Thursday 2 August 2018

Phòng Từ vựng học (Viện Ngôn Ngữ Học)

Cập nhật: 10/5/2013 - 5:53:44 AM
                Như đã biết,Viện Ngôn ngữ học thành lập chính thức từ năm 5/1968. Viện được thành lập trên cơ sở của "Tổ Ngôn ngữ học" thuộc Viện Văn học và "Tổ Thuật ngữ khoa học" thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Người phụ trách đầu tiên của Tổ thuật ngữ này là cố giáo sư Lê Khả Kế.
Như vậy, có thể dựa vào nguồn thông tin trên mà suy ra rằng, sự ra đời của Phòng từ vựng học bắt nguồn từ Tổ Thuật ngữ khoa học như đã nói ở trên (bởi vì, thuật ngữ vốn là một lớp từ đặc biệt thuộc về hệ thống từ vựng của ngôn ngữ). Thật ra, đó cũng chỉ là một cách nói. Còn trên thực tế, sự ra đời của Phòng Từ vựng học đã trải qua nhiều bước rất thăng trầm.
Đầu tiên,Viện Ngôn ngữ học chưa có phòng nghiên cứu từ vựng độc lập. Cơ cấu tổ chức của các phòng nghiên cứu khoa học lúc đầu mới chỉ có Phòng Việt ngữ học, Phòng nghiên cứu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Phòng Từ điển học, Phòng nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, Phòng nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử và phương ngữ học. Nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng tiếng Việt hồi ấy thuộc về Phòng Việt ngữ học.
Mãi cho đến những năm 1973 - 1974, một nhóm nghiên cứu từ vựng tiếng Việt mới được thành lập và gọi là Ban Từ vựng. Ban này do TS. Nguyễn Văn Thạc phụ trách gồm một số thành viên ban đầu như: Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Đức Tồn, Bùi Duy Khánh, Nguyễn Phương Chi, Nguyễn Thị Hồng Vân,...
Từ đó đến nay, Ban Từ vựng này còn phải trải qua vài lần thay đổi nữa mới có được một Phòng Từ vựng học tương đối "yên vị" như bây giờ.
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nhân kỉ niệm 45 năm ngày thành lập Viện Ngôn ngữ học( 1968- 2013), thay mặt cho Phòng Từ vựng học, tôi xin cảm ơn các nhà Ngôn ngữ học đi trước đã có công xây dựng nên Phòng Từ vựng học hôm nay, đặc biệt là các vị Trưởng phòng qua các thời kì như: cố TS. Nguyễn Văn Thạc, cố GS.TS. Đỗ Hữu Châu, TS.Vũ Thế Thạch và PGS.TS. Hà Quang Năng.
Và cũng nhân dịp này, tôi xin giới thiệu một số thông tin khái quát có liên quan đến Phòng Từ vựng học hiện tại như sau:
1. Trong quá khứ, Phòng Từ vựng học đã từng là ngôi nhà chung của nhiều nhà khoa học đã thành danh như: GS .TS. Hoàng Văn Hành, TS. Nguyễn Văn Thạc, GS.TS. Nguyễn Đức Tồn, PGS.TS. Hà Quang Năng, TS.Trần Đại Nghĩa, TS.Vũ Thế Thạch, TS.Nguyễn Phương Chi, TS. Nguyễn Thị Trung Thành,... Đặc biệt là, trong số các nhà khoa học đó, có hai vị đã từng là Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học qua các thời kì, đó là cố GS .TS. Hoàng Văn Hành và GS.TS. Nguyễn Đức Tồn.
2. Hiện nay, Phòng có 5 thành viên, trong đó một PGS, 2 Thạc sĩ, một NCS và một học viên cao học đang trong giai đoạn chuẩn bị bảo vệ. Trừ vị Trưởng phòng đã đến tuổi nghỉ hưu, tất cả các thành viên khác đều còn rất trẻ, có năng lực nghiên cứu và trình độ tiếng Anh khá tốt.
3. Nhiệm vụ chủ yếu của Phòng Từ vựng học là nghiên cứu từ và các đơn vị tương đương với từ trong tiếng Việt. Vì thế, trong lịch sử cũng như hiện nay, nhiều nhà khoa học của Phòng đã có nhiều cống hiến trong việc làm rõ bản chất ngôn ngữ của các đơn vị từ vựng tiếng Việt như: từ, thành ngữ, từ địa phương, từ nghề nghiệp, thuật ngữ, tên riêng và các biểu hiện khác nhau của từ vay mượn trong tiếng Việt. Bên cạnh hướng nghiên cứu về cấu trúc, các cán bộ của Phòng còn tham gia miêu tả các đơn vị từ vựng tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp như: giao tiếp hành chính, giao tiếp trong nhà trường, ngôn ngữ báo chí,... thậm chí có người còn vận dụng lí thuyết từ vựng học vào việc nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm - tác giả. Nhiều người đã trở thành chuyên gia hoặc có trình độ chuyên môn cao về một số lĩnh vực của từ vựng học tiếng Việt. Chẳng hạn, thành ngữ với Hoàng Văn Hành, từ đồng nghĩa với Nguyễn Đức Tồn, thuật ngữ với Hà Quang Năng, tên riêng với Phạm Tất Thắng,...
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Từ vựng học là rất rộng. Có thể nói, không một ai, thậm chí không một nhóm tác giả nào có thể tiếp cận hết hoặc gần hết những vấn đề rộng lớn và còn nhiều nan giải của lĩnh vực nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ. Vì thế, nhiệm vụ hiện tại và cả trong tương lai của Phòng Từ vựng học là tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu những vấn đề thuộc về Ngữ nghĩa học tiếng Việt cả trên phương diện ngữ nghĩa học từ vựng và ngữ nghĩa học tri nhận. Đây là mảng đề tài tuy khó, nhưng lại hấp dẫn giới chuyên môn ở mức độ biểu hiện đa dạng của các tín hiệu ngôn ngữ gắn liền với văn hóa, với tư duy của cộng đồng ngôn ngữ. Đây cũng là mảng đề tài phù hợp với định hướng nghiên cứu lâu dài của Viện và phù hợp với xu hướng nghiên cứu hiện nay của Ngôn ngữ học thế giới. Rất tiếc là, lực lượng nghiên cứu hiện nay của Phòng còn khá “ mỏng” cả về số lượng người lẫn kinh nghiệm nghiên cứu. Tuy nhiên, họ đều là những người trẻ, thông minh, được đào tạo đúng chuyên ngành và có trình độ ngoại ngữ khá tốt, nên Thời gian sẽ ủng hộ họ.
Tôi vốn là một quân nhân chuyển ngành về Viện từ năm 1985. Trong thời gian khá dài công tác tại Viện, tôi đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong quá trình biến đổi và phát triển của Viện ta. Tôi cũng đã vinh dự được tham gia lễ Kỉ niệm lần thứ 35 năm ngày thành lập Viện tại 20 - Lí Thái Tổ. Và sắp tới đây, tôi lại được mừng Sinh nhật Viện lần thứ 45 tại số 9 - Kim Mã Thượng. Tôi rất hồi hộp và chờ đợi đến ngày đó, tôi sẽ được nhìn lại tất cả những gương mặt thân yêu đã cùng tôi làm việc trong những tháng ngày vất vả dưới mái nhà chung là Viện Ngôn ngữ học.
Nhân ngày lễ trọng đại này và để mừng cho Viện ta, Ngành ta ngày càng phát triển, tôi chúc cho tất cả mọi người Hạnh phúc!
                                                                       PGS.TS. Phạm Tất Thắng

Wednesday 1 August 2018

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 – Phần 3 – (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm)

http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/ai-lo-charner-cuoi-ky-19-au-ky-20-phan_19.html)

