Wednesday 24 February 2016

Nghị quyết của Bộ Chính trị số 39-NQ/TW, ngày 20 tháng 1 năm 1962, về việc tăng cường đấu tranh chống các bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà


Vǎn kiện Đảng toàn tập Tập 23 (1962) Nghị quyết của Bộ Chính trị số 39-NQ/TW, ngày 20 tháng 1 năm 1962, về việc tăng cường đấu tranh chống các bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà

Cập nhật lúc 14h13  -  Ngày 15/10/2015
share facebookgửi emailin bài này
I- Nhận định tình hình và âm mưu của địch
đối với miền Bắc nước ta
1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc nước ta đang ra sức lao động quên mình để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước sau vẫn là một cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp, gay go, quyết liệt, lâu dài giữa lực lượng xã hội chủ nghĩa với các lực lượng chống đối lại chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đấu tranh đó, ngoài những phần tử phản cách mạng từ trước vẫn làm tay sai cho bọn địch chống lại kháng chiến, nay lại xuất hiện những phần tử chống đối cách mạng xã hội chủ nghĩa do chỗ quyền lợi giai cấp của chúng bị đụng chạm.
Trong điều kiện cụ thể của miền bắc nước ta, nội dung cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lại có những đặc điểm riêng của nó. Do tính chất của xã hội Việt Nam trước đây, do kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng trong mấy chục năm nay, do nước ta còn tạm bị chia làm hai miền và kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay của nhân dân ta là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, cho nên tính chất gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp ở miền Bắc trước hết biểu hiện ở mặt đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bè lũ phản cách mạng tay sai của chúng là bọn gián điệp, biệt kích, phỉ, bọn phản động phá hoại hiện hành, v.v.. Cuộc đấu tranh chống bọn phản cách mạng ở nước ta không những mang tính chất đấu tranh của các giai cấp lao động chống lại các tầng lớp bóc lột phản động, mà còn sẵn có tính chất đấu tranh dân tộc chống bọn đế quốc và bè lũ tay sai.
Từ ngày hoà bình lập lại, bọn Mỹ - Diệm đang thống trị ở miền Nam nước ta vẫn ra sức tăng cường hoạt động gián điệp phá hoại miền Bắc và ráo riết chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược hòng thôn tính miền Bắc và tiêu diệt chế độ dân chủ nhân dân của ta. Đó là âm mưu thâm độc lâu dài có tính chất chiến lược của chúng. Thêm vào đó, các nước đế quốc, tư bản có quyền lợi ở khu vực Đông Nam á đều không muốn cách mạng Việt Nam tiến lên, vì vậy cũng không ngừng hoạt động tình báo phá hoại miền Bắc nước ta.
2. Nhìn chung âm mưu cụ thể của kẻ địch đối với miền Bắc nước ta bao gồm mấy mặt như sau:
a) Điều tra tình báo để phục vụ cho âm mưu phá hoại trước mắt chống chế độ ta, đồng thời để đánh giá lực lượng miền Bắc, hiểu nội bộ xã hội miền Bắc, phục vụ cho âm mưu lâu dài gây chiến tranh xâm lược miền Bắc. Hướng điều tra
của chúng trước hết nhằm tìm hiểu lực lượng quân sự, kế hoạch quốc phòng, tình hình chính trị và tình hình xây dựng kinh tế ở miền Bắc.
b) Phá hoại về các mặt, cả về tinh thần và vật chất, bằng những hoạt động như: tiến hành "chiến tranh tâm lý", phao đồn tin nhảm, xuyên tạc sự thật, phản tuyên truyền hòng gây tâm lý hoang mang, không ổn định; phá hoại việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại sản xuất, phá hoại việc cải thiện đời sống của nhân dân, phá hoại công cuộc củng cố quốc phòng, hòng làm chậm bước tiến của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
c) Gây cơ sở bí mật ở miền Bắc, tổ chức bọn tay sai của chúng được cài lại, thúc đẩy và hướng dẫn bọn này hoạt động, và ra sức tung thêm nhiều gián điệp, biệt kích để tổ chức lực lượng phỉ vũ trang hòng lập những khu căn cứ để hoạt động phá hoại, thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng và nhằm phối hợp trong ngoài khi có chiến tranh nổ ra.
