Saturday 31 December 2016

CẤU TẠO VÀ NGUỒN GỐC CỦA CHỮ NÔM CHỮ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM - Tomita Kenji


TB

LTS: Gần đây, chữ Nôm Việt Nam được nhiều người nước ngoài đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Trong số những công trình đáng chú ý có chuyên luận "Cấu tạo và nguồn gốc của chữ Nôm - chữ của dân tộc Việt Nam" của Giáo sư Kenji Tomita đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6/1979 của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tokyo. Chuyên luận bao quát khá nhiều vấn đề về chữ Nôm: khái niệm, ý nghĩa và vị trí của chữ Nôm; cấu tạo và nguồn gốc của chữ Nôm, v.v.. Dưới đây, chúng tôi trích đăng phần đầu của chuyên luận, qua bản dịch của Lã Minh Hằng, để bạn đọc tham khảo.
I. Lời nói đầu
Điều rất thú vị khi xem xét lịch sử văn tự của một dân tộc nào đó là ở chỗ nó lưu lại đậm nét các dấu vết đã qua của dân tộc đó. Văn tự phản ánh một cách nhạy bén lịch sử của dân tộc.
Có thể nói, chữ viết tiêu chuẩn của tiếng Nhật, một loại ngôn ngữ có cấu tạo phức tạp nhất trong các ngôn ngữ trên thế giới, cũng khắc sâu các vết tích lịch sử lâu dài của dân tộc Nhật từ khi hình thành dân tộc Nhật tới nay. Nổi bật là việc người Nhật Bản vốn vẫn bị người nước ngoài chê "Dân tộc Nhật không sáng tạo" đã biết sử dụng năng lực chế biến, tiếp thu triệt để nền văn hóa Trung Hoa để khéo léo tạo ra một thứ văn tự cho mình lấy chữ Hán làm môi giới văn hóa. Điều đó có thể chứng minh bằng thực tế đại bộ phận lịch sử của dân tộc Nhật là lịch sử các cuộc đấu tranh với nền văn hóa Trung Quốc. Không cần chú ý đến chữ viết tiêu chuẩn hiện đại, họ đã vận dụng một cách giản đơn phương pháp ghi âm bằng cách lợi dụng cách đọc On, Kun ở chữ Hán(1), sử dụng hệ thống tư mẫu Hiragana bằng cách đơn giản hóa chữ Hán để dùng trong các bộ phận ghép vào, sử dụng Kata kana được tạo thành bằng cách mượn nguyên một bộ phận chữ Hán và giản lược đi để dùng trong các trường hợp đọc tiếng nước ngoài và các từ ngoại lai. Tuy nhiên, quá trình mà hệ thống phức tạp như vậy được hình thành chính là rất đơn giản như đã nói trên.
Nếu để ý đến Triều Tiên - Một nước cùng nằm trong vành đai văn hóa Hán, (vành đai văn hóa Trung Quốc) thì khác hẳn. Với Nhật Bản, Nhật Bản về mặt địa lý nằm trên cái đệm ở biển đối diện với Trung Quốc, do đó khả năng tiếp thu nền văn hóa Trung Quốc chậm chạp, Triều Tiên đối diện trực tiếp với Trung Quốc trên lục địa cho nên ảnh hưởng về chính trị và văn hóa không thể như nhau.
