Friday 8 November 2013

Sẽ xử lý nghiêm tập thể, cá nhân làm oan sai (Nguyễn Tuấn - Tiền Phong)


Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình:
TPO-Trao đổi với báo chí liên quan tới kháng nghị vụ án Nguyễn Thanh Chấn, ông Nguyễn Hòa Bình, Viện trưởng VKSNDTC cho rằng, việc xem xét trách nhiệm những tập thể, cá nhân tham gia quá trình tố tụng đều phải xử lý nghiêm.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình.
Bên hành lang Quốc hội, ông Nguyễn Hòa Bình nói: “Kháng nghị tái thẩm là khi có những tình tiết mới mà tòa không biết, tình tiết đó làm thay đổi bản chất vụ án. Trong vụ này, có sự xuất hiện của ông Lý Nguyễn Chung. Tuy tòa chưa tuyên, nhưng khả năng phạm tội của ông Chung là khá rõ ràng”.
Tại sao Viện kiểm sát kháng nghị tái thẩm mà không kháng nghị giám đốc thẩm đối đối với 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm vụ án Nguyễn Thanh Chấn bị kết án chung thân về tội giết người?
Giải thích luật rất dài, nhưng tái thẩm hay giám đốc thẩm, cuối cùng những vi phạm nếu có của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn bị xử lý. Không phải tái thẩm là anh lẩn tránh được trách nhiệm hay giám đốc thẩm thì anh mới bị xử lý. Vì đã sai ở giai đoạn nào khi đã có kết quả cuối cùng thì việc xem xét trách nhiệm những tập thể và cá nhân tham gia quá trình tố tụng đều được đặt ra và xử lý nghiêm.
Rất tiếc có một số người có ý kiến về việc tái thẩm hay giám đốc thẩm. Nhưng việc tái thẩm và giám đốc thẩm khác nhau như thế nào? Tôi nói rõ, tái thẩm là khi có những tình tiết mới mà tòa không biết, tình tiết đó làm thay đổi bản chất vụ án. Trong vụ này, có sự xuất hiện của ông Lý Nguyễn Chung. Tuy tòa chưa tuyên, nhưng khả năng phạm tội của ông Chung là khá rõ ràng.
Viện kiểm sát có chứng cứ cho thấy quá trình điều tra truy tố trước đây có những dấu hiệu vi phạm. Tại sao mình không lấy đó là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm bản án đã xử trước đây – như vậy việc minh oan cho anh Chấn sẽ sớm hơn?
Cả giám đốc thẩm hay tái thẩm thì kết luận của toà án trong luật đã ghi rồi hoặc bác kháng nghị đó, hoặc chấp nhận kháng nghị hoặc hủy án trả lại điều tra bổ sung từ đầu. Các kết luận của tái thẩm, giám đốc thẩm đều giống nhau, không phải tái thẩm thì có kết luận khác và giám đốc thẩm thì có kết luận khác, điều này đã được pháp luật quy định.
Nguyễn Tuấn
(Ghi)

Án oan 10 năm: Chọn tái thẩm để đền ít tiền hơn? (An Khanh - Báo Đất Việt)


.
Cập nhật lúc 09:58, 07/11/2013

Án oan 10 năm: Chọn tái thẩm để đền ít tiền hơn?

(Tin tức thời sự)-'Về mặt hậu quả pháp lý hình sự, ông Chấn được minh oan nhưng nếu xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải bồi thường nhiều cho ông Chấn về mặt dân sự theo Nghị quyết 388. Còn tái thẩm thì việc bồi thường không được bao nhiêu', Luật sư  Nguyễn Văn Tú, Giám đốc Công ty luật TNHH Fanci cho biết.

PV: - Ngày 6/11, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao mở phiên toà xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự tái thẩm đối với vụ án Nguyễn Thanh Chấn phạm tội giết người theo kháng nghị tái thẩm của Viện KSND tối cao. Theo ông, việc xét lại bản án theo trình tự tái thẩm có hợp lý không? Việc Lý Nguyễn Chung ra đầu thú có được coi là tình tiết mới?
LS Nguyễn Văn Tú: - Theo tôi, việc xét lại bản án theo trình tự tái thẩm là không đúng. Bởi tái thẩm là phải phát sinh ra tình tiết mới. Nhưng trước hết phải hiểu không phải tình tiết mới nào cũng được xem xét để tái thẩm. Tình tiết mới để làm căn cứ tái thẩm phải thỏa mãn 2 yếu tố: thứ nhất là mới, nghĩa là trước đây chưa từng có. Thứ hai, cái mới này phải làm thay đổi căn bản bản chất của vụ án, quyết định của bản án đang có hiệu lực và tại thời điểm xét xử vụ án này cơ quan ra bản án đang có hiệu lực này người ta không thể biết được.

