán cho công chúng. Ông Dương Chấn Kỷ, một gia chủ giàu có ở Bình Thủy, Cần Thơ có mua một cặp ngà voi ở một tiệm trên đường Catinat, Saigon mà Hồng Hạnh, trong sách “Dấu xưa Nam bộ” (17), đã kể lại như sau:
..Cụ Dương Chấn Kỷ vốn có một đam mê lạ lùng với việc sưu tập đồ cổ mặc dù trông bề ngoài của cụ không ra vẻ tay chơi mấy. Ấy mới sinh chuyện về sau. Số là trong một dịp về Sài Gòn xem mấy cái chành lúa, tiện đi ngang qua đường Catinat, ông vào xem chơi một gian hàng bán tiêu bản thú vật của một tay chủ tiệm, thợ săn người Pháp. Tay nầy thấy ông già mặc đồ bà ba, tay cắp bị bàng cứ đứng mân mê cặp ngà voi bèn nạt lớn – “Nè ông già, đây không phải là chỗ chơi của ông đâu. Lỡ tay ông có làm trầy xước nó thì bán cả gia sản cũng không đủ thường bồi cho tôi”. Liếc nhìn tay chủ tiệm bằng nửa con mắt, cụ Dương Chấn Kỷ thủng thỉnh hỏi lại: “Cỡ bao nhiêu mà dữ vậy chú em. Nói qua nghe thử coi”.
Tấn hài kịch vừa nêu không biết diễn ra bao lâu, chỉ biết rằng ông Dương Chấn Kỷ đã đặt cọc một số tiền lớn để rồi dong xe về Cần Thơ chở lên 4 ngàn đồng bạc trắng “con cò” – tiền Liên bang Đông Dương chính hiệu để rinh về quê nhà. Tay chủ tiệm cầm tiền rồi mà ngỡ như mơ. Chỉ một ngày sau đó, đích thân gia đình công tử Bạc Liêu đánh tiếng mua lại cặp ngà với giá gấp đôi. Quả là không có một thương vụ nào lại sinh lãi cỡ đó chỉ sau một ngày, thế nhưng cụ Dương Chấn Kỷ nhất định không bán. Một phần vì máu mê đồ cổ, một phần vì sĩ diện với tay chủ tiệm người Tây vốn coi người Việt như rơm, như rác.
Cũng xin mô tả một chút cho bạn đọc được rõ. Cặp ngà này có một cái dài độ 1,9 mét, cái kia độ 2,2 mét. Dương lão gia đoan chắc, cặp ngà của ông Diệm để trong dinh Độc lập cũng chưa lớn bằng (?). Ông đưa tôi xem tấm hình đen trắng tuy hơi ố vàng như vẫn còn nguyên nét – hình chụp ông lúc trai trẻ đứng bên cạnh cặp ngà, ông to cao là thế nhưng cũng chỉ mới tới mức hai phần ba độ dài của chiếc ngà. Nhưng tiếc một nỗi, gia tộc họ Dương lại không có duyên để giữ cặp ngà.
12
Hình 12: Săn voi ở Cần Thơ 13
Hình 13: Bán da cọp ở Saigon (1952).
Ngoài ra ở Chợ Lớn, có bán các bộ da thú săn có nguồn gốc ngoài Đông Dương. Theo tờ báo “The Straits Times” ngày 2/7/1902 (15) thì trong Chợ Lớn giá bán các bộ da cọp, da mèo rừng, da beo từ Trung Quốc cực kỳ rẻ.

(5) Chính sách và quản lý săn bắn thời Pháp thuộc

Những biện pháp đầu tiên quản lý săn bắn ở Đông Dương qua luật lệ bắt đầu từ năm 1891, nhất là bảo vệ các loài chim cò bạch (aigrettes), cò già (marabouts) và chim hồng hạc (flamants) ở Nam Kỳ, điều hành qui luật bắt voi và ngăn cấm sự tiêu diệt chúng (7).
Năm 1911, một bộ luật của bộ trưởng Thuộc địa được ban hành để nghiên cứu những biện pháp thích hợp bảo đảm bảo tồn và sự trường tồn các loài sinh vật trong các loài hoang dã ở các thuộc địa.
Qua bộ luật đó, các chính quyền ở các thuộc địa đã ban hành các biện pháp điều hành bảo về dã thú, giới hạn quyền săn bắn của những người Âu cũng như bản xứ trong những thời hạn thích hợp ở mỗi nơi.
Ở cao nguyên Liang-Bian, một vùng có nhiều cuộc săn bắn lớn, đã được chia ra vùng nào là vùng được bảo tồn ngăn cấm săn, vùng tự do săn bắn và vùng bảo vệ.
Nghị định ngày 11 tháng 3 1926 ở Nam kỳ và đạo luật (decret) ban hành ngày 7 tháng 4 1927, quản lý điều hành săn bắn ở Đông Dương phản ảnh những điều luật và các biện pháp như trên. Đạo luật này áp dụng ở Nam Kỳ, vì lúc ấy là thuộc địa Pháp. Trong chương II của đạo luật này là các điều khoản cụ thể, như bằng và giấy phép săn bắn, giấy phép miễn phí săn bắn cho các công trình nghiên cứu khoa học, hay cho những người Âu đang sống biệt lập, xa cách trong rừng đôi khi cần thực phẩm hoang dã. Và cuối cùng là dân bản xứ săn bắn thường ngày trong cuộc sống của họ bằng cung, nỏ, lao, kiếm mà không dùng súng thì hoàn toàn được phép.
Chương III của đạo luật gồm các phương cách bảo vệ động vật hoang dã; dự kiến thành lập các công viên bảo tồn quốc gia, mà trước tiên thành lập các rừng bảo hộ tạm thời mà số lượng và diện tích để cho các chính quyền địa phương xác định; ngoài ra còn có nhiều biện pháp đa dạng khác như bảo vệ chặc chẻ một số loài động vật càng ngày càng quí và hiếm, một số các động vật khác không cần thiết bảo vệ lắm để bảo đảm an ninh cho dân chúng và canh nông mùa màng.
Và cuối cùng là dự kiến một loạt các biện pháp cấm một vài vũ khí có độ tàn phá cao các thú bị săn, cấm săn bắn ban đêm bằng đèn và buôn bán động vật đã chết và da của chúng. Một số các hình phạt tùy theo mức độ vi phạm và các qui định xử lý khi vi phạm, giao phó trách nhiệm theo dõi quản lý săn bắn cho nhân viên kiểm lâm cũng được trình bày trong bộ luật (7).