Xét về lịch sử của ngôn ngữ, người Nhật đã lợi dụng một cách triệt để các dạng thích hợp hoàn toàn với tiếng Nhật như "Manyogana" "Kakki kudashbun" đã được mượn hoàn toàn từ tiếng Hán. Trái lại, tuy cấu tạo ngôn ngữ rất giống tiếng Nhật, nhưng tiếng Triều rất hạn chế việc kiểm tra đối chiếu như trên. Rất nhiều trường hợp nó tiếp thu ở tiếng Trung Quốc một cách nguyên vẹn những dạng thuần túy. Và khuynh hướng này thay đổi việc bảo hộ đối với ngôn ngữ dân tộc. Phải bắt đầu từ năm 1443 với việc sáng tạo ra Hangurn (loại văn tự lớn). Kiểm tra đối chiếu loại văn tự này như đã biết, nó hoàn toàn khác với chữ Kana Nhật, mặc dù được hình thành trên cơ sở âm vận Hán ngữ, nhưng có thể nói nó là sự sáng tạo hoàn toàn, nó là sáng tác khéo léo của dân tộc Triều Tiên. Sau này, giống như tiếng Nhật, thời kỳ sử dụng chữ Hán kéo dài, đến 1949 mới hoàn toàn bị loại bỏ chữ Hán ở Bắc Triều Tiên, xác lập thành công thể chữ viết tiêu chuẩn theo nghĩa đen. Có thể nói, lịch sử văn tự của dân tộc Triều Tiên cũng in sâu vết tích lịch sử các cuộc đấu tranh với văn hóa Trung Quốc.
II. Định nghĩa về chữ Nôm
Có thể nói, chiếm một góc trong vành đai văn hóa Hán nói trên là Việt Nam. Một mặt, Việt Nam ở vào vị trí giữa của vành đai văn hóa Đông Á, có hoàn cảnh rất giống Nhật Bản ở chỗ cùng là điểm mà nhiều dân tộc dừng chân lại. Mặt khác, trong điều kiện địa lý tiếp giáp với Trung Quốc rất chặt chẽ, trên lục địa, Việt Nam cũng có điểm khá giống với Triều Tiên. Một điều hiển nhiên nữa là Việt Nam cũng giống Triều Tiên, cả hai nước cùng chịu sự thống trị lâu dài về chính trị của Trung Quốc, và cùng nảy nở nền văn hóa độc lập. Nói về mặt ngôn ngữ, tiếng Nhật và tiếng Triều, khác với tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ mang tính đơn lập cao, chúng thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính (ngôn ngữ Altai). Cả hai ngôn ngữ này đều khó tiếp thu sự đồng hoá ngôn ngữ một cách triệt để. Trong khi đó, tiếng Việt cùng loại hình ngôn ngữ với tiếng Trung Quốc, nguy cơ đồng hoá ngày có nét khác hơn. Lịch sử văn tự này có nét rất đặc trưng. Nó chịu sự chi phối của Trung Quốc vào năm 111 trước CN, trong vòng 840 năm, kể từ khi chữ Hán trở thành văn tự chính thức bắt đầu từ lúc có chế độ khoa cử (1075), cho đến khi không còn chế độ khoa cử vào năm 1915 (miền Trung 1918), chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức, Hán văn trở thành văn chương chính thức ở nước này. Tức là đối với trí thức Việt Nam, việc thông hiểu Hán văn (tiếng Trung Quốc) là điều kiện không thể thiếu được. Có thể nói đó là việc quan trọng hơn việc thông thạo tiếng mẹ đẻ. Và thế là biết chữ thực tế không có gì khác là biết chữ Hán.
Nhu cầu ghi lại tiếng nói dân tộc: Cũng giống như người Nhật, người Triều Tiên, trong một bộ phận tầng lớp trí thức này sinh nhu cầu muốn ghi lại tiếng nói dân tộc. Lúc này, người Việt cũng giống như người Nhật nảy sinh ý nghĩ thử ghi lại tiếng nói dân tộc bằng cách dùng chữ Hán vốn đã có bên cạnh mình và gia công thêm một chút. Đó là việc nảy sinh văn tự gọi là chữ Nôm.
Chữ có nghĩa là văn tự, Nôm có nghĩa là lời nói hay là Nam (đối lập với Trung Quốc) cả từ này có nghĩa là văn tự của lời nói hay văn tự của nước Nam, nó đối lập với văn tự chính thống "chữ Nho" với ý nghĩa là văn tự của nhà nho.