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20
– Phần 3 –


Nguyễn Đức Hiệp



Số 115 Charner là Tòa nhà Hòa giải (Palais Justice de la Paix), trước đó là nhà thờ St Marie Immaculée. Cạnh bên tòa nhà hòa giải ở số 117 là nhà của ông bà Georges Garros, luật sư biện hộ cho tòa Hòa giải; và cũng là trụ sở của báo Moniteur des provinces (Nhật Báo tỉnh).
Tờ Moniteur des provinces được chính quyền cho ông Georges Garros, luật sư, có phép xuất bản ngày 25 tháng 10 1904 (Écho annamite, 1924/09/03 (A5, N86)). Tờ Moniteur des provinces chủ yếu là một tờ công báo mà ông Phạm Quỳnh cho biết là “dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại ”. Phiên bản tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt (quốc ngữ) được gọi là Nhật báo tỉnh mà chủ nhiệm là ông Nguyễn Văn Của, và chủ bút là Lê Hoằng Mưu. Tờ báo này thành lập năm 1905 chỉ ra sau tờ Nông Cổ Mín Đàm 4 năm. Nguyễn Văn Của cũng là chủ nhà in nổi tiếngImprimerie de l’Union có cơ sở in ấn trên đường Catinat và đường Taberd. Nhật báo tỉnh có các bài viết của ông Gilbert Trần Chánh Chiếu kêu gọi canh tân xã hội Việt Nam.
Ông bà luật sư Georges và Clara Garros là người Pháp sanh trưởng ở đảo Réunion. Gia đình ông bà Garros đến Saigon lập nghiệp năm 1892. Ông bà có người con trai tên là Roland Garros, lúc đó mới 4 tuổi, sau này Roland là phi công nổi tiếng và là người anh hùng của Pháp trong thế chiến thứ nhất. Roland Garros được nhiều người biết qua giải quần vợt mở rộng của Pháp tại sân quần vợt ở Paris có tên là Roland Garros nhưng hầu như ít tai biết là ông Roland Garros đã trải qua thời niên thiếu ở Saigon trên con đường Charner ở số 117.
Roland khi còn nhỏ ở Saigon đã đi theo cha, giao thiệp nhiều, học và biết nói tiếng Việt. Tuổi trẻ của Roland ở Saigon trên con đường Charner và cạnh tòa nhà hòa giải, nơi cha ông làm việc đã mở mang cái nhìn của Roland rộng hơn về thế giới bên ngoài. Tờ tuần báo “Le Nouvelliste d'Indochine”, xuất bản ở Saigon ra ngày chủ nhật 9 tháng 10.1938 có viết một bài về Roland Garros tựa đề "Une belle figure saigonnaise, Roland Garros" của tác giả Jacques Baroche. Dưới tựa đề bài có ghi chú của một người biên tập ký tên L.N cho biết là Roland Garros học tiểu học và năm đầu trung học ở trường Lycée Chasseloup-Laubat và rất nhiều người Saigon cũ vẫn còn nhớ đã thấy Roland đùa giỡn với người chị gái trước văn phòng của ông George Garros trên đường Charner. Ở Saigon, gia đình ông bà Garros thấy chương trình tiểu học chưa đủ tiêu chuẩn nên bà Clara Garros đã dạy Roland thêm ở nhà theo chương trình cao hơn.
Ông George Garros là một người biết nhiều về xã hội Á Đông, ông viết quyển sách “Les Usages de Cochinchine” xuất bản ở Saigon năm 1915 hướng dẫn người Pháp tìm hiểu về phong tục xã hội ở Nam Kỳ, quyển “Forceries humaines; l'Indochine litigieuse. Esquisse d'une entente franco-annamite” (nxb A. Delpeuch, Paris, 1926) viết về kinh nghiệm, hiểu biết và tư tưởng cấp tiến của ông lúc làm luật sư biện hộ ở Saigon. Ông cũng viết nhiều bài trong sách tham khảo về Đông Dương “L' Indochine 1906” mà ông là đồng tác giả. George Garros là người thành lập báo “Le Courier Saigonnais” và chủ trương tờ báo cấp tiến bảo vệ quyền lợi người bản xứ, “Jeune d'Asie”, cho độc giả cấp tiến Pháp và người Việt đọc được tiếng Pháp và Quốc ngữ. Thuộc thành phần cấp tiến người Pháp ở Nam Kỳ, như Paul Monin và Dejean de la Bâtie, ông ủng hộ chính sách cởi mở của toàn quyền Sarraut và là bạn của nhiều người Việt trong đó có Bùi Quang Chiêu, Lê Hoằng Mưu, Trần Chánh Chiếu. Ông gia nhập làm hội viên Hội tam điểm (franc-maçon), chi nhánh “Le Réveil de l'Orient” ở Saigon (27).
Nhà ông Garros số 117 đường Charner là trụ sở báo Moniteur des provincesNhật tỉnh báo và sau này cũng là trụ sở báo “La Jeune d'Asie”. Ông Garros là một trí thức Pháp sinh đẻ ở thuộc địa nên ông hiểu nhiều về tình cảnh dân thuộc địa so với những người ở chính quốc. Ông có liên hệ và giúp đỡ các ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Văn Của, Lê Hoằng Mưu lập ra tờ báo Moniteur des provinces hay Nhật báo tỉnh có mục đích giúp đỡ người Việt bản xứ biết, tìm hiểu hệ thống hành chánh và tham gia vào công quyền quản lý ở Nam Kỳ. Ngoài ra tờ báo cũng phổ biến chữ quốc ngữ trong đầu thế kỷ 20 tới các tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Năm 1900, ông bà Garros gởi cậu con trai Roland qua Pháp học. Ở Pháp, Roland cũng là tay đua xe đạp đoạt giải vô địch ở Paris năm 1906. Sau khi học xong trung học, Roland đam mê máy bay và hàng không, lúc đó bắt đầu phát triển. Ông tham dự các cuộc đua máy bay qua biển Manche và Tây Ban Nha, và đi qua Mỹ để tìm hiểu thêm về hàng không ở Mỹ. Ông là người đầu tiên bay máy bay băng qua Địa Trung Hải vào năm 1913. Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, phi cơ trở thành công cụ chiến tranh và mang bom do chính phi công cầm tay thả xuống trận địa,
Roland vào quân đội, tham gia ngành không quân mới chớm nở. Ông tham dự nhiều trận không chiến và bắn hạ ít nhất 4 phi cơ Đức. Năm 1915, trong một phi vụ bỏ bom ở Bỉ, phi cơ ông bị bắn rơi, bị bắt tù binh chiến tranh và bị mang về Đức cầm tù. Trong tù để không nhàm chán và có sức khỏe, ông hay chơi quần vợt tennis. Tháng 2 năm 1918, ông trốn khỏi được ngục tù ở thành phố Magdebourg, chạy thoát được đến Hòa Lan, đi tàu qua Anh rồi trở về Pháp. Chuyến vượt ngục tù này của Roland Garros đã gây tiếng vang nhiều nơi trên thế giới và ông trở thành càng nổi tiếng ở Pháp.
Trung úy phi công Roland Garros thi hành phi vụ cuối cùng ngày 5 tháng 10 1918, một ngày trước sinh nhật 30 tuổi của ông và hơn một tháng trước ngày đình chiến chấm dứt chiến tranh, máy bay ông bị bắn rơi trong một trận không chiến. Nước Pháp nhớ ơn ông với nhiều tượng đài và năm 1928 đặt tên sân quần vợt nổi tiếng ở Paris, nơi giải mở rộng được tổ chức, với tên là sân quần vợt Roland Garros. Bạn học ông thời trung học là Émile Lesieur khi là chủ tịch “Stade français”, năm 1928 đã đặt tên sân tennis sắp xây để tổ chức giải “Davis Cup” mà Pháp thắng kỳ tranh giải trước đó, là tên người phi công và lực sĩ tài hoa.
Ở đảo Réunion nơi ông sinh thành, con đường gia đình ông xưa kia ở trở thành đường Roland Garros và phi trường chính ở đảo Réunion hiện mang tên Roland Garros. Ở Saigon thời Pháp, nơi ông trải qua thời niên thiếu, năm 1919 đường Némésis được đổi tên là rue d’aviateur Roland Garros (nay là Thủ Khoa Huân).



Hình 20: Roland Garros trên phi cơ Morane-Saulnier

*

Số 125 là cửa tiệm bán bánh mì nổi tiếng của ông Louis-Roux. Bánh mì của ông Roux ngon nổi tiếng Saigon và ông còn có nhiều cửa tiệm bán khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Trên tờ Nông Cổ Mín Đàm (như số báo ngày 26/12/1901) có quảng cáo như sau (giữ nguyên chính tả của câu văn thời đầu thế kỷ 20 như trong báo)

Phố bánh mì thiệt thợ Langsa làm
(của ông Roux)
Nội Saigon có một phố hàng này mà thôi ở tại đường Charner (tục danh đường Kinh Lấp) số 125. Xin anh em chớ lộn.
Có tiệm ngánh trước nhà thờ Tân Định (Cầu-kiệu)
Tiệm ngánh tại Chợ Lớn đường Marins.
Mỗi bữa sớm mai và chiều đều có bánh mới sốt dẻo và bánh sừng-bò chẩy beurre (bánh mặn).
Ngày chủ nhật, thứ ba và thứ năm có bánh tròn mặn, bánh bò chế mật.
Tại tỉnh Mỹ Tho
Tiệm ngánh ở đường mé sông chợ số 10. – Mỗi bữa đều có bánh mì mới.
Bán đủ đồ vật thực đựng hộp nhứt hảo hạng. – Có rượu chát, rượu bìere, limonades.
Có trữ nước đá.
Đủ thuộc y-dược tây
Nội hạt ai mua vật gì thì xin gởi mau mắn và tử tế hết sức.
Còn ở các hạt Tân-an, Bến-tre, Cái-bè, Cần-thơ, Hà-tiên, Sốc-trăng, Vĩnh-long và Sa-đéc, an hem ai muốn mua vật chi thì xin gởi thơ cho tôi, tên Roux tại Mỷtho.
Tại Cap Saint Jacques
(Vũng Tàu)
Có tiệm và lò bánh mì tại đường Lanessan. Lảnh nạp bánh cho các cơ binh. – Có gởi bánh mì qua bán tại Bà-rịa.
Tỉnh Biên-Hòa
Có đễ bánh mì bán tại phố Châu-trân-Lang, là nhà hàng bán dồ phẩm thực.
Ai muốn mua bánh đễ lâu đặng đi đường, hay là đi rừng di rú thì cũng có bán.

(chú thích: langsa tức người Pháp, phiên âm từ chữ Français)
Bánh mì của ông Roux đã phổ thông hóa đến khắp tầng lớp người Việt ở Nam kỳ lục tỉnh và trở thành món ăn của người Việt thường dùng, với một số cải biến ở nhiều vùng. Số 131 bán thuyền ca nô (canot) và xe hơi của ông Ippolito. Số 133 là văn phòng và nhà của thương gia, ông Guillaud và số 135 là văn phòng và tư gia của ông bà Paris, luật sư biện hộ ở tòa án. Sau này nơi đây là trụ sở công ty Société des Garages Charner, bán và sửa xe hơi. Ngày nay địa điểm này là Khách sạn Kim Đô. Cạnh bên ở số 135bis là tư gia của ông chủ tiệm bánh mì (boulangerie française), ông Louis-Roux mà như ta đã đề cập bên trên ở ngay góc đường Charner và Bonnard.

*

Sau này số 135 và 135bis là cửa tiệm của công ty Bresset et Cie (số 135) và cửa tiệm bán xe đạp và xe hơi của ông Muet (số 137). Đến đầu thập niên 1920 tại đây, sau khi mua lại các căn phố ở góc đường Charner và Bonard, công ty Société colonial des Grands Magasins vào năm 1924 đã xây và khánh thành cửa hàng to lớn Grand Magasins Charner (GMC) tức Thương xá Tax ngày nay. Qua bên kia đường Bonnard là số 141 Charner nơi ông bà Milanta, làm nghề tiếp đón dẫn khách, cư ngụ mà sau này được phá đi và xây lại to lớn hơn thành salon bán xe hơi của ông Bainier.


(a)

(b)
Hình 21: (a) Tòa nhà Établissement Bainier bán xe hơi của ông Émile Bainier, địa điểm này ngày nay là Khách sạn Rex (b) Garage Charnersố 131 đại lộ Charner và trụ sở công ty Société des Garages Charner ở số 131-133 cạnh bên Grand Magasin Charner (GMC).