Kết luận

Những tư liệu để nói về động vật và môi trường sinh thái ở chung quanh Saigon và các tỉnh Nam Kỳ cho thấy từ cuối thế kỷ 19 cho đến những thập niên đầu thế kỷ 20, sự đa dạng sinh học rất lớn với môi trường sống còn hoang dã và dân cư còn thưa thớt và người dân tộc sống còn nhiều ở các tỉnh thành chung quanh Saigon, nhất là vùng Đông Nam Bộ.
Chỉ trong vòng chưa đến 100 năm, môi trường sinh thái hoàn toàn thay đổi. Các động vật lớn như voi, cọp, beo, trâu rừng, bò tót, tê giác, nai, heo rừng, cá sấu hoàn toàn biến mất. Rừng nơi chúng trú ẩn, sinh sống đã bị khai phá hay hoàn toàn biến mất. Hiện nay chỉ còn lại khu rừng Cát Tiên ở gần Saigon thuộc vùng Đông Nam Bộ và một số các vườn quốc gia ở Tây Nguyên là những cụm sinh thái rời rạc còn sót lại
Ngày nay không còn nơi nào ở Việt Nam được phép cho săn bắt. Nhưng ngay cả ở những nơi còn được bảo tồn như vườn quốc gia, con người vẫn còn xâm lấn trái phép để săn bắt động vật hoang dã hay phá rừng lấy gỗ. Nếu chúng ta muốn con cháu chúng ta trong tương lai vẫn còn có cơ hội được xem và biết đến di sản thiên nhiên, sinh vật đặc hữu và sự phong phú của đa dạng sinh học ở Việt Nam thì sự bảo tồn những môi trường sinh thái còn sót lại phải được thực thi nghiêm chỉnh và ưu tiên là nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái trong công đồng. Vì thế các tổ chức xã hội dân sự có vai trò quyết định trong sự bảo tồn di sản sinh học ở một nước văn minh văn hóa.

Nguyễn Đức Hiệp

Chú thích:

(1) Chính quyền Pháp ở Saigon trước đó cũng cho một hoàng tử Miến Điện , Myingun Min, được lưu vong tại đây từ năm 1889 cho đến 1921 (4).
(2) Hoàng tử Wilhem là em của ông nội của vua Thụy Điển ngày nay

Tham khảo

  1. Albert Morice, Voyage en Cochinchine 1872, Le Tour du Monde – Volume 30 -1875-2nd semestre – Pages 369-38, http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  2. George Dürrwell, Ma chère Cochinchine, trente années d’impressions et de souvenirs, février 1881-1910, E. Mignot (Paris), 1911
  3. Nguyễn Đức Hiệp, Saigon-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa (Phần 2), 2011, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/nam-bo-tu-tien-su-2/
  4. Tsaw Hla Phroo, France Burma and the Myingun prince, The Singapore Free press and Mercantile Advertiser, 16 September 1893. pp. 2, http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/singfreepressb18930916.2.7.aspx
  5. Les grandes chasses en Indochine / édité par le Bureau officiel du tourisme indochinois, Bureau officiel du tourisme indochinois, 22 Rue Grandière, Saigon, 1937
  6. Exposition coloniale internationale de Paris. Commissariat général, Publisher : Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris), Vol. 1, 1931
  7. Exposition coloniale internationale de Paris. Commissariat général, Éditeur : Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris), Vol. 2, 1931, Contributeur : Exposition coloniale (1931 ; Paris). Éditeur scientifique.
  8. Recueil Général de la Législation et de la Réglementation de l’Indochine”, Textes locaux 1926-27, pp 168-179, March 11, 1926.
  9. Pierre Bouvard, F. Millet, Dalat, sanatorium de l’Indochine française. La chasse au Lang-bian. Nouveau guide illustré , Impr. de J. Castenet (Bergerac), 1920.
  10. Lucien Roussel, La chasse en Indochine, dix neuf gravures, Plon-Nourrit et Cie, Paris, 1913 http://www.archive.org/stream/lachasseenindoc00rousgoog#page/n11/mode/2up
  11. Wilhem, Prince of Sweden, In the lands of the sun: notes and memories of a tour in the East, Eveleigh Nash, London, 1915, http://ebooks.library.cornell.edu/cgi/t/text/text-idx?c=sea;idno=sea026
  12. Fernand Millet, Les grands animaux sauvages de l’Annam, leurs mœurs, leur chasse et leur tir, Plon, Paris 1930.
  13. Fernand Millet, Le Lang-Bian, joyau touristique de l’Indochine, A. Tournon, Paris . In-8°, 60 p.
  14. R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic Journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826.
  15. Hồng Hạnh, Dấu xưa Nam bộ, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2005.
  16. Pierre Bouvard, Le Lang-Bian (Indochine française), sanatorium et chasses. Nouveau guide illustré, avec texte anglais-français, S. Montégout (Saïgon), 1917.