Đối với các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị vũ trang, nhất là đối với các cơ quan đầu não và các cơ sở quan trọng, kẻ địch rất chú trọng lôi kéo, mua chuộc những người lập trường không vững để dùng làm tay sai cho chúng và tìm mọi cách cho bọn tay sai chui vào nội bộ; đồng thời đối với các trường đại học, trường chuyên nghiệp, chúng tìm cách cho người vào học và cố gắng để được cử đi học nước ngoài, hòng leo cao, đi sâu và phá ta lâu dài.
3. Các lực lượng thù địch ở miền Bắc nước ta bao gồm bọn gián điệp các nước đế quốc và tư bản, và các thế lực phản cách mạng khác.
- Trong các loại gián điệp thì bọn gián điệp của Mỹ - Diệm là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với miền Bắc nước ta. Bọn gián điệp Mỹ là bọn gián điệp rất xảo quyệt, thâm độc, có nhiều thủ đoạn nguy hiểm, nhiều phương tiện kỹ thuật hoạt động. Bọn gián điệp Pháp cũng không kém phần nguy hiểm đối với chúng ta.
- Ngoài bọn gián điệp của Mỹ - Diệm và của các nước đế quốc, tư bản khác, còn có những lực lượng phản cách mạng khác ở miền Bắc nước ta. Trong số này phải đặc biệt chú ý bọn phản động lợi dụng đạo Thiên chúa. Bọn này trước kia cũng như hiện nay vẫn là những tay sai đắc lực và nguy hiểm của chủ nghĩa đế quốc ở nước ta. Cũng phải rất chú ý bọn phản động trong số những người trước kia là tề nguỵ, phỉ hoặc đã tham gia đảng phái phản động cũ, trong các giai cấp bóc lột cũ, do quyền lợi của chúng gắn liền với quyền lợi của bọn đế quốc, do ý thức chống đối nhân dân trước đây, cho nên chúng căm thù sâu sắc chủ nghĩa cộng sản và hoạt động chống lại cách mạng.
Trong những bọn phản động này, hiện nay có bọn đã liên hệ chặt chẽ với đế quốc, nhưng có nhiều tên hiện nay chưa có liên lạc với đế quốc. Quy luật chung là bọn gián điệp đế quốc ra sức tìm hiểu, tập hợp, lợi dụng các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội trong nước để làm tay sai thực hiện âm mưu phá hoại của chúng; ngược lại, những bọn phản động này cũng tìm cách bắt liên lạc với bọn Mỹ và bọn đế quốc khác, liên lạc với bọn Ngô Đình Diệm để có chỗ dựa, có nguồn tiếp tế tiền tài, vũ khí, phương tiện. Bọn gián điệp đế quốc rất nguy hiểm, nhưng bọn phản động trong nước cũng là những lực lượng có thể gây cho ta những thiệt hại to lớn.
4. Trong tình hình hiện nay trước đà lớn mạnh của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và của phong trào cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa, đế quốc Mỹ một mặt tăng cường chuẩn bị chiến tranh hạt nhân, chiến tranh cục bộ và chiến tranh chống du kích, nhằm đàn áp phong trào cách mạng ở các nước; mặt khác cho tay sai thâm nhập lãnh thổ các nước xã hội chủ nghĩa để tiến hành quấy rối, phá hoại.
Ở nước ta, trước đà tiến mạnh của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trước tình hình phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm lên cao, trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ ra sức "viện trợ" cho bọn Diệm về quân sự, kinh tế, v,v.. Chúng đưa thêm cố vấn và nhân viên quân sự, đưa cả một bộ phận không quân vào hoạt động ở miền Nam và chuẩn bị dư luận để đưa quân đội vào trực tiếp đàn áp phong trào cách mạng miềnnam. Sau khi Giônxơn, Stalây, Taylo, v.v. sang miền Nam Việt Nam thì kế hoạch can thiệp của đế quốc Mỹ đối với miền Nam Việt Nam cũng toàn diện hơn và tích cực hơn. Một bộ phận quan trọng trong kế hoạch đó là bọn Mỹ - Diệm càng ra sức tăng cường hoạt động để phá hoại miền Bắc một cách tích cực hơn và táo bạo hơn,chúng càng cố gắng tung nhiều tên gián điệp, biệt kích ra miền Bắc (thậm chí chúng có thể hành động liều lĩnh điên cuồng, dù chúng không hy vọng đạt được thắng lợi, dù chúng chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết), gây các cuộc khiêu khích ở biên giới, giới tuyến và bờ biển, nhằm kích động các lực lượng phản cách mạng ở miền Bắc thực hiện âm mưu phá hoại miền Bắc để hòng gây khó khăn cho ta và gây tình hình căng thẳng ở Đông Nam á. Do đó, một mặt chúng ta phải rất bình tĩnh, nhưng mặt khác phải rất cảnh giác, kiên quyết, khẩn trương đối phó với âm mưu phá hoại của kẻ địch.