Garage Charner là đại lý độc quyền bán các xe hơi Delage, Renault, Panhard, Monet-Goyou. Ngoài ra còn có các loại xe Lavassor, Rochet, Schneider, Benjamin, vỏ xe hơi Dunlop Cord. Đặc biệt Garage Charner là đại lý của công ty sản xuất xe hơi Renault cạnh tranh với công ty Établissement Bainier(cũng trên đường Charner) đại lý cho công ty sản xuất xe hơi Citroen. Ngoài ra, Garage Charner còn bán các động cơ kỹ nghệ và động cơ tàu trên sông và biển. Garage Charner là do công ty Société des Garages Charner điều hành, một công ty con của công ty Compagnie de Commerce et de Navigation d’Extrême-Orient (cơ sở ở tòa nhà mà nhà nhiếp ảnh Planté có văn phòng, số 10 Charner). Cuối tháng 6 năm 1929, nơi đây có xảy ra một trận hỏa hoạn lớn phá hủy tất cả bên trong garage, thiệt hại ước lượng từ 60000 đến 80000 piastres. Hỏa hoạn này tuy vậy không ảnh hưởng đến tòa nhà GMC bên cạnh. Trong tờ tạp chí “Bulletin du Syndicat des planteurs de caoutchouc de l'Indochine” ngày 12/12/1923 có đăng quảng cáo như sau:


Automobilists !
Avant de fixer votre choix, visitez les grand magasins d’exposition de la
Société des Garages Charner
131-133 Boulevard Charner 131-133
Saigon
Agence exclusive pour l’Indochine des plus grandes marques française automobiles
Panhard-Levasor-Rochet-Schneider-Delage-Benjamin
Demandez-nous le catalogue & renseignements
Ateliers modernes de reparations
Stock de pièces de rechange – Stock pneumatiques Dunlop Cord

Ở góc đường Charner và Bonnard là auto-hall và garage của Établissement Bainier d'Indochine (É. Bainier) của ông Bainier. Sau nầy E. Bainier đổi qua đối diện bùng binh đường Charner và Bonnard ở số 141 Charner (vị trí khách sạn Rex ngày nay). E Bainier d'Indochine có cơ sở và garage khắp Đông Dương: Saigon, Hanoi, Phnom Penh, và ở các tỉnh như Bạc Lieu, Battanbang, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Kampot. E. Bainier là đại lý bán các xe của hãng Citroen.
Ông Émile Bainier đến lập nghiệp ở Saigon vào khoảng năm 1908 (15). Là một người có đầu óc kinh doanh, ông tiên phong đi vào thị trường mới, thị trường buôn bán xe hơi. Lúc nầy xe hơi bắt đầu phổ thông trên thế giới. Ở Đông Dương thị trường này con rất sơ khai. Đa số người Saigon di chuyển bằng hệ thống giao thông công cộng, xe lửa, xe tramway, hay cá nhân qua xe ngựa, xe kéo. Năm 1909 chính ông đã lái xe buýt giới thiệu phương tiện chuyên chở công cộng dùng xe buýt cho nhiều quan chức và nhân viên chính quyền trên đường phố Saigòn. Không lâu sau ông thiết lập auto-hall, cửa hàng bán xe hơi, trên góc đường Bonnard (21 Bonnard) và Charner (100-102 Charner) bán các loại xe DarracqUnicDodge BrothersCitroën (15).
Không lâu, công ty của ông (E. Bainier) thành công trong thương trường và ông xây thêm cửa hàng auto-hall ở đối diện chéo với bùng binh Chaner và Bonnard (tiền thân của khách sạn Rex ngày nay) vào năm 1927 chỉ vài năm sau khi thương xá Tax (GMC) khai trường vào năm 1924. Nơi đây được coi như là auto-hall lớn nhất Viễn Đông vào lúc bây giờ. Vua Cam Bốt năm 1928 khi viếng Saigon đã đến xem các xe trong auto-hall của ông Bainier. Khủng hoảng kinh tế bắt đầu năm 1929 đã làm công ty Établissements Bainier lỗ lã trong gần suốt thập niên 1930s nhưng sau này ông đã khôi phục lại,Établissements Bainier thua lỗ lớn nhất là vào các năm 1932, 1933 và 1934. Theo thông tin từ các buổi họp thường niên cổ động đăng trên tờl'Infornation d'indochine (14). Năm 1935 số vốn của công ty là 666000 piastres, đến năm 1936-1940 số vốn chỉ còn lại là 264000 piastres.
Ông Bainier là một nhà kinh doanh có chí, kiên nhẫn và rộng lượng, theo tờ Echo Annamite (Tiếng vọng An Nam) ngày 22/1/1927, thì ông Bainier đã cho phép trụ sở mới vừa xây của công ty ngay góc đường Charner và Bonnard được dùng làm nơi hội họp của một ủy ban tổ chức lễ hội (foire) lấy tiền cứu trợ nạn lụt ở Bắc Kỳ (16). Ông Emile Bainier mất vào năm 1941 ở Saigon. Vợ và con ông tiếp tục cơ sở kinh doanh xe hơi của ông cho đến năm 1953 thì họ trở về Pháp. Vợ chồng hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Thi, Nguyễn Thị Nguyệt Nga mua lại tòa nhà Bainier và phá đi để xây lên khách sạn Rex, rạp chiếu phim và các cửa hàng mà cho đến ngày nay vẫn còn hầu như nguyên vẹn.
Số 145 Charner là Café Américain của bà Nault. Số 145 là cửa hàng bán quần áo thời trang của bà Clérian và số 149, là cửa tiệm của ông Gauthier cho thuê xe kéo (pousse-pousse). Nếu đầu đường Charner gần chợ Cũ là các cửa tiệm của người Hoa thì từ số 151 đến cuối đường bên dãy số lẻ đa số là các cửa tiệm may mặc của người Ấn (Abdoulcader, 151, Goulamecader 157, Abdoul-Hakime 161, Mouhamat-Mastam 163).

*

Bây giờ ta đến trước tòa nhà cuối cùng nằm trước mặt đường Charner, ở đường rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Đó là tòa thị sảnh thành phố, Hôtel de Ville, (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố). Gần nửa thế kỷ sau khi Pháp chiếm Saigon, tòa thị sảnh thành phố Saigon mới thật sự hiện diện. Sau nhiều năm tranh cãi, cuối cùng địa điểm và đề án xây tòa thị sảnh thành phố được Hội đồng quản hạt chấp thuận. Tòa thị sảnh được xây từ năm 1901 đến 1908 trên một vùng đất cao ở cuối đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay), nhìn xuống tận đầu đường ở gần sông Saigon. Tháng 2 năm 1909, đúng 50 năm sau khi Pháp chiếm thành Saigon, tòa thị sảnh thành phố được khánh thành dưới sự hiện diện của toàn quyền Đông Dương (9).
Tòa thị sảnh được xây bởi kiến trúc sư Paul Gardès và được trang trí kiến trúc bên ngoài bởi nhà điêu khắc trẻ tuổi có tài, ông Louis-Lucien Ruffier. Tư liệu về tiểu sử ông L. Ruffier ít có, chúng ta chỉ được biết qua các tài liệu chính thức xuất bản ở Saigon. Ông Ruffier sinh ngày 26/5/1861, năm Pháp chiếm Saigon, và ông đến Saigon năm 1882 vào lúc mới 21 tuổi. Có thể ông theo cha là một người quản lý tàu Mouhot của hãng chuyên chởMessageries Fluviales de Cochinchine, người này tên là Ruffier (commisaire), sau đó gia nhập sở tư pháp năm 1894. Cũng khoảng thời gian này (1893), Charles Ruffier (em Louis-Lucien Ruffier ?) cũng vào sở tư pháp (24).
Năm 1882, ở Nam Kỳ có bệnh dịch tả cấp tính lan khắp các tỉnh thành ảnh hưởng đến tất cả dân số từ người Việt, Hoa đến Âu. Lúc này chưa có thuốc chủng và nghiên cứu nguyên do bệnh từ đâu. Chỉ từ ngày 1/6/1882 đến 15/10/1882, bệnh dịch tả đã làm 19162 người Việt tử vong. Ở Nam Kỳ, tỉ lệ chết là 1.26 % dân số. Trong khi ở Saigon, cứ 100 trường hợp bệnh thì 73.6 ca là tử vong, một bệnh làm dân chúng vô cùng sợ hãi. Louis Ruffier vừa đến Saigon thì mắc phải bệnh dịch tả, một trong 18 người Pháp mắc phải bệnh. Chỉ 10 người sống sót sau đó trong đó có Louis Ruffier (19).
Sau khi thoát chết, trở lại cuộc sống ở Saigon, Ruffier có khiếu điêu khắc và năng khiếu của ông được biểu lộ khi ông tạc bức tượng Buste de la Republique. Lúc này Saigon có nhiều công trình xây dựng các tòa nhà, công sở dưới sự điều hành bởi thống đốc dân sự đầu tiên Le Myre de Vilier và do đó có nhiều nhu cầu điêu khắc trang trí các nơi ở thành phố, và chỉ trong một thời gian cho đến cuối thế kỷ 19 Saigon đã mang sắc thái của một đô thị Pháp với các kiến trúc tiêu biểu, nhà thờ, dinh thống đốc, tòa án, dinh phó thống đốc,.. Năm 1883, ông Ruffier có đề nghị Hội đồng Quản hạt mua bức tượng Buste de la Republique để trang trí ở các công trường công cộng mà ông đã bỏ công làm. Hội đồng Quản hạt đã gởi các ông Fabre, Jourdan và Schroeder đến Palais de la Justice (Tòa án) nơi bức tượng của ông Ruffier được trưng bày. Mặc dầu tượng đẹp và có nghệ thuật, ông Schroeder đã đề nghị với Hội đồng Quản hạt không mua bức tượng (20).
Tuy vậy chỉ hai năm sau, các công trình điêu khắc của nhà điêu khắc trẻ Louis Ruffier sau khi được trưng bày ở các lễ hội như ngày 14/7/1885 đã làm thay đổi ý kiến của nhiều người trong Hội đồng Quản hạt trong đó có ông Schroeder. Trong phiên họp ngày 16/12/1885, các ông Blanchy, Garcerie, Schroeder, Jame, Jouvet, Branzell đã đề nghị Hội đồng Quản hạt cấp 10700 franc để Ruffier hoàn thành bức tượng tượng trưng cho nước Pháp trang hoàng cho thành phố mà trong dịp lễ vừa qua, ông Ruffier đã trưng bày một số các tượng được dân chúng tán thưởng. Sau khi tượng hoàn thành, có thể sẽ làm luôn tượng đồng với kinh phí tối đa là 25000 francs (21). Nhưng ông Carabelli lên tiếng nói là giá quá cao và cho rằng tượng của Louis Ruffier chưa đạt được tiêu chuẩn. Carabelli đề nghị gởi nhà kiến trúc điêu khắc trẻ Ruffier học thêm 2 hay 3 năm ở Trường Mỹ thuật. Ông Schroeder bảo vệ Ruffier cho rằng mặc dầu còn trẻ nhưng rất tài năng, Ruffier chưa đạt được như nhà điêu khắc nổi tiếng Falguière (1) nhưng công trình của Ruffier xứng đáng được dựng ở thành phố. Hội đồng Quản hạt đã thông qua đề nghị cấp tài chánh cho ông Ruffier để làm tượng với đa số phiếu.
Bắt đầu từ đây, sự nghiệp của Louis Ruffier càng đi lên. Ngày 3/4/1888 ông được có chức danh chính thức là điêu khắc gia và được bổ nhiệm ăn lương vào làm chức điêu khắc gia thành phố ngày 27/10/1888 (22). Năm 1898, Ruffier được chính quyền cấp 1000 francs cho một công trình để triễn lãm ở Hội chợ thế giới 1900 ở Paris (23).
Công trình lớn nhất của ông là điêu khắc các tượng, phù điêu trên Hôtel de Ville của Saigon. Ngày nay khi ta nhìn các tượng điêu khắc trên tòa nhà Ủy ban Nhân dân Thành phố, ta không thể khen thầm sự uy nghi và đầy mỹ thuật ấn tượng của công trình của ông.
Cuộc đời của Louis-Lucien Ruffier đến giây phút chót này cũng có nhiều gay cấn. Sau khi hoàn thành Hôtel de Ville, ông đã có xích mích với chính quyền về các hợp đồng của ông với chính quyền thành phố trong lúc thực hiện xây dựng điêu khắc tòa nhà Hôtel de Ville. Ngày 23/6/1912, ông đã đưa đơn lên Hội đồng Quốc gia (Conseil d’État) ở Paris, cơ quan có thẩm quyền tối cao nhất, yêu cầu hủy bỏ sắc lệnh ngày 14/9/1908 của Hội đồng quản lý (Conseil d’Administration de Cochinchine) vì sắc lệnh này đã bác sự đòi hỏi bồi thường ông 20000 francs vì thành phố không làm đúng hợp đồng điêu khắc các tượng trên Hôtel de ville trị giá 100000 francs ký năm 1898. Theo đó thành phố đã xây trễ và do đó ông không có việc trong hai năm. Sắc lệnh của hội đồng quản lý Nam kỳ cũng đòi ông lại 60000 francs vì ông đã không làm giai đoạn hai của điêu khắc trang trí Hôtel de ville. Kết cuộc là Hội đồng Quốc gia ở Pháp đã bác đơn kiện của Louis Ruffier.