Tuesday 17 July 2018

Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Việt nam - Trương Văn Bền (1884-1956) (Nguyễn Đức Hiệp - Văn Chương Việt)


Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Việt nam - Trương Văn Bền (1884-1956) Nguyễn Đức Hiệp
(http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=12827)
Tôi sinh ra đúng vào năm ông Trương Văn Bền mất. Khi lớn lên trong tuổi học trò ở trung học, tôi vẫn còn được nghe nhiều người nhắc đến ông và sản phẩm xà bông Việt Nam mà công ty ông sản xuất với niềm tự hào kính phục pha lẫn với một sự nuối tiếc. Ký ức sâu xa từ nhỏ đó, tưởng chừng như mất đi theo thời gian đã trở lại cách đây vài năm khi tôi bắt đầu tìm hiểu và viết về lịch sử người Minh hương ở Nam bộ.

Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa  là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá, lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội. Vì thế tôi gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.

Đã có một số bài viết về ông Trương Văn Bền, nhưng hầu hết đều tương tự, có nhiều thông tin được lập lại. Trong lúc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của ông Trương Văn Bền, tôi đã có may mắn là liên lạc được với một người cháu nội của Trương Văn Bền là anh Phillipe Trương, hiện sống ở Pháp. Qua điện thư, anh Phillippe đã cho tôi biết được nhiều thông tin thêm về ông Trương Văn Bền. Một số thông tin mới về ông, tôi cũng tìm được qua các biên bản chính thức của các buổi họp Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương (Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine) mà ông Trương Văn Bền là một thành viên trong nhiều năm. Tổng hợp các tư liệu trên, tôi xin trình bày một vài nét phác họa chính về ông.

Theo các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn.

Tổ tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế kỷ 17.

Được phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch đến vùng nay gọi là Mỹ Tho.

Trương Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá.

Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh  Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam ở tại Chợ Lớn. Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ. Trương Quang Thanh có 8 người con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi, (tháng 12 1884).

Thưở thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon). Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học), Trương Văn Bền ghi tên và thi đậu dễ dàng. Ông được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư.

Năm 1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông. Lúc đầu ông bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông  khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn. Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn. Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Năm 1918, ông mở thêm một cơ sở sản xuất dầu nữa ở Chợ Lớn. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ.

Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau:

“Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp. “


Từ những thành công ban đầu này, năm 1918, ông bắt đầu tham dự tích cực vào đời sống kinh tế chính trị trong xã hội. Ông được bầu làm một hội viên trong Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil Colonial) vào năm 1920, và sau đó năm 1924 là nghị viên Phòng Thương Mại (Chambre de Commerce). Năm 1932, ông là người Việt nam đầu tiên được bầu làm phó chủ tịch Phòng Thương Mại và giữ chức này cho đến năm 1941. Ngoài ra ông còn là nghị viên Phòng Canh Nông (Chambre d’ Agriculture, 1922), thành viên của hội đồng giám đốc quản trị (board of directors) của Thương cảng Saigon (Port Commerce de Saigon) và ứng viên Hội đồng Quản trị Sở Lúa gạo Đông Dương từ năm 1924.

Trong thập niên 1920, ông nhảy vào lãnh vực canh nông. Lúc đầu ông mua 300 mẫu ruộng ở Mỹ Tho. Vài năm sau đó, năm 1925, ông cùng một số người khác thành lập Công ty canh nông Tháp Mười (Société Rizicolte du Tháp Mười). Công ty có hơn 10 000 mẫu và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn nhân sự ở miền Tây Nam bộ. Ông làm Tổng giám đốc và là thành viên của hội đồng quản trị công ty. Ông giữ chức vị Tổng giám đốc cho đến năm 1931.

Vai trò quan trọng của ông trong địa hạt phát triển canh nông, kỹ nghệ, kinh tế tài chính được đánh giá cao trong xã hội. Ông được bầu làm hội viên của Đại hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine) năm 1929. Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương được thành lập năm 1928 để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề, liên quan đến kinh tế và tài chính ở Đông Dương. Các vùng ở Đông Dương như Lào, Cam Bốt, Trung, Bắc và Nam đều có thành viên. Trong Đại hội đồng, ông đã có nhiều đóng góp sửa đổi nhiều chính sách kinh tế bảo vệ quyền lợi người dân bản xứ và người nghèo khó ở Nam bộ.  Qua các biên bản báo cáo chi tiết các cuộc họp Đại hội đồng được công bố mỗi năm của chính phủ toàn quyền Đông Dương (4) (5) ta có thể thấy một vài sự kiện thể hiện tinh thần bảo vệ phúc lợi người dân của Trương Văn Bền.