Nhưng, việc đó không thành công như tiếng Nhật. Tiếng Nhật là ngôn ngữ đa âm tiết. Bằng phương pháp Manyogana gắn chữ Hán mang hình, âm giống với từng âm tiết cần ghi, hình thành một quy ước nhất định giữa chữ và âm, đồng thời giản lược hóa và tự mẫu hóa những chữ Hán ấy đi. Đối với người sử dụng, nếu ghi nhớ một số lượng chữ Hán nhất định, hay là ghi nhớ Hiragana (chữ Hán đã được giản lược hóa) là hoàn toàn có thể ghi lại từng âm tiết của tiếng mẹ đẻ mà không cần phải biết âm và nghĩa của chữ Hán. Nhưng tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập đơn âm tiết như tiếng Trung Quốc. Nó hoàn toàn giống tiếng Trung Quốc là mang tính chất văn tự biểu ngữ, cần có văn tự định sẵn cho từng tiếng một. Tức là, nếu nói về mặt lý thuyết, nó cần có từng văn tự cho từng âm tiết, từng từ, cho dù là đồng âm nhưng ý nghĩa khác nhau. Vả lại, vừa ghi bằng Kanamaziribun như ở tiếng Nhật, lại vừa ghi nguyên dạng những từ mượn từ tiếng Trung Quốc thì khó phân biệt đâu vốn là chữ Hán, đâu là chữ Nôm. Lại nữa, bộ phận biểu âm và bộ phận biểu ý của chữ Nôm phần lớn dựa vào âm và nghĩa của chữ Hán, nếu không am hiểu chữ Hán thì không được. Một số chuyên gia nói rằng do bọn thống trị ngăn cấm sử dụng văn tự dân tộc và đốt phá nền văn hiến này nên sự phát triển của loại văn tự này bị dừng lại và cuối cùng cũng không có được đặc tính phổ cập trong nhân dân. Nhưng thực tế không đúng như vậy. Chữ Nôm chẳng qua là một công cụ đặc biệt nằm trong một thể thống nhất với chữ Hán - một công cụ thống trị của giai cấp thống trị. Tuy nó rất có ích với tư cách là phương thức biểu hiện của chủ nghĩa lãng mạn dân tộc của tầng lớp tri thức tinh thông chữ Hán; nhưng phải thừa nhận một cách thẳng thắn rằng nó không có tính phổ biến mà chỉ tựa như "cái bánh vẽ" đối với người dân bình thường không có dịp được biết đến chữ Hán, văn Hán. Nếu vứt bỏ chữ Hán, cái tạo thành vỏ ngoài, thì đương nhiên cũng không còn lý do tồn tại chữ Nôm được. Nghĩa là, không thể nhìn thấy cái bên trong (cái nội dung) được biểu hiện ra bên ngoài. Thế nhưng, đối với trí thức Việt Nam trong điều kiện song ngữ thì chữ Nôm vẫn cứ là văn tự của dân tộc, nó có lý do tồn tại và có tác dụng hữu hiệu trong việc thể hiện tính dân tộc.
Trong lịch sử Việt Nam còn ghi lại một số người tích cực sử dụng chữ viết của dân tộc này với tư cách là văn tự chính thức như: vào khoảng năm 1400 khi triều Trần bị sụp đổ (1225-1339) có Hồ Quý Ly người dựng lên triều nhà Hồ; có Quang Trung Nguyễn Huệ (cuối TK XVIII) người ra đời từ phong trào Tây Sơn; Có Nguyễn Trường Tộ (1827-1871) học giả dưới triều Tự Đức đã tích cực kiến nghị với nhà vua về vấn đề này; đặc biệt có một số người đã khuyến khích phong trào sáng tác bằng chữ Nôm và tự mình cũng cầm bút viết như Lê Thánh Tông (1442-1497), Trịnh Kiểm (giữa TK XVI), Lê Quý Đôn (1726-1784)... Nhưng nỗ lực của họ không đi đến đâu mà lý do đương nhiên như đã nói ở trên. Thay vào đó là dùng hình thức văn tự có tính chất dễ phổ biến (tức chữ Latinh) để khích lệ tinh thần dân tộc. Dạng văn tự này, cũng giống Hiragana của Nhật Bản, chỉ cần biết một số quy ước nhất định giữa âm và chữ thì ai cũng có thể sử dụng được. Nó thâm nhập vào trong dân chúng một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong việc xóa bỏ nạn mù chữ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, nó chiếm vị trí là một dạng văn tự tiêu chuẩn. Và thế là, người ta đã không tiếc việc thay thế chữ Nôm bằng dạng văn tự chính thức là chữ Latinh, cái tên gọi được dùng là chữ Quốc ngữ.