Hình 22: Lễ hội (có lẽ là 14/7) trên đường Charner. Theo dấu trên con tem và chữ ký thì carte này gởi đi vào tháng 12 năm 1907. Carte của nhà nhiếp ảnh George Planté biên tập. Planté mất tại Saigon năm 1921. Văn phòng nhiếp ảnh của ông ở đại lộ Charner nơi ông dọn đến vào năm 1905


Hình 23: Lễ hội rước rồng (festival de dragon) trong ngày lễ tết Đoan Ngọ của người Hoa trên đường Charner, trước Hôtel de Ville.

Hội đồng thành phố (Conseil municipale) được bầu năm năm 1882 bởi cử tri Pháp và cử trí An Nam có 11 đại biểu Pháp (trong đó có ông Foulhoux, Lacaze, Cazeau, Vienot, Reynaud, Coste, Niobey, Cardi, Houdinet, Cornu, Peré) và 4 đại biểu An Nam (Trương Minh Ký, Lê Văn Vân, Lê Văn Thông, Nguyễn Văn Bình), với nhiệm kỳ 6 năm trong đó phần nửa sẽ được bầu lại sau 3 năm. Hội đồng thành phố họp lần đầu tiên vào năm 1882 để bầu ra thị trưởng. Ông Cornu được bầu làm thị trưởng. Trước đó thì từ năm 1877 thị trưởng do thống đốc chỉ định từ các đại biểu trong Hội đồng thành phố. Các đại biểu Pháp được cử tri có quốc tịch Pháp bầu, hai đại biểu An Nam (Petrus Truong Vĩnh Ký và Paulus Của), 1 đại biểu người Âu ngoại quốc và 1 đại biểu người Á ngoại quốc (người Hoa) là do thống đốc chỉ định (17).
Ông Paul Blanchy là chủ tịch Hội đồng Quản Hạt và sau này cũng là thị trưởng đầu tiên (1895-1901) được bầu trực tiếp từ từ các cử tri. Ông đến Nam Kỳ năm 1871, ông có vợ người Việt và trở nên giàu có qua gia đình vợ đầu tư trồng trọt và sản xuất tiêu ở Nam Kỳ. Ông chú ý đến quyền lợi người Pháp ở thuộc địa và những người bản xứ giàu có. Ông ưu đãi người Ấn từ Pondicherry có quốc tịch Pháp và nhờ đó có được sự hậu thuẫn của họ trong những lần bầu cử. Ông là một chính trị gia khôn ngoan có thế lực ở Saigon, đặt người của mình vào các vị trí trong công quyền, và vì thế có sự xích mích về chánh sách với toàn quyền Paul Doumer.
Ông Paul Doumer cho rằng ông Paul Blanchy không có đầu óc tổ chức, vô chính phủ (anarchique) và thiếu kỷ luật về quản lý điều hành. Sau khi bị thất thế trong chính trường, Paul Blanchy mất ở Saigon năm 1901, thọ 64 tuổi. Paul Doumer trong hồi ký có viết rằng "một người có quyền bính và để tâm phụng sự cho công chúng chắc chắn sẽ là rác rưởi nếu không gạt ra được ông Blanchy" (12).
Nơi đây tại Tòa thị sảnh thành phố, lần đầu tiên, vào các năm 1933, 1935 và 1937 các ứng cử viên trong Sổ lao động ("liste ouvrière" mà báo tiếng Pháp gọi nôm na là "liste communist") của báo "La Lutte" (Tranh Đấu) trúng cử đại biểu vào Hội đồng thành phố là các ông Tạ Thu Thâu (1935, 1937), Nguyễn Văn Tạo (1933, 1935, 1937), Dương Bạch Mai (1935, 1937), Trần Văn Thạch (1933, 1935) hơn hẳn số phiếu của các ứng cử viên của Sổ lập hiến ("liste constitutionalist", báo Pháp gọi "liste bourgoise") như Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu, Michel My, Huỳnh Văn Đông, Huỳnh xuân Cảnh, Trần Văn Kha (Le Nouvelliste d'Indochine, 01/05/1937, A2, N34)
Năm 1939, các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch thuộc nhóm Troskit đệ tứ quốc tế cũng trúng cử vào Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) với số phiếu như sau
Tạ-thu-Thâu 1.355
Phan-văn Hùm 1.186
Trần Văn Thạch 1.121
còn các ông Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai và Nguyễn Phan Long thuộc nhóm Cộng sản đệ tam quốc tế và nhóm Lập hiến đều thất cử. Nhưng cũng như một số lần trước ông Thâu đã bị nhà cầm quyền làm khó dễ như bãi nhiệm, bắt giam ông qua các lý do như lập hội kín năm 1933 (Le Nouvelliste d'Indochine, 7/5/1939, 6/3/1937, 11/7/1937).
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ngày 16/8/1945 chính quyền ở Saigon được Nhật giao trả cho chính phủ Trần Trọng Kim, ông Khá Văn Cân trở thành thị trưởng Saigon - Chợ Lớn.
Chỉ vài ngày sau đó là cách mạng tháng 8 bùng nổ, các cơ sở công quyền hầu hết vào tay Việt Minh, Ủy Ban Nhân Dân Nam bộ, Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ được thành lập. Ngày 10/9/1945, Ủy ban Nhân dân dọn về Tòa Đô Chánh (Hôtel de Ville) sau khi giao Dinh toàn quyền (Dinh Thống Nhất ngày nay) cho quân Đồng Minh vào Saigon giải giới quân đội Nhật.
Nhưng không bao lâu quân Pháp trở lại và Tòa thị sảnh thành phố Hôtel de ville từ cuối năm 1945 cho đến năm 1975 là trụ sở của hội đồng thành phố và thị trưởng thành phố Saigon - Chợ Lớn. Sau năm 1975, nơi đây là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố.

Tổng luận


Đại lộ Charner, Nguyễn Huệ là con đường chứng kiến nhiều sự thay đổi lớn lao trong lịch sử thành hình đô thị trung tâm Saigon, từ khởi thủy là một con kinh di chuyển theo đường sông, sau khi bị lấp có đường hỏa xa, tramway rồi đến xe hơi đường bộ đầu thế kỷ 20. Cũng trên con đường này các nhân vật lịch sử, kinh tế tài chính đã để lại dấu vết, từ Wang-Tai (Trương Bội Lâm), Émile Gsel, George Planté, Pun Lun (Tân Luân), Phan Chu Trinh, Nguyễn An Khương, Hoàng tử Miến Điện Myingun, Roland Garros, Speidel đến Cường Để, Phạm Quỳnh, Bainier, Blanchy, Ruffier…
Ngày nay đường Nguyễn Huệ chứng kiến một sự thay đổi lớn lao hầu như toàn diện. Các tòa nhà cổ nhất Saigon đang được phá dỡ, các cây xanh bị triệt hạ, cảnh quan thay đổi và thay vào đó sẽ là các tòa nhà, cửa hàng văn minh hiện đại sang trọng không kém các cửa hàng ở New York, và đường sẽ trở thành một quảng trường đi bộ và một phần xe chạy. Nhưng như thế có phải là tốt hơn không về cảnh quan, đặc thù văn hóa xã hội, hay ngay cả về phương diện kinh tế? Với vốn đầu tư trong dự án cải tạo đường Nguyễn Huệ khoảng 430 tỉ đồng, đường Nguyễn Huệ sẽ trở thành đường hiện đại nhất nước như các báo đã đăng tin (Người Lao Động , Báo Mới, 30/3/2015). Với một dự án đồ sộ như vậy, thay đổi cảnh quan một đại lộ trung tâm, nhưng hầu như thành phố không có tham khảo hay có một diễn đàn công luận hay một phương cách nào mà trong đó có sự tham gia ý kiến của các hội đoàn, tầng lớp trong xã hội dân sự bị ảnh hưởng hay có liên hệ trực tiếp, gián tiếp đến sự thay đổi này.