Thí dụ trong quyển báo cáo phát hành năm 1939 về các đề tài tranh luận bỏ phiếu ở Đại hội đồng năm 1938, có viết một đoạn như sau (5):
“...
Ông Trương Văn Bền đọc một đề nghị như sau và đặt ra trước Đại Hội đồng để được biểu quyết với sự đa số tuyệt đối
Đại hội đồng
Chiếu rằng trong dự án tổng ngân sách năm 1939, chính phủ có nhiệm vụ thi hành những công trình mới (thủy lợi và vét kinh) từ quỹ trương mục Nam kỳ một số tiền là 724000 đồng;
Chiếu rằng những công trình này cho tới nay được thực hiện mà không lấy ý kiến từ các thành viên của Nam kỳ được bầu vào Hội đồng;
Chiều rằng trong năm 1938, Sở Công chánh chỉ chi tiêu trong các chương trình trên một số tiền 470000 đồng so với ngân sách tiên đoán cho dự án là 745000 đồng;
Chiếu rằng làm các kênh đào ở Nam kỳ thường luôn có kết quả tốt trên phương diện thoát nước, cải tiến đất cũng như làm giảm mực nước sông Cửu Long trong mùa lũ;
Chiếu rằng các công trình này được trả từ các quỷ đã có;
Trên cơ sở tiền thâu được từ thuế (*) trên xuất cảng gạo và dịch vụ liên quan vào khoảng 6000000 đồng;

Đề nghị sau đây được đưa ra biểu quyết
1.- Các điều được xóa bỏ là điều 122, điều thứ nhất (các công trình thoát nước và thủy lợi ở Nam kỳ);
2.- Hoàn lại 0$50 trên mỗi đồng tiền thuế xuất cảng gạo và các dịch vụ liên quan thâu được ở Nam kỳ. Tiền hoàn lại sẽ được ghi vào Chương 9, điều 8

Số tiền hoàn là 1500000 x 0.50 = 750000 đồng

((* ) ở toàn Đông Dương, chú thích của tác giả)

Đại biểu ông Marinetti chú thích là trong số lượng gạo xuất cảng ở cảng Saigon có 200000 tấn là từ Cam Bốt.

Ông Tổng thư ký phủ nhận những phê bình về vấn nạn của Sở thủy lợi mà sự thành lập được đòi hỏi tức thì cách đây không lâu.

Trái với những điều mà ông đại biểu Trương Văn Bền nêu lên, phương thức tín dụng mỗi năm được chi tiêu trong giai đoạn thi hành hợp đồng với Công ty Đào vét (Société des Dragages) nói chung phù hợp với số lượng tiền ghi trong ngân sách. Ông tổng thư ký kêu gọi sự chú ý của Đại hội đồng về tính cách đặc biệt của các công trình thủy lợi cần thời gian dài thực hiện và vì thế cần thiết một sự liên tục dựa trên kỹ thuật chuyên biệt.

Ông Trương Văn Bền đòi hỏi lần nữa là có sự biểu quyết qua lá phiếu đề nghị của ông, và sự đào kênh lại.

Ông Combot ủng hộ đề nghị của ông Trương Văn Bền, và bày tỏ sự ngạc nhiên là các công trình thủy lợi đã được thực hiện mà không có sự đòi hỏi, yêu cầu nào của dân chúng ở các vùng liên hệ.

Ông giám đốc tài chánh cho hội đồng biết là sự bỏ phiếu của đề nghị sẽ không có ảnh hưởng đến tài chánh năm 1939.

Sau khi đọc, đề nghị của ông Trương Văn Bền được chấp thuận với 25 phiếu thuận và 5 phiếu chống.


Một thí dụ khác như trong quyển báo cáo năm 1940 về các đề tài tranh luận bỏ phiếu ở Đại hội đồng năm 1939 có đoạn nói về quản lý tiêu chuẩn dược phẩm. Trong cuộc tranh luận giữa các thành viên về thuốc cổ truyền đông y, ông Trương Văn Bền cũng phát biểu phản đối đạo luật của chính phủ ban hành ngày 24/10/1939 hạn chế và quản lý chặt chẽ sự sử dụng thuốc bắc cổ truyền trong quần chúng. Ông nói lên sự bất bình của đa số quần chúng về đạo luật trên.

Ông phàn nàn là Đại hội đồng, các công dân bảo hộ và nhiều nhân vật người An Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau đã không được hỏi ý kiến trước khi có quyết định và đòi hỏi là đạo luật được đình chỉ, chờ sự thành lập một ủy ban để quản lý vấn đề thuốc ta cổ truyền và thuốc tây một cách hợp lý và hài hòa. Đa số người dân không có khả năng mua thuốc tây và do đó họ đều dùng thuốc ta cổ truyền, mặc dầu có sự lạm dụng của một số đông y sĩ. Một số thành viên trong Đại hội đồng như ông Thương Công Thuận, Trần Văn Kha, Tôn Thất Viên Đề ủng hộ ý kiến của ông Trương Văn Bền. Ông Tổng thư ký Đại hội đồng tán thành nhưng cho rằng phải có một sự quản lý nào đó ít nhất để tránh lạm dụng toa thuốc độc hại. Về phương diện thực tiễn thì khó có thể quản lý được vì người chẩn bệnh cũng là người làm và chế thuốc.