5. Âm mưu của địch tuy to lớn và thâm độc, nhưng phi chính nghĩa. Cho nên, trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày càng thu được thắng lợi, chính quyền của chúng ta ở miền Bắc ngày càng vững mạnh, nhân dân ta tin tưởng tuyệt đối ở sự lãnh đạo của Đảng, thì kẻ địch không thể dễ dàng thực hiện được những âm mưu đen tối của chúng.
Vấn đề kẻ địch có thể thực hiện được âm mưu của chúng đến mức nào tuỳ thuộc ở địch thì ít mà tuỳ thuộc ở ta thì nhiều.
Trong thời gian tới, nếu chúng ta kiên quyết động viên quần chúng, tích cực bảo vệ nội bộ chặt chẽ, kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, thì chúng ta có thể đánh bại mọi âm mưu phá hoại của chúng. Nhưng nếu sự cố gắng của ta không đầy đủ thì kẻ địch vẫn có thể gây được một số lực lượng phỉ, gây được bạo động ở một số khu vực, tập hợp và kích động được một số quần chúng lạc hậu gây rối trị an, xây dựng được cơ sở bí mật, tiếp tục tiến hành phá hoại trên các mặt, thậm chí có thể gây cho ta nhiều tổn thất nghiêm trọng.
II- Nhận xét về công tác đấu tranh chống
bọn phản cách mạng trong mấy năm qua
Trong mấy năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác trấn áp phản cách mạng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Về mặt đấu tranh chống bọn gián điệp, chúng ta đã khám phá và trừng trị nhiều vụ gián điệp, biệt kích, hạn chế, ngăn chặn các hoạt động phá hoại của chúng. Đối với bọn phản động trong nước, chúng ta đã khám phá và trừng trị nhiều tổ chức phản động, ngăn chặn được một số vụ gây rối loạn, phá hoại trật tự an ninh. Việc tìm hiểu tình hình địch trong mấy năm qua cũng đã có nhiều tiến bộ. Công tác bảo vệ nội bộ có nhiều cố gắng. Chúng ta đã bắt đầu chú ý giáo dục cán bộ và quần chúng nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng và tích cực tham gia đấu tranh chống các hoạt động phá hoại và tham gia vào việc cải tạo những người trước kia là tề nguỵ, v.v.. Phong trào bảo vệ trị an có tính chất quần chúng đã được phát động trên toàn miền Bắc. Kết quả chủ yếu của các mặt công tác nói trên chính là ở chỗ đã góp phần làm cho tình hình trật tự, trị an được giữ vững ở toàn miền Bắc (ngay trong những lúc tình hình chung có gặp những khó khăn) và làm cho tình hình ngày càng ổn định hơn.
Công tác đánh địch đạt được những thành tích nói trên, chủ yếu là nhờ ở nhiệt tình yêu nước, giác ngộ chính trị của cán bộ và nhân dân ta, nhờ ở sự lãnh đạo của Đảng ta, nhờ ở sự cố gắng của các công cụ chuyên chính của Đảng và của Nhà nước.
Nhưng nhìn chung, công tác đánh địch vẫn còn nhiều nhược điểm và thiếu sót.
Hiện tượng phá hoại còn xảy ra nhiều, mà ta tìm ra thủ phạm còn ít; nhiều vụ nghi phá hoại mà chưa kết luận được. Một số tổ chức phản động đã có khả năng phát triển. Việc trừng trị những bọn phản cách mạng vẫn còn yếu, không kịp thời, thiếu sắc bén. Việc chỉ đạo công tác đánh địch ở thủ đô và ở các địa bàn xung yếu chưa được thật chặt chẽ. Việc tập trung lao động cải tạo đối với các phần tử nguy hiểm tiến hành chậm chạp, thiếu khẩn trương. Việc cải tạo các tầng lớp tề nguỵ cũ chưa được chú ý thường xuyên và đúng mức.