Yếu tố thứ hai này trong tình tiết Lý Nguyễn Chung ra đầu thú không thỏa đáng bởi theo thông tin trên báo chí, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh Chấn đã từng kêu oan vậy nhưng đều không được tòa xem xét thấu đáo, cho rằng kêu oan không có căn cứ. Vậy mà ngày hôm nay, một người đến nói rằng tôi mới là kẻ giết người, tại sao cơ quan tố tụng chưa kịp điều tra đã vội tin rồi?

Khi Lý Nguyễn Chung ra đầu thú về hành vi giết người, cướp của, về nguyên tắc phải khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì người ta lại dùng đó là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Đấy là sai lầm của VKSND Tối cao.

Mặt khác, chưa thể biết được ông Nguyễn Thanh Chấn có bị bức cung, dùng nhục hình hay không. Trước đây ông này kêu oan nhưng không thể chứng minh được, bây giờ lời khai của Lý Nguyễn Chung cũng vậy, vậy mà ngay lập tức người ta tin luôn thì chứng tỏ nó cũng rất ngây thơ và vu vơ.

Ông Nguyễn Thanh Chấn trong vòng tay người thân sau khi được trả tự do. Ảnh: TTO
Ông Nguyễn Thanh Chấn trong vòng tay người thân sau khi được trả tự do. Ảnh: TTO

Việc xét lại bản án theo trình tự tái thẩm vừa không đúng về pháp luật vừa vô hình trung giúp cho cả cơ quan ra bản án trước đây thoát được Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Người làm sai, làm oan đương nhiên phải bồi thường, nhưng giờ đây khi nói có tình tiết mới, tức là tôi có biết đâu mà tôi phải bồi thường.
PV: - Xét lại bản án theo trình tự tái thẩm và giám đốc thẩm, hình thức nào sẽ có lợi cho ông Nguyễn Thanh Chấn hơn, thưa ông?

LS Nguyễn Văn Tú: - Về hậu quả pháp lý của phiên tòa là như nhau. Hai quyết định kháng nghị vẫn dẫn đến một phiên tòa, mà hậu quả của phiên tòa ấy chỉ có mấy khả năng, một là chấp nhận kháng nghị, hai là không chấp nhận kháng nghị.
Nếu chấp nhận kháng nghị thì phải minh oan cho ông Chấn. Không chấp nhận kháng nghị thì coi như kháng nghị sai.

Như vậy, ông Chấn về mặt hậu quả pháp lý hình sự là được minh oan. Nhưng nếu xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải bồi thường nhiều cho ông Chấn về mặt dân sự theo Nghị quyết 388.
Còn nếu tái thẩm thì việc bồi thường không được bao nhiêu. Các cơ quan tố tụng kia cũng không bị xử lý gì về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm kỷ luật cả.

Vì thế tái thẩm có lợi cho những cơ quan, những người làm sai.
PV: - Nếu ông Chấn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do đã làm oan cho ông thì thử làm một phép đơn giản, ông sẽ được bồi thường bao nhiêu?
LS Nguyễn Văn Tú: - Khi có quyết định của TAND tối cao về việc ông Chấn không thực hiện hành vi phạm tôi, ông Chấn được bồi thường 3 khoản sau:
1. Thiệt hại tinh thần:
Theo Nghị quyết 388, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị tù giam được tính: 1 ngày tù giam oan được bồi thường 3 ngày lương tối thiểu.
Một ngày lương tối thiểu tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường được xác định bằng việc lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường chia cho 22 là số ngày làm việc bình quân của mỗi tháng.

Với mức lương tối thiểu hiện nay là 1.150.000 đồng/tháng, tức ông Chấn có thể được bồi thường thiệt hại về tinh thần hơn 52.000 đồng/ngày bị giam oan.
Số tiền bồi thường thiệt hại tinh thần cho ông Chấn sẽ được tính như sau:
(Số ngày bị oan sai tính từ thời điểm ông Chấn bị khởi tố) x 3 x (1.150.000 đồng : 22 ngày)
Ông Chấn bị tù oan 10 năm, tương đương khoảng 3.650 ngày. Theo cách tính trên, ông Chấn sẽ nhận được số tiền bồi thường hơn 570 triệu đồng.
2. Thiệt hại mất thu nhập:
Mỗi ngày ông Chấn làm thu nhập ổn định x số ngày bị oan sai tính từ thởi điểm bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù
3. Cải chính xin lỗi công khai
4. Thiệt hại vật chất
- Khoản suy giảm sức khỏe (nếu có)
- Chi phí tố tụng (nếu có) bao gồm: Án phí sơ thẩm, phúc thẩm, phí luật sư v.v...