III. Ý nghĩa của chữ Nôm
Chữ Nôm, như trên đã nói, chẳng qua là một nhánh của chữ Hán, là thứ văn tự mà bản thân nó không có sự thú vị nào. Nhưng việc nghiên cứu văn tự này sở dĩ có tầm quan trọng là vì dạng văn tự này chiếm một phần không nhỏ trong lịch sử Việt Nam. Nếu bỏ qua việc nghiên cứu văn tự này, bỏ qua việc nghiên cứu thấu đáo nền văn hiến được ghi lại bằng thứ văn tự này, thì ở mặt nào đó, việc nghiên cứu về Việt Nam sẽ không đem lại kết quả trọn vẹn. Nói như vậy không phải là quá lời, bởi vì dạng văn tự này không ghi lại tiếng Trung Quốc - Hán văn, mà nó chính là phương thức duy nhất ghi lại tiếng Việt - ngôn ngữ của dân tộc.
Trước tiên, hãy xem xét tầm quan trọng của nó từ góc độ nghiên cứu lịch sử. Dạng văn tự này rất tự nhiên không sử dụng để ghi lại chính sử, nhưng các tác phẩm tự sự trường thiên lịch sử được ngâm và được ghi lại dưới dạng thơ bằng tiếng Việt có rất nhiều, nó tạo thành một thể đối lập với chính sử được biên soạn theo lệnh của nhà vua và viết bằng chữ Hán. Tuy có thể nói nó thiếu giá trị của một tư liệu lịch sử, nhưng nó thể hiện đầy đủ thế giới quan lịch sử của bản thân người Việt. Những tác phẩm tiêu biểu.
- Đại Nam quốc sử diễn ca: do Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái soạn năm Tự Đức 23 (1870).
- Thiên Nam ngữ lục: chưa rõ tác giả. Sách ra đời vào cuối thế kỷ XVII.
Nhưng không chỉ có vậy. Chúng ta không nên quên rằng từng một thời gian dài có rất nhiều tác phẩm ghi lại bằng chữ Nôm như chiếu sắc, công văn, thư từ thông tin thương nghiệp... Nếu xem xét một sự thật là hồi đầu thế kỷ này, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu (1867-1940) người kêu gọi đồng bào chống Pháp mở đầu cho phong trào Đông du của hội Duy Tân, được dịch ra tiếng Việt dưới dạng thơ lục bát và ghi lại bằng chữ Nôm có xen chữ Quốc ngữ, đã làm rung động trái tim của thanh niên, thì ta hoàn toàn có thể thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa thứ văn tự này và tiếng Việt Nam với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Thành tựu trong văn học: đóng góp của bộ phận chữ Nôm trong văn học là rất lớn. Tiếng Việt cũng giống như tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ rất thích hợp với văn vần. Hơn nữa, người Việt Nam vốn quen thuộc với thơ chữ Hán trong một thời gian dài, việc họ sáng tác thơ nhiều hơn với các hình thái văn học khác cũng không có gì là lạ. Nói cách khác, Hán Việt văn học(2) trên cơ sở được luyện tốt về thơ chữ Hán, cho dù bề ngoài là Hán văn, nhưng ngay bên trong, một thế giới mang tính chất dân tộc độc đáo lập tức được hình thành. Có thể nghĩ rằng nền tảng thơ bằng ngôn ngữ dân tộc được hình thành một cách nhanh chóng và đầy đủ dưới một kích thích nào đó. Thể thơ Hàn luật vốn cải biến từ thơ Đường luật và mang đậm nét tính chất Việt Nam. Trên cơ sở đó hoàn chỉnh thể thơ lục bát và song thất lục bát độc đáo, sáng tạo nên thế giới của thơ Quốc ngữ, thơ Quốc âm. Như vậy, cái duy trì và nuôi dưỡng nó, hiểu theo đúng nghĩa đen, đó chính là chữ Nôm.