Việc bảo vệ nội bộ còn nhiều sơ hở. Việc chấp hành các chỉ thị của Trung ương về bảo vệ nội bộ chưa được nghiêm chỉnh. Nội quy ra vào cơ quan, bảo quản tài liệu, giữ gìn bí mật nhà nước chưa được chấp hành nghiêm ngặt. Tình trạng mất mát tài liệu còn xảy ra nhiều. Việc tuyển dụng người mới vào cơ quan, xí nghiệp chưa thật chặt chẽ. Việc quản lý nội bộ còn lỏng lẻo. Các tổ chức bảo vệ cơ quan, bảo vệ xí nghiệp chưa được tăng cường đúng mức.
Việc nắm tình hình địch và tình hình nội bộ chưa vững và sâu.
Việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao tính cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng chưa được các cấp uỷ đảng thường xuyên chú ý. Trong chương trình học tập của trường Đảng và chương trình chính trị các trường đại học và chuyên nghiệp cũng chưa có môn giáo dục về nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân, về tính cảnh giác cách mạng. Việc phát động quần chúng tích cực đấu tranh chống bọn phản cách mạng còn chưa sâu sắc và thường xuyên, liên tục.
Khi có những trường hợp đột xuất xảy ra, chúng ta vẫn còn lúng túng, bị động. Các lực lượng bảo vệ và đánh địch của ta chưa thật mạnh và sắc bén. Các công cụ chuyên chính, nhất là cơ quan công an, chưa được tăng cường đúng mức. Sự phối hợp và sử dụng lực lượng giữa các công cụ chuyên chính chưa được chặt chẽ.
Do chỗ công tác đối phó của ta còn nhiều nhược điểm như trên, cho nên đứng trước âm mưu phá hoại của kẻ địch hiện nay, chúng ta chưa thật hoàn toàn an tâm.
Sở dĩ công tác đánh địch của chúng ta còn chưa được mạnh và sắc bén, chủ yếu là do những nguyên nhân sau đây:
a) Nhận thức trong toàn Đảng về chức năng chuyên chính của chính quyền nhân dân đối với bọn phản cách mạng chưa thực sâu sắc, vững vàng. ý thức quan tâm tiêu diệt địch, nhiệt tình bảo vệ thành quả cách mạng trong cán bộ, kể cả cán bộ các cơ quan chuyên chính, còn chưa sâu sắc. Vì vậy, còn bộc lộ rất nhiều biểu hiện tê liệt cảnh giác, rụt rè, hữu khuynh.
b) Các luật lệ hiện hành chưa được bổ sung một cách đầy đủ và kịp thời để đáp ứng yêu cầu công tác đánh địch một cách sắc bén. Pháp quyền của ta còn nhiều chỗ sơ hở, khiến cho kẻ địch có thể lợi dụng được.
c) Các công cụ chuyên chính chưa được tăng cường đúng mức, chưa bảo đảm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của cuộc đấu tranh (kể cả về mặt tư tưởng, tổ chức và về phương tiện hoạt động).
d) Công tác đánh địch chưa thật quán triệt đường lối "Đảng lãnh đạo, dựa vào quần chúng, kết hợp tính tích cực của quần chúng với công tác nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn". Công tác đấu tranh chống phản cách mạng hiện nay còn có phần bị cô độc.
III- Nhiệm vụ và đường lối trấn áp
phản cách mạng trong thời gian tới
1. Nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng
Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng như sau:
"Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên cơ sở liên minh công nông và được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, phải thực hành chuyên chính với bọn phản cách mạng, nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Phải kiện toàn cơ quan công an nhân dân, toà án nhân dân, cơ quan kiểm sát nhân dân, giáo dục nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng; động viên và tổ chức quần chúng tích cực tham gia giữ gìn trật tự trị an, đấu tranh nhằm trừng trị bọn phản cách mạng và cải tạo những phần tử lạc hậu".