Xem xét bồi thường sau
Chiều 6/11, Hội đồng tái thẩm TAND Tối cao đã chấp nhận kháng nghị của VKSND Tối cao, tuyên hủy bản án phúc thẩm đối với ông Nguyễn Thanh Chấn.

Theo đó, sau nhiều giờ họp kín, Hội đồng tái thẩm của TAND Tối cao đã đồng ý với kháng nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao, ông Nguyễn Hòa Bình.

Hai bản án tuyên ông Nguyễn Thanh Chấn tù chung thân về tội "giết người" ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm bị tuyên hủy, điều tra lại từ đầu.

Được biết, việc bồi thường sẽ được xem xét sau.

An Khanh

“Án sai phải sửa, oan phải đền, không thể lẩn trách nhiệm” (P.Thảo - Q.Phong - Dân Trí)


“Án sai phải sửa, oan phải đền, không thể lẩn trách nhiệm”


(Dân trí) - “Có người nói VKS, tòa án thống nhất tái thẩm để lẩn tránh trách nhiệm. Đã xác định oan sai, sai phải sửa, oan phải đền. Về trách nhiệm pháp lý, giám đốc thẩm hay tái thẩm đều như nhau”, Trung tướng Trần Văn Độ - Phó Chánh án TAND tối cao khẳng định.
 >> Vụ án oan 10 năm tù: “Nếu ép cung, phải xử lý hình sự”
 >> Chủ tịch nước: Khẩn trương minh oan, đền bù cho người chịu án oan 10 năm