Ông Phan Văn Giao ủng hộ đạo luật của chính phủ để quản lý thuốc ta. Ông Tôn Thất Viên Đề còn đặt ra câu hỏi là tại sao thuốc Tây lại rất đắt qua đó ông Giao cho là vì những người trung gian đã lợi dụng kiếm lời quá cao nên mới có sự thể như vậy. Ông Baffeleuf, chủ tịch Đại hội đồng nói rõ cho ông Đề là ông (Baffeleuf) cũng là thành viên trong Ủy ban trung ương kiểm soát nên ông bảo đảm với ông Đề là sự tăng giá thuốc chỉ có được phép sau khi có sự điều nghiên kỹ lưỡng. Ông Baffeleuf đồng ý là luật mới đã gặp nhiều phản ứng bất lợi và đưa ra đề nghị của Đại hội đồng là luật mới ra quá sớm và cần có sự nghiên cứu lại kỹ lưỡng trong quản lý để áp dụng từ từ và đúng mức trong giai đoạn chuyển tiếp (4).

Đáng để ý là trước đó vào năm 1931, bác sĩ Yersin cũng đã trình bày trước Đại hội đồng về sự cần thiết trồng cây quinine làm thuốc chống sốt rét ở Đông Dương và sự liên hệ hợp tác giữa viện Pasteur Saigon và các cơ quan liên hệ của phòng canh nông ở Đông Dương. Từ năm 1923, bác sĩ Yersin cho biết là ông đã nghiên cứu các mẫu vỏ cây quinine từ các cây được thử trồng sao cho thích hợp với khí hậu ở một số đồn điền ở Đà Rằng (Dran) và Di Linh (Djiring) trên Tây Nguyên với độ cao như các cây quinine trồng thành công ở Java khoảng 1500 m. Trước đó năm 1917, Yersin đã thử ở Hòn Bà gần Nha Trang. Bác sĩ Yersin hy vọng là sẽ thành công phát triển cây quinine và kỹ nghệ chế biến thuốc chống sốt rét cho toàn cõi Đông Dương với sự trợ giúp của Đại hội đồng.

Theo quyển « Tự Điển Tác Giả Việt Nam » của ông Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn Hóa, 1999) thì ông Trương Văn Bền cũng có viết 3 tác phẩm: Phương pháp chế tạo xà phòng (1918), Phương pháp cải tạo các giống lúa (1932) và Phương pháp lấy dầu thông (1932) (2).

Ở Nam Kỳ, các cơ quan tư vấn tối cao, phụ tá cho Thống đốc như Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, Hội đồng Canh nông, và Phòng thương mại, đều có ông Bền là hội viên.

Mặc dầu ở địa vị cao và có thế trong xã hội, ông không bao giờ khoe khoang tự mãn, trái lại ông rất khiêm tốn, tập trung vào công việc phát triển kỹ nghệ, kinh tế, kinh doanh mang đến phúc lợi cho quần chúng.

Nói về kinh nghiệm trong thương trường và bí quyết thành công, ông Trương Văn Bền có cho biết một số ý kiến như sau (trích nguồn (3))

“…
Đầu những năm 1930 trong dịp Tết Nguyên đán, các báo Sài Gòn thường đăng phỏng vấn quảng cáo thương mại. Những bài này thường rất ăn khách do người đọc thích tìm hiểu bí quyết thành công của các nhà kinh doanh nổi tiếng. Trong đó có bài phỏng vấn ông Trương Văn Bền đăng trên báo Sài Gòn Xuân 1939 đã thu hút rất nhiều độc giả thời bấy giờ quan tâm. Mặc dù thời đó không có những khái niệm chuyên môn như tiếp thị, đầu tư, thương hiệu... Nhưng nội dung chủ yếu của bài báo lại xoay quanh những vấn đề này. Có thể nói, bài phóng sự đó đã có ý nghĩa cần thiết không những đối với những nhà kinh doanh cùng thời mà còn là con đường sáng cho doanh nhân ngày nay suy ngẫm và so sánh.

Trong bài báo phóng viên hỏi tại sao người Việt thường thất bại trong thương mại và kỹ nghệ. Không cần suy nghĩ lâu, ông Trương Văn Bền trả lời: “ Tại người mình ưa bắt cá hai tay, ưa làm nhiều việc quá. Việc này chưa xong, họ đã xoay qua làm việc khác, thành thử không việc nào vẹn toàn. Rốt cuộc hỏng cả”. ông nói tiếp: “Lý do thứ nhì là do không thông thạo việc nên thất bại. Bất cứ việc gì, trước khi làm mình phải biết rõ việc ấy. Phải học, phải nghiên cứu kỹ càng mới được. Người Tây trước khi làm việc gì họ cũng học trước cả. Cho đến một việc đứng bán hàng, ta cho là tầm thường và tưởng ai ai cũng có thể làm được. Nhưng đối với họ đó là việc quan trọng cũng có sách có trường dạy hẳn hoi, dạy từ cách tiếp khách, khoe hàng làm sao cho người khách mua rồi thì còn trở lại. Người mình có một cái rất bậy là chỉ thấy cái lợi trước mắt, chỉ cốt làm sao bán được món hàng lúc ấy mà thôi, không chịu hiểu rằng người khách thấy mình bị tiếp đãi không được như ý, hoặc bị lừa gạt mua nhầm hàng xấu, về sau không thèm trở lại nữa, vì vậy mà ế ẩm. Như tôi đây cơ sở đã vững vàng rồi mà ngày nào cũng tìm sách, tìm báo đọc thêm”.