Để thực hiện Nghị quyết của Đại hội, trong thời gian sắp tới, chúng ta cần phải mạnh bạo động viên toàn Đảng, toàn dân tiến hành trấn áp phản cách mạng một cách kiên quyết, chủ động, khẩn trương, tích cực hơn, kịp thời đập tan mọi âm mưu gây bạo động, phá hoại hoặc khiêu khích của kẻ địch, giữ vững trật tự, an ninh ở miền Bắc, bảo vệ nội bộ cho thật chặt chẽ, góp phần củng cố quốc phòng, tích cực bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
Hiện nay, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để tiến hành cuộc trấn áp phản cách mạng được tốt: công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định; ta đã thu thập được tài liệu về tình hình địch trong một phạm vi nhất định; ta cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm đấu tranh trấn áp phản cách mạng qua mấy năm trước đây; do đó, việc phân biệt địch ta được dễ dàng hơn.
Công tác đấu tranh chống phản cách mạng phải theo đúng nguyên tắc cơ bản chung "tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch". Có tích cực bảo vệ mình, mới tránh được sơ hở, ngăn chặn không cho kẻ địch có điều kiện để phá hoại và mới dễ phát hiện và tiêu diệt được kẻ địch. Ngược lại, có chủ động tiêu diệt địch, mới bảo vệ được mình một cách chắc chắn.
Để bảo vệ nội bộ cho tốt, cần phải tiến hành thẩm tra nội bộ, xây dựng chế độ, nội quy, pháp lệnh về bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội, xây dựng các tổ chức chuyên trách công tác bảo vệ ở những cơ quan, xí nghiệp quan trọng, giáo dục cán bộ, công nhân nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ, nội quy bảo vệ đã ban hành.
Để chủ động tiêu diệt kẻ địch, một mặt, cần phải quét bọn phản cách mạng đầu sỏ, cốt cán (trừng trị kịp thời bọn phản cách mạng hoạt động hiện hành, tập trung giáo dục cải tạo những phần tử phản động đầu sỏ, cốt cán nguy hiểm); mặt khác, phải thường xuyên tiến hành giáo dục, cải tạo những người trước kia là tề nguỵ và phỉ, những phần tử đã tham gia các tổ chức phản động cũ và các cơ sở xã hội khác mà kẻ địch dễ dàng lợi dụng. Hai mặt nói trên liên quan mật thiết với nhau và đều nhằm mục đích làm tê liệt mọi hoạt động phá hoại và cuối cùng nhằm triệt để quét sạch bọn phản cách mạng.
2. Đối tượng trấn áp và địa bàn trọng điểm
Cần phải nhận rõ thế nào là phần tử phản cách mạng. Nói chung kẻ nào hoặc tổ chức nào căm thù cách mạng, hoạt động phá hoại sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội hay là hoạt động phá hoại chính quyền dân chủ nhân dân, hay là hoạt động chống lại sự nghiệp đấu tranh nhằm hoà bình thống nhất nước nhà thì đều coi là phản cách mạng.
Cụ thể, những phần tử sau đây đều coi là phần tử phản cách mạng hiện hành cần phải trừng trị:
a) những phần tử gián điệp hiện hành;
b) những phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên chúa đang hoạt động chống lại chính quyền cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại Tổ quốc;
c) những phần tử trước kia là tề nguỵ, phỉ, gián điệp, biệt kích hoặc đã từng tham gia các tổ chức phản động cũ, nay vẫn có thái độ ngoan cố, không chịu cải tạo và vẫn hoạt động chống lại chính quyền cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại Tổ quốc;
d) những phần tử phản động ngoan cố không chịu cải tạo trong các giai cấp bóc lột cũ, đang hoạt động chống lại chính quyền cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại Tổ quốc;
e) những phần tử khác căm thù cách mạng đang hoạt động phá hoại chống lại chính quyền cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại Tổ quốc.
Mũi nhọn đấu tranh trong công tác trấn áp phản cách mạng phải nhằm chĩa trước hết vàobọn tay sai của Mỹ - Diệm. Trong khi trấn áp bọnhoạt động phá hoại lộ liễu phải rất chú trọng phát hiện và kiên quyết trừng trị bọn hoạt động bí mật, ẩn nấp lâu dài, điều tra tình báo và gây cơ sở bí mật ở miền Bắc.