Việc hung thủ Lý Nguyễn Chung xuất hiện được Phó Chánh án TAND tối cao Trần Văn Độ đánh giá là một tình tiết mới mà trước đó, trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, cơ quan tố tụng không biết. Nhấn mạnh quan điểm không gọi nhân vật này là “hung thủ mới” của vụ án giết người xảy ra 10 năm trước, ông Độ cho rằng đây là tình tiết mới. Nếu tình tiết đó là sự thực khách quan khi CQĐT chứng minh được là đúng với thực tế xảy ra thì sẽ làm thay đổi bản chất vụ án.
Có ý kiến cho rằng Lý Nguyễn Chung ra đầu thú không phải là tình tiết mới vì việc Chung gây án đã xảy ra cách đây 10 năm, không hề mới, chỉ là CQĐT không phát hiện ra. Bác bỏ ý kiến này, ông Độ phân tích: “Rõ ràng không có thông tin nào trong quá trình từ xét xử sơ thẩm đến phúc thẩm cho rằng Lý Nguyễn Chung là người phạm tội cả nên đây rõ ràng là một tình tiết mới”.
Trung tướng Trần Văn Độ: Án oan sai, sai thì phải sửa, oan thì phải đền. (Ảnh: Việt Hưng)
Trung tướng Trần Văn Độ: "Án oan sai, sai thì phải sửa, oan thì phải đền". (Ảnh: Việt Hưng)
“Yếu tố quyết định ở đây là bản tự thú của anh Chung. Qua đó, các cơ quan chức năng xem xét lại, có thể có những vi phạm nhất định về tố tụng mà lúc này chưa thể khẳng định được sai phạm ở khâu nào. Nhưng tất cả những sai sót đó, về nguyên tắc, tòa án phải hủy đi để điều tra lại một cách rõ ràng, cẩn trọng” – ông Độ nhận định.
Về băn khoăn khả năng “xóa án” cho ông Chấn khi phiên xử tái thẩm cũng chỉ là tuyên hủy án để điều tra lại chứ không tuyên ngay là người ngồi tù oan 10 năm không phạm tội, ông Độ trấn an: “Đã xác định anh Chung là người phạm tội thực sự, có bản tự thú như thế, nếu chứng minh được thông tin đúng khớp với sự thật thì rõ là ông Chấn vô tội”.
Tuy vậy, với giả thiết, nếu Lý Nguyễn Chung không đầu thú, ông Chấn sẽ không có cơ hội được giải oan, tướng Độ vẫn cho rằng có thể có những ngoại lệ, phát sinh các tình tiết mới khác mà cơ quan tố tụng có thể xem xét. Ví dụ như có nhiều đơn từ nói về việc thủ phạm là người khác. Ông Độ khẳng định, nếu có những việc phát sinh như vậy đều có thể xem xét lại án vì việc minh oan cho một người bị kết tội không có hạn định, có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào.
Trung tướng Trần Văn độ cũng gạt thẳng nghi ngại hướng kháng nghị tái thẩm dẫn đến cách hiểu ông Chấn chịu án oan không phải do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng mà do yếu tố khách quan, bất khả kháng. Theo ông Độ, đã là án oan thì việc xác định oan sai như thế nào, chỗ nào là trách nhiệm của các cơ quan, không thể chối bỏ.
Khẳng định vấn đề này, Phó Chánh án phân tích, hệ quả pháp lý về vấn đề trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong 2 trường hợp tái thẩm và giám đốc thẩm đều giống nhau, xác định oan sai, sai thì phải sửa còn oan thì phải đền. Án sai thì phải hủy và đình chỉ vụ án đối với người bị oan.
“Tôi thấy cũng có người ý nói rằng tái thẩm để lẩn tránh trách nhiệm thì không phải, không có chuyện đó. Về trách nhiệm pháp lý thì giám đốc thẩm hay tái thẩm đều như nhau” – ông Độ nhắc lại.
Từ vụ án oan này nhìn lại, Phó Chánh án TAND tối cao cũng cho rằng, có nhiều cách để hạn chế “rủi ro” cho công dân trong tố tụng như nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, nâng cao trình độ của lực lượng điều tra, kiểm soát, xét xử. Và quan trọng, mọi người dân phải luôn xác định ý thức tố giác tội phạm.
“Như trong vụ án này, một số người biết ngay từ đầu hung thủ là người khác nhưng cuối cùng không tố giác, không khai báo, không làm gì cả dẫn đến quan điểm nhận định sai lầm về vụ án” – ông Độ bày tỏ.
Viện trưởng Nguyễn Hòa Bình: tái thẩm hay giám đốc thẩm, sai phạm vẫn bị xử lý
Trung tướng Trần Văn Độ: Án oan sai, sai thì phải sửa, oan thì phải đền. (Ảnh: Việt Hưng)
Viện trưởng VKSND tối cao Nguyễn Hòa Bình: "Tái thẩm hay Giám đốc thẩm, thì những vi phạm (nếu có) của các cơ quan thực hành tố tụng vẫn bị xử lý" (ảnh: Việt Hưng).
Cũng trao đổi với báo chí về vụ việc liên quan đến án oan 10 năm tù của ông Nguyễn Thanh Chấn tại Quốc hội hôm nay, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết, tái thẩm hay giám đốc thẩm, thì những vi phạm (nếu có) của các cơ quan thực hành tố tụng vẫn bị xử lý. Nhưng sai ở giai đoạn nào, đặc biệt những vụ án có kết quả cuối cùng thì việc xem xét trách nhiệm cá nhân và tập thể tham gia quá trình tố tụng đều bị xử phạt, thậm chí xử lý nghiêm.
“Như vậy, không thể có chuyện tái thẩm thì tránh được, đến giám đốc thẩm mới đặt ra (trách nhiệm tập thể, cá nhân tham gia quá trình tố tụng - PV). Còn tại sao cần phải tái thẩm vụ ông Chấn là vì có tình tiết mới và tòa không biết những tình tiết đó làm thay đổi bản chất vụ án. Cụ thể ở đây xuất hiện đối tượng Lý Nguyễn Chung và khả năng phạm tội của Chung là khá rõ ràng, dù tòa chưa tuyên”, ông Bình phân tích.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng kể cả giám đốc thẩm hay tái thẩm thì kết luận của tòa án đã được luật pháp quy định bác kháng nghị, chấp nhận kháng nghị hoặc hủy án trả lại điều tra bổ sung.
“Các kết luận của tái thẩm và giám đốc thẩm đều giống nhau. Và cũng không phải tái thẩm có thể kết luận khác, giám đốc thẩm có thể kết luận khác. Không bao giờ xảy ra chuyện đó trong luật pháp”, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình khẳng định.
P.Thảo - Q.Phong

Thế nào là nhất bên trọng, nhất bên khinh?


Có hai vấn đề đặt ra trong lời ông Nguyễn Thanh Chấn tố cáo các cơ quan nội chính ở tỉnh Bắc Giang:

Một là ông Chấn có bị ép cung hay không.
Ông Chấn trừ phi bị bệnh tâm thần rất nặng mới khai nhận một tội ác mà ông không phạm. Nếu không ép cung, dọa đánh, còn cách nào khác để lấy được một bản cung kỳ quặc như vậy? Ta không thể biết, vì các điều tra viên đã leo cao nhờ thành tích phá án tài tình mười năm về trước, bây giờ đang lẩn như chạch:
trực ban Công an huyện Việt Yên cho biết ông Luật và lãnh đạo đều bận họp không thể trả lời.