Người Việt Nam khởi sáng ra thơ Quốc ngữ, phải kể là Hàn (Nguyễn) Thuyên (cuối TK XIII). Điều này căn cứ vào các đoạn ghi chép dưới đây ở sử sách:
1. Nhâm Nhọ Thiệu Bảo tứ niên (1282), mùa thu, tháng 8, có cá sấu đến Sông Lô, vua (Trần Nhân Tông) sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, cá tự bỏ đi. Vua thấy việc đó giống Hàn Dũ, bèn ban cho Nguyễn Thuyên họ Hàn" (Đại Việt Sử ký toàn thư Q.5,57).
2. "Nguyễn Thuyên, người Thanh Lâm, Hải Dương, giỏi làm thơ phú Quốc ngữ, nhiều người bắt chước theo. Về sau, gọi thơ Quốc âm là Hàn luật là từ đó" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Q.7,26a).
3. "Văn tự nước ta dùng nhiều Quốc ngữ từ thời Hàn Thuyên" (Hải đông chí lược A.103,38).
Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú còn ghi lại tên cuốn Phi Sa tập, tập thơ Quốc ngữ của Hàn Thuyên. Đáng tiếc là tập thơ này không còn nữa.
Ngoài ra, trong sử sách, còn ghi tên những người giỏi thơ Quốc âm như Nguyễn Sĩ Cố (cuối TK XIII đầu TK XIV), làm quan Nội thị học sĩ dưới triều Trần Thánh Tông; Chu An (TK 14), Quốc tử giám Tư nghiệp dưới triều Trần Minh Tông; Hồ Quý Ly (cuối TK XIV đầu TK XV) người đã nói ở mục trước. Nhưng tác phẩm của họ không được truyền lại. Thơ Quốc âm dưới triều Trần mà họ đang sống thực tế đã được xác lập hay chưa; chưa đủ chứng cớ. Nhưng nếu thử xem xét: Sách Gia huấn ca(3) của Nguyễn Trãi (1380-1442) mà H. Maspéro đưa ra với tư cách là một tác phẩm Nôm cổ nhất hiện còn, các tác phẩm trong Quốc âm thi tập của ông Nguyễn Trãi hay các ghi chép trong sử sách nói rằng ông sưu tầm nhiều sắc lệnh và nhiều bài thơ viết bằng chữ Nôm của Hồ Quý Ly và dâng cho Lê Thái Tổ - người lãnh đạo của ông, thì có thể nghĩ rằng thơ Quốc âm được xác lập đầy đủ vào thời nhà Trần là hoàn toàn thỏa đáng (Đại Việt Sử ký toàn thư Q11.38a).