Các cấp lãnh đạo ở trung ương, khu, thành, tỉnh phải nắm chặt chỉ đạo công tác đánh địch và bảo vệ nội bộ, trước hết đối với các địa bàn sau đây:
1. Các cơ quan đầu não ở trung ương, các cơ quan xí nghiệp quan trọng ở các cấp và lực lượng vũ trang thường trực.
2. Thủ đô và các thành phố quan trọng, các hải cảng và cửa khẩu.
3. Các khu vực quan trọng về quốc phòng, kinh tế, chính trị và các đường giao thông chiến lược.
3. Yêu cầu cụ thể của công tác trấn áp phản cách mạng trong hai năm 1962 - 1963
a) Hết năm 1962 sang nửa đầu năm 1963, bảo đảm làm cho các cơ quan đầu não, các cơ quan, xí nghiệp quan trọng, các đơn vị vũ trang thường trực được thuần khiết và được bảo vệ một cách nghiêm mật. Yêu cầu cụ thể đối với các nơi này là:
- Chế độ, nội quy bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài liệu được quy định cụ thể, đầy đủ và được chấp hành nghiêm ngặt.
- Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên được lựa chọn chặt chẽ, được phát động tư tưởng và có ý thức cảnh giác cao, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy.
- Đối với những phần tử hiềm nghi và các phần tử chống đối, phải điều chuyển đi nơi khác không quan trọng. Với một số người nếu vì điều kiện nào đó mà chưa điều chuyển được, thì phải tăng cường giáo dục, đồng thời khéo sử dụng, hạn chế hiểu biết về bí mật nhà nước và phải giám sát chặt chẽ.
- Bộ phận chuyên trách công tác bảo vệ được củng cố và tăng cường đúng mức.
- Chi bộ và thủ trưởng lãnh đạo chặt chẽ công tác bảo vệ nội bộ.
b) Cuối năm 1962, sang nửa năm 1963, bảo đảm làm cho tình hình trật tự, trị an ở Hà Nội, Hải Phòng và những khu vực quan trọng về quốc phòng, kinh tế, chính trị khác được ổn định thật sự.
Yêu cầu cụ thể đối với các nơi này là:
- Nắm vững tình hình địch, phát hiện kịp thời các phần tử có nghi vấn chính trị.
- Quần chúng được phát động, có ý thức cảnh giác cao, tích cực đấu tranh chống mọi hoạt động phá hoại của kẻ địch, tích cực tham gia cuộc vận động giữ gìn trật tự, trị an.
- Điều chuyển những phần tử hiềm nghi và các phần tử chống đối khác đi các nơi khác không quan trọng. Đối với một số tên, nếu vì điều kiện nào đó mà chưa điều chuyển được thì phải giám sát chặt chẽ.
- Đảng bộ lãnh đạo chặt chẽ công tác nắm tình hình địch và công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng.
c) Sau hai năm, căn bản quét được các lực lượng phản cách mạng bộc lộ và tương đối bộc lộ ở miền Bắc. Vì đấu tranh chống bọn phản cách mạng, nhất là chống bọn gián điệp, là một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, cho nên không thể đặt yêu cầu tuyệt đối và không thể định mức thời gian một cách cứng nhắc. Nhưng căn cứ vào tình hình các lực lượng phản cách mạng hiện nay, cần đặt yêu cầu trong một thời gian nhất định quét xong được những bọn phản cách mạng đầu sỏ, cốt cán hoạt động bộc lộ và tương đối bộc lộ. Còn đối với bọn gián điệp ẩn nấp, hoạt động bí mật, lâu dài là những bọn nguy hiểm nhất đối với ta, thì cần tích cực đi sâu phát hiện để trừng trị kịp thời. Với những tên, vì điều kiện nào đó chưa quét được thì phải có kế hoạch giám sát chặt chẽ.
d) Bảo đảm loại trừ khả năng gây bạo loạn của kẻ địch. Bảo đảm ngăn chặn kịp thời và tiêu diệt nhanh chóng mọi âm mưu gây rối trật tự, gây bạo động, hoặc gây khiêu khích của địch bất kỳ ở đâu.
e) Bảo đảm căn bản nắm được tình hình địch ẩn nấp ở trong nội bộ và ở ngoài xã hội, nhất là ở những địa bàn trọng điểm kể trên. Vì đấu tranh chống gián điệp là một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, cho nên việc nắm vững tình hình địch ẩn nấp cũng không thể đặt yêu cầu tuyệt đối, nhưng nhất định phải đạt tới mức nắm vững tình hình chính trị phức tạp và phát hiện kịp thời kẻ địch.