Câu hỏi thứ hai là các cán bộ Nguyễn Văn Dũng, Ngô Đình Dung, Đào Văn Biên, Nguyễn Trung Thành, Tuyến, Trần Nhật Luật có hành hạ ông Chấn hay không. Chưa có câu trả lời chắc chắn.
Dù sao cũng không thể tin ngay lời ông Chấn.
 Ông Nguyễn Xuân Hồng (chánh văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang) cho biết: “Việc ông Chấn khai bị ép cung, dọa đánh... thì phải kiểm tra lại và phải có chứng cứ.
Mười năm về trước mà các ông biết kiểm tra lại, biết trọng chứng cớ thì ông Chấn không phải ngồi tù oan, suýt nữa mất mạng. Ông Chấn ngày xưa nếu cũng là trưởng, phó công an huyện thì có lẽ các ông kiểm sát Bắc Giang cũng sẽ thận trọng như đối với ông Luật hôm nay.

Thursday 7 November 2013

Dũng cảm nghĩa là gì?


Dũng cảm () là có dũng khí dám đương đầu với sức chống đối, với nguy hiểm để làm những việc nên làm (Hoàng Phê, 2006:266).

Đi đường sai luật thì nộp tiền phạt. Đó là việc phải làm. Làm xong thì thôi, không đáng được khen là dũng cảm.

Viện kiểm sát làm sai luật thì viện kiểm sát cũng phải bị phạt. Bây giờ Viện có nhận sai trong việc buộc tội ông Nguyễn Thanh Chấn về trước thì đó cũng chỉ là một việc phải làm. Ở đâu ra sức chống đối, nguy hiểm nào đe dọa mà viện được tiếng là dũng cảm? Người thay mặt viện kiểm sát hôm nay không phải là người của mười năm về trước. Họ chẳng mất gì cả.

Các thẩm phán, các điều tra viên, các kiểm sát viên của mười năm về trước vẫn đang im lặng. Những người đó có lên tiếng thì may ra mới được tiếng là dám nhìn thẳng về cái sai, thấy sai, nhận sai, dám giải quyết cái sai.

Wednesday 6 November 2013

NGHỊ ĐỊNH LIÊN BỘ BAN HÀNH ĐIỀU LỆ QUẢN LÝ MÁY THU, PHÁT, PHỤ TÙNG MÁY PHÁT VÔ TUYẾT ĐIỆN, ĐÈN CÔNG SUẤT VÀ CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT, SỬA CHỮA, MUA BÁN MÁY THU, PHÁT VÀ PHỤ TÙNG MÁY THU, PHÁT VÔ TUYẾN ĐIỆN

BỘ CÔNG AN - BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN******
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc********
Số: 102-NĐ
Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 1959 

BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN-BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
Căn cứ Nghị định số 344-TTg ngày 25/9/1959 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý máy thu, phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện, đèn công suất và các cơ sở sản xuất, sửa chữa mua bán máy thu, phát và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện;
Để bảo đảm thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện được tốt và để bảo vệ công cuộc kiến thiết kinh tế, đề phòng những phẩn tử xấu lợi dụng phương tiện thông tin vô tuyết điện làm điều phi pháp;
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. - Nay ban hành điều lệ quản lý máy thu, phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện, đèn công suất và các cơ sở sản xuất, sửa chữa, mua bán máy thu, phát và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện kèm theo Nghị định này.
Điều 2. - Các ông Chánh văn phòng, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Bộ Giao thông và Bưu điện, Chánh văn phòng, Giám đốc Vụ trị an dân cảnh Bộ Công an và Ủy ban Hành chính các tỉnh và thành phố có trách nhiệm thi hành Nghị định này.

BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN




Trần Quốc Hoàn
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN



 
Nguyễn Văn Trân

ĐIỀU LỆ
QUẢN LÝ CÁC MÁY THU, PHÁT, PHỤ TÙNG MÁY PHÁT VÔ TUYẾN ĐIỆN, ĐÈN CÔNG SUẤT VÀ CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT, SỬA CHỮA, MUA BÁN MÁY THU, PHÁT VÀ PHỤ TÙNG MÁY THU PHÁT VÔ TUYẾN ĐIỆN
I. QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. - Bản điều lệ này quy định các chi tiết thi hành Nghị định số 344-TTg ngày 25/9/1959 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý máy thu, phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện, đèn công suất và các cơ sở sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện.
Điều 2. - Điều lệ này không áp dụng đối với máy thu phát vô tuyến điện sử dụng vào nghiệp vụ của cơ quan Quân sự, Công an và Bưu điện.
II. KÊ KHAI VÀ XIN GIẤY CHỨNG NHẬN CÁC LOẠI MÁY THU VÔ TUYẾN ĐIỆN (THU THANH, THU TIN, THU HÌNH VÀ KHUẾCH ĐẠI PHÓNG THANH, v.v…)
Điều 3. - Các tổ chức hay cá nhân có các loại máy thu vô tuyến điện (thu thanh, thu hình, thu tin, khuếch đại phóng thanh) dùng đèn điện tử hay chất bán dẫn, cố định hay lưu động (kể cả những máy lắp trên xe hỏa, ô tô, tàu thủy,v.v…) đều phải kê khai và xin giấy chứng nhận tại Sở, Bưu điện tỉnh hay thành phố.
Điều 4. - Thủ tục kê khai và xin giấy chứng nhận như sau:
a) Người có máy (hay người được ủy quyền nếu là máy của một tổ chức) phải tự mình kê khai (theo mẫu in sẵn của Bưu điện) tại Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố để xin giấy chứng nhận;
b) Các tổ chức hay cá nhân nếu ở xa Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố mà có máy thì sẽ kê khai tại các Bưu cục gần nơi mình ở để nhờ chuyển đến Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố xin giấy chứng nhận;
c) Thủ tục phí xin giấy chứng nhận là một hào (0đ10).
Điều 5. - Các tổ chức hay cá nhân nếu có máy trước ngày ban hành điều lệ này thì phải kê khai và xin giấy chứng nhận xong trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thi hành điều lệ. Nếu có máy sau ngày thi hành điều lệ này thì phải kê khai và xin giấy chứng nhận xong trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày mua máy.
Điều 6. - Những máy cố định nếu di chuyển đến một tỉnh hay thành phố khác thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày đến chỗ mới, tổ chức hay cá nhân có máy đó phải đưa giấy chứng nhận cũ đến Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố xin đổi giấy chứng nhận mới.
Điều 7. - Các tổ chức hay cá nhân có máy thu thanh thô sơ bằng ga-len được miễn kê khai và xin giấy chứng nhận.
III. ĐẶT VÀ SỬ DỤNG MÁY PHÁT VÔ TUYẾN ĐIỆN.
Điều 8. - Các tổ chức hay cá nhân muốn đặt và sử dụng máy phát vô tuyến điện bất luận công suất lớn hay nhỏ, bất luận dùng vào mục đích gì trên lãnh thổ nước Việt nam dân chủ cộng hòa đều phải làm đơn xin phép nộp tại Tổng cục hoặc Sở, Ty Bưu điện để chuyển lên Bộ Giao thông và Bưu điện xét cấp giấy phép. Chỉ khi nào được cấp giấy phép mới được lắp đặt và sử dụng. Giấy phép này thay giấy phép mua phát vô tuyến điện.
Điều 9. - Đơn xin phép đặt và sử dụng máy phát vô tuyến điện phải đầy đủ những điểm sau đây:
- Mục đích đặt máy;
- Vị trí và trụ sở đặt máy (có sơ đồ);
- Vị trí và quy cách cột thiên tuyến (có sơ đồ);
- Quy cách máy phát;
- Công suất phát;
- Giai tần số hòa mạch;
- Loại nghiệp vụ;
- Đặc tính nguồn điện và công suất cung cấp điện;
- Chương trình hoạt động và phạm vi hoạt động.
Điều 10. - Các tổ chức hay cá nhân có máy phát vô tuyến điện trước ngày ban hành điều lệ này phải làm đơn xin phép và kê khai theo đúng quy định ở điều 8 và điều 9 trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thi hành điều lệ để xét định việc cấp giấy phép. Trong khi chờ đợi xét cấp giấy phép, việc tiếp tục sử dụng sẽ do Bộ Giao thông và Bưu điện quyết định.
Điều 11. - Các tổ chức hay cá nhân được phép đặt và sử dụng máy phát vô tuyến điện, mỗi khi muốn thay đổi một trong những điều quy định ở điều 9 (di chuyển trụ sở, thay đổi vị trí thiên tuyến, thay đổi nghiệp vụ,v.v…) phải được phép của Bộ Giao thông và Bưu điện mới được thay đổi.
IV. SẢN XUẤT, SỬA CHỮA, MUA BÁN MÁY THU, PHÁT VÀ PHỤ TÙNG MÁY THU, PHÁT VÔ TUYẾN ĐIỆN
Điều 12. - Các tổ chức hay cá nhân muốn mở hiệu sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện đều phải xin phép tại Sở, Ty Công an tỉnh hay thành phố, nơi mở hiệu. Chỉ khi nào được cấp giấy phép mới được mở hiệu sản xuất, sửa chữa, mua bán.
Điều 13. - Thủ tục xin phép phải làm đầy đủ như sau:
- Một đơn xin phép làm nghề;
- Một bản lý lịch người chịu trách nhiệm chính có kèm theo 3 tấm ảnh mới chụp (cỡ 4x6 phân, không đội mũ, nghiêng mặt 2/3 về phía trái);
- Một bản danh sách người làm công trong hiệu;