Hình 24 – Đường Nguyễn Huệ, tháng 2.2015 (Ảnh của Tim Doling). Dãy nhà cạnh Sun Wah tower có độ tuổi từ cuối thế kỷ 19 (xem hình 5 và 6 mà nhà nhiếp ảnh Émile Gsel chụp ở thế kỷ 19).
Để có một sắc thái riêng và cảnh quan gắn liền với quá khứ, lịch sử trong đó ký ức đô thị và linh hồn của một thành phố được có đất dung dưỡng thì chúng ta phải có một qui hoạch bảo tồn những công trình có giá trị lịch sử văn hóa đặc trưng cho thành phố. Thành phố Saigon - Chợ Lớn và con người Saigon tượng trưng cho sự hòa hợp hài hòa của các nền văn hóa, một vùng đất mở, cửa ngõ ra thế giới bên ngoài, du nhập và gìn giữ những cái đẹp, mỹ thuật của các nền văn minh. Cải tạo hiện đại nhưng cũng không quên quá khứ lịch sử văn hóa trong một qui hoạch phát triển hài hòa trong đó tiếng nói dân sự phải có chỗ đứng trong quá trình qui hoạch và thực thi các đề án phát triển đô thị. Được sự đồng thuận của cả chính quyền và xã hội thì kết quả của dự án phát triển đô thị sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn là có nhiều bất trắc, bất an và thiếu hiệu quả.

Nguyễn Đức Hiệp



Chú thích:


(1) Alexandre Falguière (1831-1900) là một nhà điêu khắc nổi tiếng ở Pháp. Các tượng của ông như Jeanne d’ArcDianeEveTriomphe de la Revolution(xe ngựa chiến thắng dựng trên Khải hòa môn), General de la FayetteAlphonse de Lamartine là những công trình có tiếng được biết nhiều. Ngoài ra bức tượng La danseuse mô phỏng theo vũ công Cléo de Mérode đã gây nhiều xôi động, tựợng này hiện ở bảo tàng Musée d’Orsay


Tham Khảo


  1. Saigon Republicain, 10/11/1888, A1, N53.
  2. Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888
  3. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.
  4. Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007.
    (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
  5. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore – Saigon – Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-dong-nam-a/1957-singapore--saigon--hong-kong-quan-he-thuong-mai.html
  6. Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aîné (Paris), 1869
  7. Le Monde Illustré 29/7/1865, A9, T17,N433
  8. Le Monde Illustré 24/12/1864, A8, T15,N402
  9. Nguyễn Đức Hiệp, Saigon đầu thế kỷ 20 đến 1945 : Việt Nam thức tỉnh, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/saigon-111au-the-ky-20-111en-1945-viet-nam-thuc-tinh
  10. Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
  11. Cochinchine françaises, Procès-verbaux du Conseil colonial, Session ordinarie 1884-1885, Imprimerie du gouvernement, Saigon 1885.
  12. Oscar Chapuis, The last emperors of Vietnam: From Tu Duc tớ Bảo Đại, Greenwood Press, Connecticut, 2000.
  13. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  14. L'Information d'Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
  15. Tim Doling, Icons Of Old Saigon: Établissements Bainier Auto Hall, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3697-icons-of-old-saigon-etablissements-bainier-auto-hall
  16. Écho Annamite, 22/1/1927, A8, No. 787
  17. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. để l'Union (Saigon), 1917
  18. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
  19. Excursions et reconnaissances, 1882, N14, pp. 372, Imprimerie du Gouvernement, 1882, Paris, Challamel, 5 rue Jacob.
  20. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1883.
  21. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Session ordinaire 1885-1886, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1886.
  22. Annuaire de l'Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
  23. Annuaire de l'Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
  24. Bulletin official de l’Indochine française, N1, P1, 1898.
  25. Recueil du Conseil d’État, 1913, T82, S2.
  26. Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb Trẻ, 2005.
  27. Phillipe Peycam, The Birth of Vietnamese Political Journalism: Saigon, 1916-1930, 2012, Columbia University Press.
  28. Le Nouvelliste d'Indochine, 6/3/1937, 1/5/1937, 11/7/1937, 7/5/1939.
  29. Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.

Tuesday 31 July 2018

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 – Phần 2 – (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỳ Niệm)

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19đầu thế kỷ 20– Phần 2 –



Nguyễn Đức Hiệp




Đường Charner từ năm 1888 đến 1930



Năm 1880, ông Vương Thái đề nghị bán ngôi nhà ông đang ở tại bến Sài Gòn cho chính quyền với giá 45.000 piastres (đồng) tương đương với 225.000 francs. Sau khi xem xét kinh phí mà chính quyền lúc đó đang mướn và tiền quản lý bảo trì căn nhà đó, cùng với số tiền còn đang nợ chưa trả, Hội đồng Quản hạt đã đồng ý bỏ ra 254.000 francs để mua lại căn nhà của ông Vương Thái. Nhà của ông Vương Thái được chính quyền mua lại vào năm 1882.
Sau khi mua lại, chính quyền đã phải bỏ ra nhiều tiền để tu bổ lại. Ngày 23/12/1884 kiến trúc sư A. Foulhoux (chef du service des batiments civils), dựa trên hai báo cáo của ông Sambet, người chịu trách nhiệm sửa chữa ngôi nhà này, làm bản tường trình lên giám đốc sở công chánh (directeur des traveaux publics), ông Caille, về việc tinh trang ngôi nhà Wangtai, làm sáng to hơn đề nghị mua lại và sửa chữa để làm các văn phòng thuế vụ. Bản tường trình của ông Foulhoux được đưa ra Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial), nó cho thấy (11).
(1) Tường nhà được làm bằng các gạch đủ các kích thước và dính với nhau bằng hồ có chất lượng kém và vì thế việc sửa chữa các sàn lầu có nguy cơ sẽ xảy ra tai nạn nguy hiểm.
(2) Ngoài các bức tường thì nền của tòa nhà cũng không thể chịu được nặng thêm 60 tấn khi sửa chữa thay các chất liệu gỗ bằng chất liệu sắt. Vì thế công trình sửa chữa đã được đình chỉ, chờ việc thiết lập một ủy ban xem xét tình hình.
Bê tông của nền nhà được làm bằng hồ loại số 2 có rất ít xi măng, có độ dày thay đổi từ 50 cm đến 1,6 mét. Hầu như không còn thấy các cột được cắm dựng xuống khi bắt đầu làm nền. Có tìm được vài mảnh vỡ mà người ta phải dùng tay kéo ra dài từ 20cm đến 30cm mà đường kính đã bị co lại vài centimet. Phần lớn các tường được sửa chữa gồm có hai thành tường dầy 10cm và ở chính giữa thì trống rỗng. Các tầng lầu cắt ngang những tường như vậy và được dựa trên các thanh đỡ sàn nhà mà ngay các thanh đỡ này lại dựa trên một dàn gỗ đã mục.
Vì thế tất cả những lỗ hổng này đã phải được bồi đắp thêm và sửa chữa lại để tránh sử sụp đổ có nguy cơ sắp xảy ra. Do vậy tiền sửa chữa dự đoán là khoảng 30,000 piastres
Bản tường trình đề nghị phá bỏ hoàn toàn các kiến trúc văn phòng thuế vụ và xây lại với chi phí 75000 piastres.
Trong buổi họp ngày 14/1/1885 ở Hội đồng Quản hạt đã có nhiều ý kiến của các ông Carabelli, Jordan, Schroeder, Garcerie nêu lên câu hỏi về chi phí cao và về hợp đồng sửa chữa và xây giữa nhà thầu Pháp và người Hoa. Cuối cùng Hội đồng cũng biểu quyết thông qua ngân sách 37,000 piastres cho năm 1885 mà trước đó vào năm 1884 đã bỏ ra 37000 piastres cho công trình (11).
Chính ông kiến trúc sư Foulhoux là người sửa và hoàn thành làm lại tòa nhà “maison Wangtai” vào năm 1887 để trở thành tòa nhà “Hôtel des douanes”mà ngày nay là tòa nhà hải quan ở bến Bạch Đằng đầu đường Nguyễn Huệ. Ông Foulhoux còn xây các công trình kiến trúc độc đáo có giá trị ở Saigon, đó là tòa nhà Palais de Justice (1885) (tòa án nhân dân) và Hôtel des Postes (1891) (Bưu điện Saigon).
Tư gia của ông Foulhoux ở số 1 đường Amiral Courbet. Đường Amiral Courbet (trước là đường rue Batavia), đường này không còn sau khi chợ Saigon được xây. Lúc này cũng chưa có đường Trần Hưng Đạo.



Hình 10: Alfred Foulhoux (1840-1892), kiến trúc sư trưởng các tòa nhà dân sự ở Saigon dưới thời thống đốc dân sự Le Myre de Vilers – Ảnh mộ Foulhoux ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Saigon