Mọi người đều biết rằng văn học chữ Nôm có lẽ đã nảy sinh và tồn tại liên tục từ đời nhà Trần (đầu TK XIII- cuối TK XIV). Cho đến đầu thế kỷ này và tiếp đó được đọc rộng rãi cũng như được phiên âm ra chữ Quốc ngữ - dạng chữ viết tiêu chuẩn hiện đại. Có thể nói đóng góp của chữ Nôm trong lịch sử văn học Việt Nam, trên thực tế còn có những điều không thể kể hết được, mặt khác nếu xem xét dạng văn tự này từ góc độ ngôn ngữ học, thì dẫu thế nào đi chăng nữa, loại văn tự này cũng là quan trọng ở chỗ nó là cách thức duy nhất ghi lại tiếng Việt. Có không ít các vấn đề hấp dẫn gắn liền với dạng văn tự này, như sự thay đổi trên lĩnh vực âm vận, sự thay thế của các nghĩa từ, sự biến đổi trên lĩnh vực ngữ pháp. Chẳng hạn ở vấn đề biến đổi âm vận, cần có những nhận thức tối thiểu dưới đây:
Thứ nhất: Ở loại văn tự này không thể đóng khung về mặt thời gian. Nó không phải bỗng dưng hình thành ở một thời điểm nhất định nào đó, mà nó được ra trên cơ sở tích lũy kinh nghiệm qua hàng nghìn năm. Và như đã biết, văn tự này mang đặc tính cố hữu đó là tính kế thừa rất mạnh mẽ. Với tư cách là văn tự ở một thời đại nhất định, thì công việc truy tìm âm vận tiếng Việt đứng đằng sau nó là cực kỳ vất vả.
Thứ hai: Không thể hạn định về mặt không gian (địa lý). Nói cách khác, những lối viết cá nhân từ các địa phương chứ không chỉ giới hạn ở thành phố, những sở thích cá nhân đó có thể được đưa vào rất nhiều. Đó là lý do hạn chế tính hệ thống của chữ Nôm.
Thứ ba: Điểm hạn chế về mặt đặc điểm của loại văn tự này là nó còn dựa rất nhiều vào tính chất biểu ý hay là tính chất biểu ngữ giống như ở chữ Hán; còn yếu tố biểu âm tương đối nhỏ. Tức là âm có ở đằng sau chữ chỉ là ám chỉ, việc đọc chính xác những chữ đó rất khó khăn. Hơn nữa, chữ Nôm dựa hoàn toàn vào âm đọc chữ Hán, tức âm đọc tiếng Trung Quốc. Phải nói rằng chúng ta vẫn gặp những khó khăn về thời gian và không gian như trên khi phiên âm, giải thích chữ Nôm.
Những điều nhận thức trên đây không thể thiếu được khi nghiên cứu chữ Nôm, khi phiên âm giải thích các tác phẩm Nôm...(4)

Lã Minh Hằng (sưu tầm và dịch)
CHÚ THÍCH
(1). ON và KUN là 2 cách đọc chữ Hán ở Nhật Bản. Cách đọc này xuất phát từ khi đọc các kinh Phật trong hệ thống Ngô âm thời Heian.
(2). Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân: Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu TK XVIII, tập I, NXB. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, tr.220.
(3). Về tác giả Gia huấn ca vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Xem Hoàng Văn Lâu: "Ai viết Gia huấn ca", Nghiên cứu Hán Nôm, 1984.
(4). Xin chân thành cảm ơn Ô.Takao Yao - thực tập sinh Nhật Bản và GS.TS Nguyễn Quang H
ồng đã xem hộ bản dịch trước khi đưa in – LMH./.

Thursday 6 October 2016

Hồ Chí Minh với vấn đề khai thác di sản tư tưởng Nho giáo (Lại Quốc Khánh - Lý Luận Chính Trị)

Thứ năm, 20 Tháng 8 2015 09:55

Hồ Chí Minh với vấn đề khai thác di sản tư tưởng Nho giáo

(LLCT) - Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóaphương Tây.Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến tiếpbiến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hoá tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây; các phong trào chính trị - xã hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo bất lực trước việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn lịch sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục và khoa cử Nho học bị giải tán.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, bao gồm Nho giáo, chủ nghĩa Mác, v.v.., với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, là Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với bản lĩnh chính trị - văn hoá, và với vị thế của một người có quyền uy tư tưởng nhất định khi trở thành một nhân vật có uy tín của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam.