- Một bản kê khai phương tiện, dụng cụ dùng để sản xuất sửa chữa, mua bán.
Điều 14. - Các tổ chức hay cá nhân được phép mở hiệu sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy thu phát vô tuyến điện đều phải mở sổ thống kê, sổ xuất nhập hàng theo mẫu hướng dẫn của Sở, Ty Công an tỉnh hay thành phố nơi mở hiệu.
Điều 15. - Nếu trong sản xuất muốn thay đổi mẫu mực, quy cách sản phẩm đã kê khai, thì chủ hiệu sản xuất phải xin phép Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố. Chỉ khi nào được phép mới được thay đổi.
Điều 16. - Các tổ chức hay cá nhân đã mở hiệu sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện từ trước ngày ban hành điều lệ này, đều phải làm đơn xin phép như quy định ở điều 12 và 13 và kê khai các loại máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện đã có tại sở, Ty Công an tỉnh hay thành phố nơi mở hiệu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thi hành điều lệ này.
Trong khi chờ đợi xét cấp giấy phép, các hiệu nói trên vẫn được tiếp tục kinh doanh.
Điều 17. - Muốn mua máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất phải làm đúng thủ tục như sau:
a) Mua máy phát vô tuyến điện phải có giấy phép lắp đặt và sử dụng quy định ở điều 8.
b) Những hiệu mua bán, sửa chữa máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện đã được phép mở hiệu kinh doanh, mỗi khi muốn mua máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện, đèn công suất, để bán hay sửa chữa, đều phải mang sổ xuất nhập hàng đến trình Sở, Ty Bưu điện để xét và chứng nhận mới được mua.
c) Các tổ chức hay cá nhân được phép sử dụng máy phát, khi máy bị hỏng muốn mang đến hiệu để sửa chữa, đều phải kê khai rõ tại Sở, Ty Bưu điện bộ phận hỏng, tình trạng bị hỏng, để xin giấy chứng nhận sửa chữa hay xin giấy chứng nhận mua bộ phận mới.
d) Các tổ chức hay cá nhân có các loại máy thu vô tuyến điện hay các loại máy có dùng đèn công suất gặp trường hợp đèn công suất bị hỏng, muốn mua đèn mới, phải mang đèn hỏng đến nộp cho hiệu bán hay hiệu sửa chữa và đưa giấy chứng nhận, giấy chứng minh để chủ hiệu ghi vào sổ.
Hàng tháng các hiệu sẽ đem số đèn hỏng này nộp cho Sở, Ty Bưu điện.
Điều 18. - Các tổ chức hay cá nhân được phép mở hiệu sản xuất, sửa chữa, mua bán và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện chỉ được mua bán và sửa chữa máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất cho những người có giấy phép đã quy định ở điều 8 và điều 17.
V. DỰ TRỮ, VẬN CHUYỂN MÁY PHÁT, PHỤ TÙNG MÁY VÔ TUYẾN ĐIỆN VÀ ĐÈN CÔNG SUẤT
Điều 19. - Chỉ những hiệu được phép sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy thu, phát vô tuyến điện mới được dự trữ máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất, số lượng dữ trữ phải phù hợp với số lượng đã xuất nhập hàng và các chứng từ về sản xuất, sửa chữa và mua bán.
Điều 20. - Các tổ chức hay cá nhân có máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất (kể cả đèn công suất dùng trong các loại máy chiếu điện, máy chiếu phim, máy dán ni lông,v.v…) phải kê khai tại Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thi hành điều lệ này để xét định việc sử dụng.
Điều 21. - Muốn vận chuyển máy phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất, các tổ chức hay cá nhân đều phải xin giấy phép vận chuyển tại Sở, Ty Bưu điện tỉnh hay thành phố. Sau khi có giấy phép mời được vận chuyển.
Những trường hợp sau đây thì không phải xin giấy phép vận chuyển của Sở, Ty Bưu điện:
a) Vận chuyển từ cửa hiệu bán hay sửa chữa về đến nhà thì được dùng giấy phép quy định ở điều 8 và điểm c điều 17.
b) Khi di chuyển trụ sở thì được dùng giấy phép di chuyển quy định ở điều 11.
c) Các cơ quan quân sự, Công an và Bưu điện khi di chuyển máy phát và phụ tùng máy phát thì được dùng giấy chứng nhận di chuyển của cơ quan đó.
VI. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 22. - Các Sở, Ty Bưu điện và Sở, Ty Công an tỉnh hay thành phố có trách nhiệm kiểm soát việc thi hành điều lệ này.
Về nghiệp vụ kỹ thuật, Sở, Ty Bưu điện có nhiệm vụ kiểm tra thường xuyên các máy phát vô tuyến điện đã được cấp giấy phép quy định ở điều 8, để chứng nghiệm các việc cần thiết.
Điều 23. - Các cơ quan Bưu điện và Công an làm nhiệm vụ kiểm soát có trách nhiệm lập biên bản và tạm giữ các máy thu, phát, phụ tùng máy phát vô tuyến điện và đèn công suất do việc sử dụng, sản xuất, sửa chữa, mua bán dự trữ và vận chuyển không hợp pháp.
Điều 24. - Những hành động vi phạm đến những điều quy định trong điều lệ này sẽ bị trừng phạt theo điều 5 Nghị định số 344-TTg ngày 25/9/1959 của Thủ tướng Chính phủ.
Điều 25. - Điều lệ này thi hành bắt đầu từ ngày 01/12/1959, các điều khoản quy định từ trước trái với điều lệ này đều bãi bỏ.
Ban hành kèm theo Nghị định số 102-NĐ ngày 6/11/1959 của Liên Bộ Giao thông và Bưu điện và Công an.