*



Như đã nói phần trên, ông Wang-tai tên thật là Trương Bội Lâm, nguyên quán ở Quảng Đông. Ông đến Nam Kỳ vào năm 1858. Công ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Saigon, trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các người di dân Trung quốc đến Saigon - Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (4). Năm 1879, ông gởi con ông (Wangtai Foo) và một người Hoa Quảng đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay “Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang.
Sự giàu có và thế lực của ông Vương Thái có thể được biết sơ qua một mẩu tin về buổi mừng sinh nhật ông Vương Thái, một sự kiện mà nhiều người và báo chí Saigon và ngay cả ở Paris thời đó có nói đến. Tờ báo Pháp có tên là Saigon Republicain ra ngày 10/11/1888 đăng như sau
Một sinh nhật
Các con trai của ông Wangtai là Wangtai Suon, quan lại; Wangtai Foo, nhà kinh doanh tại Cam Bốt; Wangtai Suu, thương nhân ở Sài Gòn; Wangtai Pio, Wangtai Xương, sinh viên đang học ở Trung Quốc; Wangtai Khai; Wangtai Sing và Wangtai Thang, muốn làm lễ kỷ niệm sinh nhật thật xứng đáng cho 61 năm sinh thời và 30 năm định cư tại Nam Kỳ của cha mình, một thương gia ở Sài Gòn, nên đã mời toàn bộ dân chúng thuộc địa vào thứ bảy tuần trước để tham dự một bữa tiệc được tổ chức với mục đích này.
Một lều rơm khổng lồ được xây dựng trên Boulevard Charner, trang trí bên ngoài và bên trong là các lá cờ tam tài, màn trướng lộng lẫy và rèm bằng lụa thêu các chữ vàng Trung Quốc với các câu chữ và các con rồng tuyệt vời, Từ tám ngày qua, quà tặng tuôn đổ vào người đồng hương của chúng ta – vì Wangtai, như chúng ta biết, đã là công dân Pháp – không chỉ ở Sài Gòn và Chợ Lớn, mà còn từ cả Cam Bốt, Xiêm La (Siam) và thậm chí từ những nơi xa xôi ở Trung Quốc gởi đến. Chúng bao gồm các mảnh lụa, đồ nội thất cẩn ngọc trai, các con thú vật bằng vải được thêu thật điêu nghệ, các đồ trang sức, cũng có đủ tiền kim loại và tiền giấy. Tập quán văn hóa Trung Quốc rất động lòng mà các chú bác hỡi ôi! quá thường xuyên quên đi đối với các cháu trai của họ trong đất nước xinh đẹp của chúng ta.
Từ chín giờ tối đến một giờ sáng, các khách đã lũ lượt đến! Các bản nhạc quân sự thi nhau trong dịp đại lễ này. Mọi người được tiếp đón bởi Vương Thái, ông ta trông giống như độ tuổi anh trai của các con trai mình. Vị tộc trưởng của sông Hoàng Hà (patriarche du fleuve jaune) đã được bao quanh bởi các con cháu của mình, trong bộ y phục lễ to lớn, lụa màu đen đầy kim tuyến. Những người trẻ nhất trong con cháu của ông quỳ trước quan khách và bắt buộc phải lạy. Chúng ta không phải là dân duy nhất đã phát minh ra những lễ nghi xã giao có tính cách trẻ con và trung thực!
Trong căn phòng lớn, có rất nhiều bàn được trang bày trang trí. Chúng tôi rất hài lòng hỗ trợ thật dũng cảm để tôn vinh cho xứng đáng với những đồ ăn tuyệt vời được mời. Phụ nữ quyến rũ nhất của Sài Gòn đã uống rượu sâm banh rất ngon để vinh danh 61 năm sinh nhật Vương Thái. May mắn cho ông Vương Thái !
Vào lúc 9 giờ, ngài thống đốc toàn quyền và bà Richaud được hộ tống bởi kèm đại úy (capitaine) Dol, có đến nhưng chỉ ở trong một vài khoảnh khắc.
Báo Saigon Republicain, chúc mừng mọi điều tốt và hạnh phúc đến với công dân Vương Thái.”
Không lâu sau, tờ tuần báo “Les tablettes coloniales” xuất bản tại Paris ngày 19/12/1888, có đăng một mẩu tin nhỏ về ngày lễ sinh nhật của ông Vương Thái như sau (2):
Một ngày lễ rất thành công và ấn tượng vừa diễn ra ở Saigon, để mừng sinh nhật thứ 61 và kỷ niệm 30 năm ngày ông thương gia người Hoa tên là Vương Thái đến Saigon. Những người con trai ông Vương Thái và gia đình của họ, những đồng hương và bạn bè của ông trong dịp lễ này đã mời “quí bà, quí ông người Pháp và người Âu ở Saigon, Chợ Lớn và các tỉnh”. Cộng đồng người Âu đã đáp lại lời mời ân cần này.
Đèn đuốc, pháo bông, trình diễn kịch, hát tuồng, không thiếu cái gì trong ngày lễ vui này. Ông Vương Thái là một trong những chức sắc người Hoa được kính trọng nhất ở Saigon; ông không những đã có những cống hiến lớn lao cho đồng bào ông mà còn cho chính quyền Pháp. Vì thế đương nhiên đúng khi người ta đáp lại tương ứng qua sự tham dự hoạt động hòa bình này mà ông là đối tượng”.
Ông Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi (ông sinh năm 1827). Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc trong chính quyền ra bến tàu để tiễn ông. Sau đó có một con đường ở Chợ Lớn được mang tên ông (3).

*

Bây giờ ta hãy bắt đầu duyệt qua hai dãy nhà hai bên đường đi từ đầu đường Charner ở Quai de Commerce (Quai Francis Garnier) đến cuối đường Charner dừng lại trước Hôtel de Ville (Ủy ban Nhân dân Thành phố ngày nay). Theo cách xếp đặt các đường xá trong Saigon thời Pháp thì từ đầu đường đến cuối đường dãy bên mặt là số chẵn và dãy bên trái là số lẻ.
Những thông tin sau đây là tổng hợp các tư liệu theo niên giám Đông Dương các năm 1905, 1906, 1908 và 1933.
Đầu đường Charner về phía bên phải là số 2 Charner, trụ sở của công ty Dumarest et fils d'Indochine. Công ty có trụ sở chính ở Roanne (gần thành phố Lyon), Pháp. Ở Đông Dương công ty có văn phòng ở Saigon và Nam Vang. Vào đầu thế kỷ 20, giám đốc công ty ở Saigon là ông Auguste Rimaud, ông cũng là một hội viên trong hội đồng quản trị trường trung học Pháp-Hoa (Lycée franco-chinois, trường Bác Ái), cũng là phó chủ tịch và sau này là chủ tịch Hội đồng Quản hạt. Công ty Dumarest et fils d'Indochine chuyên về nhập khẩu các hàng như bông vải, chén đĩa, nước hoa, xe đạp, bảo hiểm. Thành phố Roanne và Lyon, trên khu vực sông Loire trung tâm nước Pháp, là chuyên về kỹ nghệ bông vải, tơ lụa, may mặc, giống như Manchester ở Anh. Các công ty và các nhà kinh doanh từ vùng này có kinh doanh và làm ăn rộng rãi ở Viễn Đông (Đông Dương, Trung Hoa) từ cuối thế kỷ 19.



Hình 11: Ảnh này có thể là chụp từ trên tàu trên bến Bạch Đằng. Tòa nhà bên phải hình, nơi có một người áo trắng đứng trước cửa, đầu đường Charner là trụ sở của công ty Dumarest et fils d'Indochine.


Số 8 Charner là cơ sở của công ty Speidel et Cie, của thương gia người Đức, ông Speidel, buôn bán các hàng kim loại. Năm 1914, khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, ông Speidel và các kiều dân Đức bị trục xuất khỏi Đông Dương. Ông mất hết tất cả sản nghiệp kể cả hai nhà máy xay lúa lớn nhất Nam Kỳ bấy giờ ở bến Chương Dương. Số 10 đường Charner là văn phòng và tiệm mua bán máy ảnh của nhà nhiếp ảnh Planté, sau này vào khoảng năm 1933 là của hãng phim Pathe-Orient (13).
Trên báo Phụ Nữ Tân Văn (2/5/1929)Pathé-Orient có đăng quảng cáo như sau:




Vui thú trong gia đình
Cái vui thú trong-bóng nhứt, bền-bỉ nhứt, là cái vui thú trong gia-đình. Trong các sự giải-trí, giúp vui trong gia-đình thì không có vật gì bằng : Máy hát PATHÉ và dĩa hát PATHÉ
Nghe nhạc hay thì có thể đổi tánh tình con người, và nhạc cũng giống một thứ tiếng nói riêng mà tinh thần, trí não chưa tỏ ra đặng.
Lúc trước, nghe máy hát, dĩa hát thì khó ưa thiệt, dọng thì rè rè, tiếng thì khan-khan, nghẹt-ngẹt, khi nào cũng giống dọng ông già khò-khè trong ông. Chớ như bây giờ nghề làm dĩa hát đã tinh xảo lắm. Dĩa chạy bằng kim sắc, lấy hơi điện-khí đã khá rồi, mà mới đây hàng Pathé lấy hơi bản Annam, lại dung máy Vô-tuyến-điện mà lấy; thì hết sức tinh thần, hết sức êm ái, rỏ rang. Hiện bây giờ dĩa hát kim-thời nhứt là dĩa hát Pathé vô-tuyến-điện, tròng đỏ có con gà.
Đàn-bà khôn thì làm gia-đình vui vẽ và nên sắm máy hát PATHÉ\. Chồng khỏi đi chơi lảng phí, con cái tuy là chơi mà mở mang trí nảo.
Máy hát đủ thứ, dĩa hát vô-tuyến điện bán tại:
PATHÉ-ORIENT
10 Boulevard Charner - Saigon


Số 12 là trụ sở của công ty Cie de Commerce et de Navigation d’Extrême-Orient (1910) và công ty Alliatini et Cie. mà sau này (1933) là trụ sở của công ty dầu hỏa Mỹ, công ty The Texas Company (China) Ltd và kế bên (số 14) là văn phòng của ông bà luật sư Marquié, ông bà luật sư Thiollier và công tySociété Bordelaise Indochinoise (SBI). Công ty Société Bordelaise Indochinoise có văn phòng ở Saigon và Hải Phòng, chuyên cung cấp hàng sĩ và lẻ, công ty cũng có in các “carte postale” ở Đông Dương. Sau này (1933) số 14 đường Charner là trụ sở công ty quảng cáo Société de Publicité et d'Affichage de Cochinchine.
Từ số 16 đến 30 là các cửa tiệm của người Hoa và Việt. Số 16 là tiệm làm và bán bánh mì của ông Lương foc (Phúc ?) Tài, số 18 là nhà kho của ông Huỳnh Quoi Nhân, số 20 tiệm bán sỉ của người có tên là A. Ba, số 22 nhà kho của Lương Định. Và cạnh bên là hai tiệm vải, may mặt, tiệm bán túi giỏ của các ông Trần Đông, Trần Các và Trần Hồ ở số 24 và 26. Sau này (1926) số 22-24-26 là cửa hàng sang trọng Magasin Henri Blanc, có quảng cáo đăng trong báo Écho Annamite bán bánh mứt, nước hoa, giỏ, hộp, trái cây (Écho Annamite, 30/12/1926, A7, N768).



Hình 12: Ảnh do nhà nhiếp ảnh Auguste Gabriel Paullussen chụp năm 1921. Trong hình là văn phòng studio "Saigon-photo" của ông ở số 10 Boulevard Charner. Ông nối nghiệp nhà nhiếp ảnh George Victor Planté ở cùng địa chỉ như trên sau khi ông Planté mất vào năm 1921.