Khi được hỏi về bí quyết thành công, ông Bền nói: “ở xứ mình, trong giới kỹ nghệ còn trống chỗ nhiều, muốn lập kỹ nghệ nào cũng dễ lắm. Không cần phải có vốn nhiều. Vốn ít, càng tốt hơn. Ban đầu không nên làm rình rang, đã vô ích mà còn có hại, cứ khởi sự nho nhỏ, đi lần lần từng bước. Cần nhất phải có chí nhẫn nại. Như tôi đây bị thất bại đã mấy phen, nhưng có thất bại mới có thêm kinh nghiệm. Thứ nhất là bền chí. Thứ hai là phải có sức khỏe, làm gì thì làm mỗi buổi sáng tôi cũng dậy sớm tập nửa giờ thể dục. Không có sức khỏe, hay đau ốm thì dẫu tài giỏi đến bực nào cũng thành vô dụng. Tóm lại sức khỏe, sự học hỏi, sự bền chí là những điều kiện của sự thành công”.

Trương Văn Bền cũng là hội viên của hội đồng quản trị Sở lúa gạo Đông Dương khi sở này được thành lập năm 1924, chủ tịch Liên hiệp canh nông (Union d’Agriculture), chủ tịch nhà băng Tín dụng Canh nông Chợ Lớn (Caisse de Crédit Agricole du Cholon) năm 1932, phó chủ tịch Phòng Canh nông (Chambre d’ Agriculture) trong thời gian 1932-1941 và là thành viên của Hội đồng sản xuất kỹ nghệ Đông Dương (Conseil de production industriel d’ Indochine) khi được thành lập vào năm 1941. Ông thành lập năm 1941 hai nhà máy xay lúa sản xuất hơn 100 tấn gạo mỗi ngày.

Trong bài diễn văn của ông Henri Maspéro (nhà sử học chuyên về Trung Hoa, anh của George Maspero, tác giả sách “Vương quốc Champa”) đọc nhân dịp khai hoạt của Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) ngày 12 tháng 02 năm 1920, nói về ông Trương Văn Bền như sau (2):

«.. Cuối cùng, ông Bền đủ tất cả điều kiện và khả năng đại diện ở Hội đồng này các kỳ vọng mới của đồng bào ông. Trong thời điểm mà người An Nam không còn nghĩ đến việc đóng vai trò tích cực vào sự phát triển kinh tế ở Nam kỳ, ông đã, bằng phương tiện sức của chính mình, tạo ra một kỹ nghệ mà ông biết rõ, bằng sự bền chí, ý chí, thông minh sáng tạo và làm việc, đã đặt ông vào hàng quan trọng bậc nhất. Những đồng bào của ông khi bầu ông vào đây, đã cho thấy từ đây họ chú ý và tham dự vào đời sống kinh tế của thuộc địa, và sự nhận hiểu mà họ có với các đồng bào của họ, đã mở đường và là một gương mẫu tốt cho họ.”

Tuy là trong hội đồng quản hạt Nam Kỳ, ông không hoàn toàn theo Pháp. Ông Ngo Van trong « Vietnam 1920-1940 révolution et contre-révolution sous la domination coloniale » có ghi: « Quelques autres conseillers, dont l’avocat Gallet, défenseur de Nguyên An Ninh, et Truong Van Bên, le (Nguyên Tan Duoc) suivirent dans la voie de la critique » (p.54) (2) (“Những thành viên khác trong hội đồng, trong đó có luật sư Gallet, người bảo vệ Nguyễn An Ninh, và ông Trương Văn Bền đã theo ông Nguyễn Tấn Dược trong đường lối chỉ trích”)

Ngày 21 tháng 03 năm 1926, theo lời kêu gọi của ông Dejean de la Bâtie và Nguyễn An Ninh để chống sự trục xuất nhà báo Trương Cao Dong ra Annam ông Trương Văn Bền đã có mặt tại vườn Xoài. Theo bài báo của ông Dejean de la Bâti trong La Cloche Fêlée (23.03.1926) : « Président : M Le Quang Lien dit Bay, constitutionnaliste, assisté de M. Truong Van Ben, conseil colonial constitutionnaliste, et Phan Van Truong, avocat et directeur de La Cloche Fêlée… » (p. 60) (2).

Ngoài lúa gạo, ông nhận thấy nhiều tiềm năng cho các sản phẩm canh nông khác ở miền Nam như dừa. Từ năm 1928, khi ông thành lập xưởng chế dầu ở Chợ Lớn sản xuất các loại dầu ăn và dầu công nghiệp và bắt đầu từ năm 1932, ông mở thêm nhà máy làm xà bông từ dầu nông sản. Vào thời gian này và trước đó, hầu hết xà bông dùng trong nước và ở Đông Dương là nhập cảng từ Pháp. Chỉ có một số ít xà bông làm từ các xưởng nhỏ thủ công ở Chợ Lớn với chất lượng kém nên có giới hạn rất nhỏ và càng không thể cạnh tranh và so sánh với xà bông nhập từ Marseille, một thành phố Pháp.