Tuesday 5 November 2013

Nhà xéc các chú là gì ?



Nhà xéc các chú không phải là chuyện lạ thời trước cách mạng:
Mới đây họ tính cổ động rủ hết thảy anh em chị  em nam nữ, mà nhứt là anh em chị em nam nữ thanh niên, hiệp nhau lại để lập câu lạc bộ cũng như kiểu nhà xéc các chú ở Chợ Lớn hay nói cho đúng nữa, như nhà xéc-bót-tip của tây đầm ở vườn ông Thượng Sài Gòn, để mà chi? 
THÔNG REO
Trung lập, Sài Gòn, số 6798 (6. 8. 1932)
Đó là sòng bạc của người Hoa thời Pháp thuộc. Xéc, tiếng Pháp là cercle, từ điển dịch là câu lạc bộ.
Sòng bài vốn là nghề của người Hoa. Khi người Pháp đến Nam kỳ, họ nhanh chóng hiểu ra ngay nhu cầu phải đưa hoạt động này vào tầm kiểm soát của chính quyền (Considérant la nécessité qu’il y a de réglementer les cercles chinois d’une manière uniforme). Nghị định ngày 27 tháng 2 năm 1882 của thống đốc Le Myre De Vilers quy định:
-Muốn mở nhà xéc phải làm đơn xin (điều 1)
-Đơn phải gửi cho quan giám đốc nội vụ (directeur de l’Intérieur) đính kèm danh sách hội viên sáng lập, ghi rõ nghề nghiệp, môn bài của những người này cùng với tên của chánh phó hội trong số hội viên sáng lập, cam kết cùng chịu trách nhiệm tuân thủ pháp luật và ký quỹ 1000 đồng biệt (piastre). Ngoài ra còn phải nộp bản đồ nhà (3 bản), cơ quan chức năng phải đến khám xét và cấp biên bản (2 bản)  (điều 2).
- Không đủ 10 hội viên, không được mở nhà xéc. Không được thu nhận quá 40 hội viên. Người Hoa, nếu là thần dân của ngoại bang, không được làm hội viên. Mỗi nhà xéc được phép có 6 người phục vụ là người châu Á  (điều 3).
- Cửa nhà xéc phải ở mặt tiền, hướng ra công lộ. Nhà xéc được có tối đa hai lối ra vào: một cho hội viên và một cho người phục vụ.
-Hàng tháng nhà xéc phải nộp trước một khoản thuế là 20 đồng biệt (piastre) (điều 6).
-Hội viên có quyền mời khách người Hoa đến nhưng phải báo trước cho cơ quan có thẩm quyền biết (điều 7).
-Nhà xéc chỉ được tổ chức chơi các trò ghi ở điều 8 của nghị định này, bao gồm mạt chược (dominos), xí ngầu (dés), bài tây (cartes en deux couleurs), bài tứ sắc (cartes en quatres couleurs).