Giờ ta hãy nhìn qua phía bên kia đường, số 3-5-7 là Café méridional của bà Lachal. Kế bên chợ là số 9 là Thuận Thành của ông Trương Điền, dỡ hàng và số 11 là ông Ah-Lec, mãi biện cho công ty tàu biển (ship compradore). Trước đó số 7 Charner vào khoảng năm 1869, theo niên giám Nam kỳ thuộc Pháp xuất bản năm 1870 (29) là cửa hàng của nhà nhiếp ảnh nổi tiếng ở Hong Kong là ông Pun Lun (Tân Luân). Tân Luân được coi là nhiếp ảnh tiên phong trong lịch sử nhiếp ảnh Trung Quốc, đã có chụp những bức ảnh chân dung xưa nhất ở Saigon trong các năm 1870 đến 1880, một số ảnh này được chụp ở văn phòng nhiếp ảnh của ông ở số 7 Charner.
Café de Marseille nằm ở Quai de Commerce (bến Bạch Đằng ngày nay) do ông J. Freund làm chủ. J. Freund cũng là chủ của "cafe du Marché" ở đường Rue Amiral-Roze (đường ngang hông chợ Cũ). Số 33 Charner cũng là Café du marché nhưng là do bà Truhaut là chủ. Gần Chợ Cũ, từ số 21 cho đến số 113 cạnh tòa nhà Hòa giải (Justice de Paix ở số 115), đa số là các cửa tiệm của người Hoa bán sỉ và lẻ các hàng hóa, làm nghề xay lúa, bán thuốc phiện, bán bánh mì, thợ sắt, thợ rèn, thợ xẻng cuốc và rất nhiều tiệm bán hàng ngũ kim đồ sửa chữa, làm gia dụng (quincaillier). Đây là vết tích của thời gian khi nơi đây là các cửa hàng buôn bán dọc theo con kinh chợ Vải. Các cửa hàng ngũ kim này phục vụ cho các thương nhân đi ghe từ lục tỉnh đến Bến Nghé để trao đổi buôn bán, họ bán hàng hóa nông phẩm ở chợ Cũ và mua các đồ dùng cần thiết để mang về lục tỉnh. Đến cuối thập niên 1910 và đầu thập niên 1920, các cửa hàng này dần biến mất và nhường chỗ cho Chợ Lớn, nơi vẫn còn kinh rạch và làm hàng ngũ kim sản xuất nhỏ.
Số 49 là tiệm may của ông Nguyễn An Khương, thân phụ của ông Nguyễn An Ninh. Trên lầu là khách sạn Chiêu Nam Lầu, nơi cụ Phan Chu Trinh đã cư ngụ trong thời gian ngắn khi trở lại Saigon từ Pháp. Phan Chu Trinh cũng mất tại Chiêu Nam Lầu.





Hình 13: Chợ Cũ nhìn về hướng Quai de commerce (bến Bạch Đằng), cạnh chợ là tòa nhà có quán Café méridional



Hình 14: Ga trạm tramway ở Saigon (truớc chợ cũ) đi Chợ Lớn – Đằng sau hình là mái nhà gian hàng ở chợ Cũ



Hình 15: Saigon đầu thế kỷ 20 – dãy nhà kế chợ, góc đường Charner và Vannier vẫn còn như trong hình của Emile Gsell chụp năm 1870s (hình 3)



Từ khi chợ Mới được thành lập (chợ bến Thành ngày nay), ba gian nhà ở Chợ Cũ sau này khi phá đi được xây thành tòa nhà ngân khố kho bạc mới thay thế tòa ngân khố cũ trên đường Catinat gần nhà thờ Đức Bà. Công ty Brossard & Mopin trúng thầu xây tòa nhà ngân khố mới Saigon mà ngày nay vẫn còn trên đường Nguyễn Huệ.



Hình 16: Góc đường Charner và Vannier (Ngô Đức Kế). Hình chụp từ đường Charner nhìn về hướng đường Vannier và Catinat (Đồng Khởi).


Trở lại bên kia đường Charner, số 34 là trụ sở của công ty Union Commerciale Indochinoise & Africaine do ông Labbé quản lý. Công ty Union Commerciale Indochinoise et Africaine sau này là công ty mẹ của công ty Société Coloniale des Grands Magasins, sở hữu chủ của cửa hàng bách hóa Grand Magains Charner (GMC) nổi tiếng ở sô 135 Charner.
 Số 38 Charner là cửa hàng của công ty Pachod Frères & Cie, công ty này có trụ sở chính ở số 16 đường Avenue de Saxe, thành phố Lyon, Công ty nhập các hàng mỹ phẩm, xà bông, xe đạp, kim chỉ, vải vóc, rượu... Công ty không những có cửa hàng, chi nhánh ở Saigon, Hải Phòng, Hà Nội mà còn có chi nhánh ở Casablanca, Maroc (Pachod Frères & Cie, Maroc). Ở Đông Dương, Pachod Frères & Cie d'Indochine có bán xà bông cao cấp hiệu Cô-Bà sản xuất ở Lyon, xà bông đựng trong hộp thiết rất đẹp và sang, khác với các loại xà bông nhập từ Marseille, được nhiều người biết tiếng, mà sau này xà bông Việt Nam của ông Trương Văn Bền cạnh tranh với nhãn hiệu hình Cô Ba (hình một người phụ nữ Nam Kỳ búi tóc).

*

Ngay góc đường Charner và rue d’Ormay ở số 52-56 là trụ sở của báo Journal l‘Indochine française, và số 52-54 Café de Provence do bà Genon làm chủ, cạnh bên số 56-64 Hôtel de la Paix  Café de la Paix do bà Soudan làm chủ. Ở dây cũng có Café de l’Orient của bà Tisseyre. Ta có thể thấy trên đường này và nhiều nơi khác ở Saigon - Chợ Lớn, đa số chủ các tiệm café là phụ nữ. Chính ở Café de la Paix mà ông Đỗ Hữu Phương và các nhân vật giàu có và quan chức trong chính quyền như Paul Blanchy, Morin, Bonnet tụ tập ăn uống, trao đổi nói chuyên thì lúc đó ở mé đối diện đường Charner trong dãy phố gần tòa hòa giải (Justice de Paix), ông Nguyễn An Khương, một nhân sĩ trong phong trào Minh Tân, có khách sạn và tiệm may, bán vải ở số 49 Charner. Ông bà Nguyễn An Khương rời Tân An lên Saigon mướn tại đây để mở cơ sở làm ăn.
Từ cái ngày cả gia đình rời Tân An lên Sài-Gòn, ông bà nội tôi mướn hai căn phố liền nhau ở đường Kinh Lấp nay là đường Nguyễn Huệ. Hồi ấy ở đó là một con kinh từ bờ sông Sài-Gòn chảy vào tận nhà Xã Tây. Khi chưa cất nhà Xã Tây người ta gọi đó là Kênh Sài-Gòn. Kênh Sài-Gòn là con kênh đào rộng và thẳng tấp, dọc theo hai bên bờ kênh là hai con đường chạy dài, bờ kênh có cẩn đá ong, có bậc thang lên xuống ở nhiều đoạn. Sau đó kênh Sài-Gòn bị lấp đoạn cuối để xây nhà Xã Tây nên người ta lại gọi là Kênh Lấp. Nhà Xã Tây sau đổi là dinh Đốc Lý, rồi Tòa Đô Chính, bây giờ là Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Hai bên bờ kênh nhà cửa san sát, phố xá nhộn nhịp, dưới bến thì ghe thuyền tấp nập đến tận khuya. Thật là nơi thuận tiện giao thông, nhất là đường sông. Hai căn phố ông bà nội tôi mướn nằm bên trái nhà Xã Tây. Lúc đầu ông bà tôi lập khách sạn cho thuê phòng trọ và mở thử tiệm may vì bà nội và bà cô tôi may rất khéo. Sau này ba má tôi quen thân với ông Diệp Văn Kỳ mới nghe ông nói: “Nghe tiếng bà Chiêu Nam Lầu may khéo nên vua Thành Thái trước khi đi đày sang đảo Réunion đã đến may cả chục áo dài gấm”.
(Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”,)
Không lâu sau nơi đây trở thành tiệm ăn và trên lầu là khách sạn Chiêu Nam Lầu (khách sạn chiêu đãi cho người Việt Nam), nơi nhiều người Việt trong phong trào Minh Tân đến ăn ở, hội họp để tìm cách canh tân đất nước và con người trước sự thay đổi quá lớn lao mà chỉ hơn vài chục năm trước đó xã hội truyền thống Việt Nam vẫn còn khép kín và xa lạ.
Tiệm may đông khách. Thấy chỗ này làm ăn tốt, ông bà nội tôi khuếch trương mở thêm tiệm cơm. Khách sạn lấy tên Chiêu Nam Lầu.
Mục đích của Chiêu Nam Lầu là nơi chiêu hiền đãi sĩ của người Việt Nam, nơi gặp gỡ của anh hùng hào kiệt ba miền, nơi tá túc của những nhà ái quốc Bắc Trung lưu lạc vào Nam”
Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”,
Con trai ông Nguyễn An Khương là nhà yêu nước nổi tiếng Saigon sau này, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Sau khi du học ở Pháp, Nguyễn An Ninh trở về và thay vì an phận cuộc sống đầy tương lai cho bản thân đã dồn hết tâm trí tranh đấu cho công bằng tự do mà ông đã học từ chính nước cộng hòa Pháp dựa trên nền tảng lý tưởng Liberté,Egalité và Fraternité của cách mạng Pháp. Ông viết báo, nói chuyện, hội họp kêu gọi canh tân, chống lại sự bất công của chính quyền thuộc địa. Chính tại Chiêu Nam Lầu mà hoàng tử Miến Điện, Mingoon, đang lưu vong tại Saigon đã có đến và từ đó thân quen với gia đình Nguyễn An Khương. Cô của Nguyễn An Ninh có học cách làm dầu cù là Miến Điện mà sau này Nguyễn An Ninh có lúc phải đi bán dạo dầu cù là để kiếm sống và che dấu hoạt động cách mạng của mình.
Cũng chính tại Chiêu Nam Lầu, số 49 Charner, là nơi cụ Phan Chu Trinh khi từ Pháp trở về nước lúc ở Saigon, đã cư ngụ cho đến khi cụ mất ở đấy vào ngày 24 tháng 3 năm 1926. Đám tang Phan Chu Trinh từ đây đi đến nghĩa địa Gò Công (gần Tân Sơn Nhất ngày nay) là sự bày tỏ tâm tư ước vọng lớn nhất về đất nước, cuộc sống xã hội của người Việt Nam ở Saigon, một đám tang khổng lồ với lượng người đi rước, các cửa tiệm của người Việt ở Saigon - Chợ Lớn đều đóng cửa, mà báo chí Pháp nói ngày đó là ngày Việt Nam thức tỉnh.
Một câu chuyện mà ít ai biết là bà Nguyễn Thị Minh (con gái Nguyễn An Ninh) có kể lại trong sách hồi ký của bà “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi" (26). Đó là lúc Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đang trú ngụ tại Chiêu Nam Lầu. Cường Để suýt bị cảnh sát mật vụ Pháp bắt khi đang nằm ngủ ở Chiêu Nam Lầu.