Xà bông là sản phẩm mang lại cho ông nhiều tiếng tăm và tiếp cận mọi người nhiều nhất. Tên của Trương Văn Bền gắn liền với xà bông Việt Nam, xà bông “Cô Ba”. Hãng xà bông của ông tọa lạc trên đường Rue de Cambodge (nay là Chợ Kim Biên, quận 5). Công ty của ông gọi là Trương Văn Bền và các con – Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils – Huilerie et Savonnerie Vietnam). Xưởng dầu của ông ở Chợ Lớn mỗi tháng sản xuất khoảng 1500 tấn dầu dừa và hãng xà bông Trương Văn Bền sản xuất khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine trong năm 1943, vào thời kỳ khó khăn ở nhiều nước do chiến tranh đệ nhị thế chiến. Công ty Trương Văn Bền và các con là công ty quan trọng nhất sản xuất dầu và xà bông trên toàn cõi Đông Dương.

Xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” được nhiều người ưa chuộng vì chất lượng tốt và giá phải chăng cho mọi người tiêu dùng. Trên thị trường, xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” đánh bạt xà bông thơm “Mac Xây” (Marseille) của Pháp nhập từ chính quốc. Ngoài Việt Nam, xà bông “cô ba” được dùng rộng rãi ở Lào và Cam Bốt, được xuất khẩu qua Hong Kong, Tân Đảo (Nouvelle Caledonie) và một số các nước châu Phi.

Trương Văn Bền là một doanh nhân luôn tìm hiểu với tầm nhìn xa và nhạy bén đến những áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất thực tiễn và đầu tư khuếch trương tìm những hướng đi mới. Với đầu óc thoáng và rộng rãi, ông đã thiết lập thành công cơ sở sản xuất và kinh doanh của công ty ông rất hữu hiệu và hiện đại. Ông không tự tìm hiểu và học hỏi để trở thành chuyên viên làm xà bông có chất lượng tốt như nhiều người lầm tưởng. Ban đầu ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Lúc đó đã có hai nhà máy làm xà bông của Pháp ở Saigon do các ông Mazet và Boris làm chủ.

Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau (2):

“ Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to : “Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.

Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, lấy tên Việt-Nam đặt cho xà-bông, gọi Savon Việt-Nam để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà-bông Việt-Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.

Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của một người phụ nữ “cô Ba” với nét đẹp có duyên Nam bộ, nhưng biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện và quen thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi. Một trong những tin đồn huyền thoại dân gian kể lại thì “Cô Ba “ chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Theo ông Hứa Hoành (1) thì cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý, đưa hình ảnh “Cô Ba”, người đẹp huyền thoại trong dân gian làm nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình bán chạy. Nhưng các giai thoại và tin đồn như trên về “Cô Ba” đều không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền là một. Vả lại, trước kia trong phong làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tương bằng đồng đen hình vợ ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông (2).

Với sự ra đời của hãng xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam hãnh diện có được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai.

Trong sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng hiện nay như Bill Gates của Microsoft. Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền. Trong các cuộc triển lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sài Gòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết kế ấn tượng nhất với mô hình một cục xà bông khổng lồ gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của ông (3).

Sau đây là là vài đoạn trong nhật ký của ông Trương Văn Bền (2):

« Thấy xà-bông bán chạy tôi làm thêm một chảo nữa. Nay nhiều thêm thì phải làm quảng cáo dữ mới bán được. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt-Nam chế tạo về bán, chi trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua. Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà-bông Việt-Nam bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu « Sao không buôn xà-bông Việt-Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn xà-bông khác nhiều ». Hết người này tới người khác, thét rồi chủ tiệm cũng phải đẻ ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà-bông Việt-Nam, cho người mua thử về bán. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của Xà-bông Việt Nam, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu Xà-bông Việt Nam. Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên Xà-bông Việt-Nam bán chạy lắm ». (Đoạn này cho biết là năm 1922, ông  đã dùng quảng cáo để bán hàng)

« Nhờ sức mạnh của quảng cáo, xà-bông Việt-Nam tiến phát mau lắm, chỗ nào cũng buôn xà-bông Việt-Nam, ai nấy chỉ dùng xà-bông Việt-Nam thôi. Thấy mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà-bông để tranh dành, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà-bông « Con Cọp », Balet ra xà-bông « Nam-Kỳ » cũng đầu người đờn bà như Việt-Nam, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông « 3 sao » ở Cần Thơ, v.v. nhưng tranh đua không lại Xà-bông Việt-Nam, đều bị thất bại, bỏ cả. Số sản xuất của Xà-bông Việt-Nam lần lần lên tới 200 tấn, bán cùng Saigon, lục tỉnh, Trung kỳ, Bắc kỳ, Ai lào, Cao miên. »

« Năm 1941, tôi chịu cho sở binh lương một ít lợi quyền, nên bán được giá cao, chở đi Madagascar, Réunion, v.v. Mấy xứ thuộc địa Pháp này vẫn mua xà-bông Mạc-Sây, nay chiến tranh giao thương bế tắc nên phải mua của tôi, mà chính là mấy hãng ở Mạc-Sây thiệt thọ mua để bán đi các nơi ».

Ông cũng cho biết: « Trong 6 năm thế giới chiến tranh (1939-1945) mấy hãng dầu và xà-bông làm ăn tấn phát lắm, một cơ hội may cho mấy hãng Tây như Borris, Mattrat và Delaunay, vì chiến tranh, việc xuất nhập cảng khó khăn. Trong ủy ban giám đốc hầu hết là người Pháp nhưng tôi là nhân viên Hội đồng quản hạt, hãng xà-bông của tôi lại sản xuất nhiều hơn họ nên họ phải để tôi làm Chủ tịch ».