Nho giáo mà Hồ Chí Minh khai thác chủ yếu thể hiện trong Tứ thư, Ngũ kinh; Nho giáo gắn liền với các nhà nho thời kỳ lập thuyết (thời Tiên Tần) như Khổng Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử; Nho giáo tinh tuý nhưng không kinh viện, mà gắn liền và dung nhập chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, dung nhập hơi thở của thời cuộc ở bước chuyển biến có ý nghĩa bản lề của lịch sử dân tộc.
1. Những di sản tư tưởng Nho giáo được Hồ Chí Minh khai thác
Trước hết, cần xác định, Hồ Chí Minh nhận diện Nho giáo như thế nào.
Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng””(1).
Năm 1924, trong một tác phẩm viết chung, Hồ Chí Minh đã đề cập đến “tinh thần triết học và giáo lý của Khổng Tử”, và gọi Khổng Tử là “vĩ nhân”, gọi Mạnh Tử là “một lý luận gia cách mạng của thế hệ ông”(2).
Ngày 20-2-1927, chỉ năm ngày sau khi Chính phủ Trung Hoa Dân quốc ban hành lệnh xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử kèm theo những khoản dự chi cho những cuộc nghi lễ ấy và chuyển những đền thờ Khổng Tử thành các trường học công, Hồ Chí Minh đã viết bài báo có tên “Khổng Tử”, trong đó khẳng định: “Với việc xoá bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”(3).
Năm 1949, trong cuốn sách Hồ Chí Minh truyện, xuất bản bằng tiếng Trung Quốc (Bát Nguyệt thư xã xuất bản, người dịch Trương Niệm Thức), đã ghi một nhận xét của Hồ
Chí Minh:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(4).
Một số dẫn chứng như trên cho thấy, Nho giáo được nhận diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh: Là Nho giáo thời Tiên Tần, hay là học thuyết Khổng Mạnh; Là một hệ thống tư tưởng, chứ không phải là một tôn giáo; Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết về đạo đức, học thuyết về xử lý các mối quan hệ đạo đức cơ bản của xã hội; Nho giáo ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của bối cảnh ra đời, có nhiều ưu điểm, song cũng có cả những hạn chế, và trong đó, nếu nhìn vào cốt lõi của nó (học thuyết về tu dưỡng đạo đức cá nhân), thì ưu điểm là nổi bật, cần kế thừa và phát huy. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng; Nho giáo đã từng bị các triều đại phong kiến lợi dụng.
Sự nhận diện Nho giáo như trên của Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm khoa học, khách quan, công bằng, quan điểm khoan dung văn hoá, cũng như bản lĩnh của nhà tư tưởng trong ứng xử với các di sản tư tưởng văn hoá truyền thống.
Từ cách nhận diện như vậy, Hồ Chí Minh đã chọn lọc, kế thừa, cải biến di sản tư tưởng Nho giáo để làm giàu vốn tri thức văn hoá của bản thân.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo trên ba cấp độ sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề, có giá trị và sức sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp với thời đại.
Có thể nêu ra một số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng như Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu, v.v.. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”(5). Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung với vua trở thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ quát hoá đạo đức cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với cha mẹ.
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”, “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, v.v..
Những  mệnh đề trên được Hồ Chí Minh tiếp thu, và trong nhiều trường hợp, được Hồ Chí Minh khẳng định chính là những phẩm chất của những người cách mạng, những người cộng sản trong thời đại mới. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của Nho giáo là rất lớn.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư duycủa Nho giáo.
Phương pháp tư duy biện chứng của Nho giáo (của Khổng Tử, Mạnh Tử, và đặc biệt là Kinh Dịch) thể hiện rất đậm nét ở Hồ Chí Minh.
Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc; từ cải tạo; tự cải tạo con người đi đến cải tạo xã hội, v.v..cũng được Hồ Chí Minh kế thừa, sự dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn cách mạng. Có thể dẫn ra một số luận điểm của Hồ Chí Minh để chứng minh cho nhận định trên: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(6); “Khổng Tử nói: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình thế giới. Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”(7)...
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành triết lý sốngcủa các bậc đại Nho với các nguyên tắc tu nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo, v.v.. Có thể dẫn ra một số thí dụ. Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Người nói như vậy và luôn thực hành nguyên tắc này, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo - Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, từ những phạm trù, mệnh đề tưtưởng đến phương pháp tư duy; từ tư tưởng, học thuyết đến triết lý sống; từ nhận thức đến thực hành.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo
Thứ nhất, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophảitrên cơ sở quán triệt quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Hồ Chí Minh quan niệm, bất cứ một hệ thống tư tưởng nào cũng ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối, quy định của những điều kiện ấy. Chính vì thế, để lý giải, đánh giá nội dung, giá trị của bất cứ hệ thống tư tưởng nào, cũng cần phải đặt nó vào trong những điều kiện ra đời của nó. Mọi thiên kiến, áp đặt bằng con mắt phi lịch sử với các di sản quá khứ đều là điều không thể chấp nhận được, đều có nguy cơ dẫn đến sai lầm, hoặc tuyệt đối hoá hoặc phủ nhận sạch trơn giá trị của các di sản quá khứ. Nói về học thuyết Mác, Hồ Chí Minh viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(9), và vì thế, “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(10). Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng”(11), và “nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lênin”(12). Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Người cũng xem xét các di sản tư tưởng quá khứ trước những yêu cầu mới của thời đại mới, để từ đó kế thừa một cách biện chứng các di sản này.
Thứ hai, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophải trên quan điểmvới thái độ trân trọng, kế thừa, phát triểncó chọn lọc.
Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm mang tính chỉ dẫn rất toàn diện: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũmà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mớimà hay, thì ta phải làm”(13).
Quan điểm của ngườivừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “cổ” coi thường cái “kim”, vừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “kim” coi thường cái “cổ”, vì thế có tính khoa học sâu sắc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng,song những điều hay trong đó thì ta nên học”.
Thứ ba, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với thái độ khoan dung trong xem xét, đánh giá, ứng xử với các hệ thống tư tưởng khác nhau.
Không tuyệt đối hoá, không “độc quyền tư tưởng”, thì mới có thể chấp nhận những cái khác khác biệt để trân trọng và tiếp biến. Hồ Chí Minh không chỉ thừa nhận chủ nghĩa Mác có ưu điểm, mà khẳng định học thuyết Khổng Tử, tôn giáo Giêsu, đạo Phật, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, v.v.. đều có ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm chung với ưu điểm của chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, không phải chỉ có chủ nghĩa Mác, mà các học thuyết, hệ thống tư tưởng - văn hoá nói trên cũng hướng đến mục tiêu “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Hồ Chí Minh là người ngay từ rất sớm, đã khẳng định tôn giáo chứa đựng những hạt nhân văn hoá - đạo đức có giá trị, v.v..
Có thể thấy rõ, quan điểm khoan dung, bản lĩnh văn hoá kết hợp với tinh thần khoa học của quan điểm duy vật biện chứng, của thái độ trân trọng các di sản quá khứ đã giúp Hồ Chí Minh có khả năng khai thác di sản tư tưởng Nho giáo một cách rất thành công r
________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2014
(1), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.461, 284, 509-510, 509.
(3), (11), (12) Sđd, t.2, tr.454-455, 563, 562, 563.
(4) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh với con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.51.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.170.
(6), (13) Sđd, t.5, tr.280, 112-113.
(7) Sđd, t.8, tr.113.
 
PGS, TS Lại Quốc Khánh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
(http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1062-ho-chi-minh-voi-van-de-khai-thac-di-san-tu-tuong-nho-giao.html)