*

Số 58-60-62-64 là cửa hàng bán lụa, vải của công ty Ấn Độ Pohoomull frères (Pohoomull Brothers) nổi tiếng có chi nhánh tại nhiều nước từ Ai Câp. Bắc Phi (Algiers, Tenerife, Port Said), Gibraltar Địa Trung Hải, Budapest, Durban, Cape Town, đến Viễn Đông như Hong Kong, Singapore, Manila, Kuala Lumpur, Quảng Châu (Trung Quốc), Kobe, Yokahoma (Nhật Bản)... Thành lập ở tỉnh Sind do 4 anh em năm 1858, vào các năm 1870s đã có mặt ở Ai Cập. Ở Saigon, công ty còn có cửa tiệm ở đường Ormay và ở các tỉnh. Với một địa điểm ngay góc đường Charner và rue d’Ormay và cửa tiệm lớn rộng ta có thể thấy Pohoomull là một công ty đa quốc gia quan trọng. Hiện nay không có hình ảnh nào để lại cho thấy bên trong cửa hàng của công ty vảiPohoomull frères nhưng ta có thể mường tượng đến cửa tiệm bán vải lụa, đồ trang sức này như hình dưới đây về một cửa tiệm của cùng công ty ở Algiers.





Hình 17: Bên trong cửa tiệm bán hàng sản phẩm
và Cận Đông của công ty Pohoomull frères ở Algiers, Bắc Phi.
Nơi đây sau này là khách sạn Hôtel au Coq d’Or (số 56) trong thập niên 1930 và ngày nay là Palace Hôtel xây năm 1968 và hoàn thành năm 1971. Khách sạn Palace thực ra là khách sạn thứ hai có cùng tên. Khách sạn Palace đầu tiên là ở số 82-98 Charner do ông Patrice Luciani, người Pháp gốc Corse làm chủ. Luciani mua lại khách sạn từ gia đình Hérald năm 1928. Khách sạn Saigon Palace có đăng quảng cáo hàng tuần trên báo l'Avant Garde nhấn mạnh đến với món ăn Bouillabaisse nổi tiếng mỗi ngày, còn ngày thứ thì sáu có sauce aioli vùng Provençal, thứ năm và chủ nhật thì có soupe Corse.




Hình 18: Góc đường Charner và d’Ormay (Mạc Thị Bưởi), hình chụp khoảng 1904-1905 hướng về Hôtel de Ville đang xây. Tòa nhà bên phải hình ở góc đường là cửa tiệm bán vải lụa và nữ trang của công ty Ấn ĐộPohoomull Frères.



Hình 19: Ngay góc đường Charner (Nguyễn Huệ) và d'Ormay (Mạc Thị Bưởi) ở phía phải trong hình là khách sạn Grand Hôtel du Coq d'Or (của ông C. Payre, theo niên giám Đông Dương 1933/1934). Ngày nay nơi đây là Khách sạn Palace Hotel. Bên kia đường Charner (trái hình), đối diện với Hôtel de Coq d’Or là tòa nhà hòa giải


Số 66-68 là của nhà thương gia J. Berthet, sau nay là trụ sở của công ty Berthet Lucien & Cie. (68 và số 68-E.là văn phòng của công ty dầu hoả Hoa KỳStandard Oil. Đi xuống chút nữa ở số 80 Charner, là cửa tiệm Nam Xuân, bán hàng vải lụa nổi tiếng. Chủ tiệm Nam Xuân có đăng quảng cáo cửa hàng của ông trên báo Écho Annamite như sau




MAGASIN DE SOIERIES
AU PRINTEMPS COCHINCHINOIS
NAM-XUÂN
80, BOULEVARD CHARNER. — SAIGON
Bổn hiệu chuyên rộng một món hàng lụa và mua bán châc chắn, thât thà, nên Qui ông, Qui bà chiếu cố tới lui vui vẻ ; chúng tôi hết lòng cảm ơn.
Tiừ dày đến Tết, mỗi kỳ tàu Bổn hiệu sẽ tiếp đặng nhiều hàng mới, bông la, trông cày. Quí ông, Quí bà sẽ vui lòng chọn liựa, nào là hàng tây, hàng ta, hàng tàu, hàng Huê-kỳ, hàng Nhựt-bổn, vân vân.
Bổn hiệu bán sỉ, và bán lẻ càc thứ hàng, lụa, lảnh đen, lânh trắng, satin đủ thứ màu, dệt rông tơ Thượng hâi, của Nhà dệt ông Lê-Phât-Vĩnh, Cầu kho. Hàng này đồ chắc, tôt không đổ lông cũng không phai màu, vì gởi nhuộm bên Phàp-Quốc.
Lại từ đây Bổn hiệu cũng trữ càc thứ sách tuồng của nhà in Qui-nhơn, tiện bề cho Quí ông. Quí bà ở Nam-kỳ muốn mua khỏi viết thơ chờ đợi.
Kiuh mời Quí ông, Quí bà đến viếng. Bổn hiệu sẳng lòng tiếp rước.
Nay kính,
Au Printemps Cochinchinois.
NAM-XUÂN
80, Boulevard Charner. Sàigon.
(Écho Annamite, 8/1/1927, A8, N775)


Tiệm này có bán vải, lụa từ nhà máy dệt của ông Lê Phát Vĩnh. Hàng của nhà máy dệt này được nhiều người ưa chuộng. Khi nhà thơ Ấn Độ Tagore đến viếng Saigon năm 1929, ông đã mua hàng vải lụa, áo dài khăn đóng đặc trưng của người An Nam từ nhà máy dệt này ở Cầu Kho. Ngoài vải lụa, tiệm Nam Xuân cũng bán các sách tuồng từ nhà in ở Qui Nhơn. Điều này cho thấy tuồng hát bội lúc này rất phổ biến.
Qua bên kia đường Bonnard, số 104-106 là khách sạn Grand-Hotel des Nations của ông bà Pancrazi, sau này (1933) nơi đây cũng là văn phòng của Hội phim ảnh Société Indochine Films & Cinémas. Ông bà Pancrazi là người Pháp gốc Corse và cũng có tiệm Café de la Musique ở góc đường Catinat và Bonnard, đối diện với khách sạn Continental.
Công ty Indochine Films & Cinémas số 106 Charner có đăng quảng cáo trên báo Phụ Nữ Tân Văn (16/5/1929) như sau




Dĩa hát hay hơn hết ! Có giá trị hơn hết !
Đồng-Lạc-Ban  Nghĩa-Hiệp-Ban – Phước-Tường  Tân-Thịnh  Văn-Hí-Ban
Ca ngợi Đức-Bà và Đ.C.G – Tụng Kinh Cầu An,
Cải-Lương Cao-Mên.
ODEON,
Bán sỉ và bán lẻ tại hảng:
Indochine Films & Cinémas
106 Blv. Charner. Saigon


Lúc này cuối thập niên 1920, cải lương bắt đầu thành hình và phổ biến. Các ban cải lương Đồng-Lạc-Ban, Nghĩa-Hiệp-Ban, Phước-Tường, Tân-Thịnh, Văn-Hí-Ban là những ban cải lương đầu tiên trong lịch sử cải lương Việt Nam.
Cuối cùng ở bên phải đường theo số chẵn là số 116 Café restaurant de l'Hôtel de ville, và sau này là trụ sở của công ty bảo hiểm Compagnie d'Assurances “Le Secours” (114 Charner).




Tham Khảo

  1. Saigon Republicain, 10/11/1888, A1, N53.
  2. Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888
  3. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.
  4. Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
  5. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore – Saigon – Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-dong-nam-a/1957-singapore--saigon--hong-kong-quan-he-thuong-mai.html
  6. Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aîné (Paris), 1869
  7. Le Monde Illustré 29/7/1865, A9, T17,N433
  8. Le Monde Illustré 24/12/1864, A8, T15,N402
  9. Nguyễn Đức Hiệp, Saigon đầu thế kỷ 20 đến 1945 : Việt Nam thức tỉnh, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/saigon-111au-the-ky-20-111en-1945-viet-nam-thuc-tinh
  10. Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
  11. Cochinchine françaises, Procès-verbaux du Conseil colonial, Session ordinarie 1884-1885, Imprimerie du gouvernement, Saigon 1885.
  12. Oscar Chapuis, The last emperors of Vietnam: From Tu Duc tớ Bảo Đại, Greenwood Press, Connecticut, 2000.
  13. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  14. L'Information d'Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
  15. Tim Doling, Icons Of Old Saigon: Établissements Bainier Auto Hall, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3697-icons-of-old-saigon-etablissements-bainier-auto-hall
  16. Écho Annamite, 22/1/1927, A8, No. 787
  17. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. để l'Union (Saigon), 1917
  18. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
  19. Excursions et reconnaissances, 1882, N14, pp. 372, Imprimerie du Gouvernement, 1882, Paris, Challamel, 5 rue Jacob.
  20. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1883.
  21. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Session ordinaire 1885-1886, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1886.
  22. Annuaire de l'Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
  23. Annuaire de l'Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
  24. Bulletin official de l’Indochine française, N1, P1, 1898.
  25. Recueil du Conseil d’État, 1913, T82, S2.
  26. Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb Trẻ, 2005.
  27. Phillipe Peycam, The Birth of Vietnamese Political Journalism: Saigon, 1916-1930, 2012, Columbia University Press.
  28. Le Nouvelliste d'Indochine, 6/3/1937, 1/5/1937, 11/7/1937, 7/5/1939.
  29. Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.
  30. Người Lao Động, Đường Nguyễn Huệ hiện đại nhất nước, 30/3/2015,
    http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/duong-nguyen-hue-hien-dai-nhat-nuoc-20150330232220484.htm
    (http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/ai-lo-charner-cuoi-ky-19-au-ky-20-phan.html)