Vì thế cũng không lạ gì, tên tuổi và sản phẩm của Trương Văn bền nổi tiếng và là niềm tự hào của nhiều người, nhất là ở trong Nam. Mặc dầu ông mất từ năm 1956 nhưng cho đến đầu thập niên 1970, nhiều người vẫn còn nhắc đến ông với sự kính trọng trong tình đồng bào và tình cảm thân cận gần gũi như trong nhà. Ông đã chỉ ra và làm gương cho nhiều người đi sau để khuếch trương tiềm năng tháo vát sáng tạo và tinh thần của người Việt Nam trong kinh tế và thương mại.

Cũng theo ông Hứa Hoành (1) thì trong bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng (trong khi đó, giá vàng khoảng 60 đồng/lượng). Điều này chứng tỏ công ty Trương Văn Bền và các con là một trong những công ty làm ăn rất phát đạt ở Đông Dương tạo ra của cải công ăn việc làm cho bao người và thúc đẩy kinh tế phát triển trong nhiều lãnh vực.

Sau năm 1948, Trương Văn Bền rời Việt Nam và sống tại Paris. Ông trở thành hội viên của Phòng thương mại Quốc tế (International Chamber of Commerce) và đi chu du khắp nơi trên thế giới. Ông viết hồi ký ở Paris và khi ông mất, anh Phillipe Trương cho đến nay giữ tập hồi ký này của ông. Ông Trương Văn Bền cũng là bạn ông Hui Bồng Hỏa (chú Hỏa), gia đình hai bên thỉnh thoảng thăm viếng ở Saigon và Nước Ngọt nơi hai ông có cư dinh (2).

Ông Bền có nhiều con, trai lẫn gái. Một người con là ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (lập năm 1953) tại Sài gòn và là tổng giám đốc công ty xà-bông Việt Nam từ 1959 đến 1965. Ông Trương Khắc Huệ, sau khi tốt nghiệp trường đại học hóa học tại Marseilles, tham gia vào công ty Trương Văn Bền làm giám đốc kỹ thuật từ năm 1945 đến 1965 và tổng giám đốc từ năm 1965-1970. Ông Huệ cũng là hội trưởng nghiệp đoàn kỹ nghệ dầu và xà-bông miền Nam Việt Nam (1965-1975) và là tổng thư ký Tổng Đoàn Công Ty kỹ nghệ Việt Nam (1969-1975). Trong thời gian này, ông Trương Khắc Huệ là nguời tạo ra những sản phẩm mới như xà-bông hương ngài và nhứt là bột giặt (2). Người con trai út, ông Trương Khắc Cần, quản lý công ty từ năm 1970 đến 1975. 

Thời kỳ sau khi Trương Văn Bền mất, từ năm 1959 cũng là thời kỳ nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam. Xà bông Việt Nam của Trương Văn Bền vẫn chiếm lĩnh phần lớn thị trường cho đến khoảng giữa thập niên 1960, khi hàng hóa, xà bông, bột giặt Mỹ bắt đầu tràn ngập miền Nam. Các công ty mới ở Việt Nam cũng thành lập sản xuất bột giặt thay thế phần lớn nhu cầu dùng xà bông để giặt giũ. Công ty Trương Văn Bền và các con, lúc đó đã đổi thành Hãng xà bông Việt Nam, vẫn nỗ lực cạnh tranh, sản xuất thêm sản phẩm bột giặt Việt Nam cạnh tranh với các loại bột giăt Mỹ và bột giặt Viso của ông Trương Văn Khôi.

Sau năm 1975, nhà nước mới trưng thu một phần cơ sở của Hãng Xà bông Việt nam để trở thành Nhà máy hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh với tập đoàn Proter & Gamble lập một nhà máy mới ở Bình Dương (1).

Một thời quá khứ ngang dọc vang danh của nhà kỹ nghệ và doanh nhân nổi tiếng Việt Nam nay chỉ còn là ký ức. Một nghĩa cử tốt đẹp ít nhất chúng ta nên có để nhớ tới một trang lịch sử doanh nghiệp rất đáng tự hào, gương sáng cho tương lai và thế hệ mới ngày nay trong thời đại toàn cầu hóa. Cần ghi lại, phổ biến, khuyến khích học hỏi tinh thần doanh thương, mạo hiểm trên doanh trường nhưng đầy trách nhiệm với xã hội của Trương Văn Bền. Công ty Phương Đông ngày nay cũng nên tự hào ghi vào lịch sử công ty của mình những thành tích đáng khâm phục của người tiên phong mở đường cho công kỹ nghệ doanh thương Việt Nam. 


Tham khảo

(1)            Hứa Hoành, Những nhà phú hộ và người lừng danh ở Nam kỳ, http://namkyluctinh.org/a-lichsu/huahoanh/huahoanh-phuho%5B4-kynghe%5D.htm
(2)            Phillipe Truong, theo thông tin trong các điện thư do Phillipe gởi cho tác giả
(4)            Gouvernement general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine, Session ordinaire de 1939, Imprimerie d'extreme-orient, Hanoi, 1940, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56273414.image.f115.
tableDesMatieres
(5)            Gouvernement general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine, Session ordinaire de 1938, Imprimerie d'extreme-orient, Hanoi, 1939, pp. 201-202, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5453910r.image.f203.
image.f000204.tableDesMatieres


Nguyễn Đức Hiệp
Số lần đọc: 1632
Ngày đăng: 12.05.2010