4. Phương châm công tác
Trong công tác đấu tranh chống phản cách mạng, chúng ta phải thấu suốt tinh thần "kiên quyết và thận trọng" trong phương châm "nâng cao cảnh giác, không để lọt một kẻ địch; đề phòng lệch lạc, không được làm oan một người ngay".
Vì đấu tranh chống phản cách mạng là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, cho nên phải không ngừng nâng cao cảnh giác cho cán bộ và quần chúng, kiên quyết phát hiện và trừng trị mọi phần tử phản cách mạng, không để lọt một kẻ địch. Nhưng lại vì cuộc đấu tranh đó rất phức tạp, cho nên cần phải rất thận trọng và tỉnh táo, đề phòng lệch lạc trấn áp nhầm phải người vô tội. Trong quá trình lãnh đạo, tuỳ nơi và tuỳ lúc, phải luôn luôn chú ý đấu tranh thích đáng trên hai mặt: chống hữu (phê phán, khắc phục bệnh tê liệt cảnh giác, biểu hiện rụt rè, sợ rung động, v.v. ) và chống "tả" (phê phán, khắc phục thiên hướng bắt bừa bãi, mở diện đấu tranh quá rộng, v.v.).
5. Chính sách và sách lược
Chính sách căn bản của Đảng trong công tác trấn áp phản cách mạng là "trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo". Cụ thể tức là: "nghiêm trị bọn chủ mưu, thủ ác, khoan hồng với những kẻ bị ép buộc, lầm đường và những kẻ hối cải; giảm tội hoặc miễn tội cho kẻ lập công, thưởng cho kẻ lập công lớn".
Phải nắm vững yêu cầu chủ yếu của việc thực hiện chính sách là đánh cho đúng, đánh cho vững, đánh cho mạnh.
Trong khi tiến hành trừng trị những phần tử phản cách mạng đang hoạt động và tập trung giáo dục cải tạo những phần tử nguy hiểm, cần phải nhằm đạt mục đích là quét được bọn phản cách mạng đầu sỏ và cốt cán, để làm tê liệt hoạt động phá hoại của chúng. Việc trừng trị phải tiến hành kịp thời, để có tác dụng đánh xẹp khí thế của bọn phản cách mạng và nâng cao khí thế cách mạng của quần chúng. Việc tập trung giáo dục cải tạo những phần tử nguy hiểm phải làm theo từng đợt, nhanh, gọn và trước hết nhằm vào bọn nguy hiểm nhất.
Đối với những bọn can phạm bị giam trong trại giam và những bọn nguy hiểm đã bị tập trung, cần tăng cường công tác giáo dục về chính trị kết hợp với việc bắt buộc chúng phải lao động sản xuất, nhằm cải tạo phần lớn bọn chúng trở thành những người lao động lương thiện. Đối với bọn hết hạn tù, hoặc hết hạn bị tập trung và được tha về các địa phương, cũng cần tiếp tục giáo dục cải tạo và giúp đỡ cho chúng có nghề nghiệp lao động để sinh sống.
Trong khi tiến hành cải tạo những người trước kia là tề nguỵ, phỉ và những phần tử đã tham gia các tổ chức phản động cũ ở ngoài xã hội, cần nắm vững tinh thần "tích cực và kiên trì giáo dục cải tạo" để giáo dục họ trở thành những người lao động tốt. Cần thông qua các cuộc giải thích thời sự và chính sách của Đảng và Chính phủ mà giáo dục họ; không nên có thái độ mỉa mai, đả kích, gạt bỏ họ, đẩy họ trở lại bất mãn và gây thêm khó khăn cho ta. Chỉ đối với một số rất ít, qua nhiều lần giáo dục mà vẫn còn có những lời nói hoặc hành động chống đối và chưa đáng tội bắt, thì có thể dùng hình thức kiểm thảo trước quần chúng hoặc quản chế tại địa phương, nhưng diện này không nên rộng.
Đối với những người trong gia đình bọn phản cách mạng và gia đình những bọn bị tập trung, cần chú ý giáo dục chính sách cho họ, tranh thủ sự đồng tình của họ đối với các biện pháp của ta, và khuyên họ góp phần vào việc giáo dục kẻ phạm tội. Các cấp cần chú ý không nên có thái độ thành kiến, đả kích đối với họ. Đối với những người gặp nhiều khó khăn trong đời sống, địa phương cần chú ý giúp đỡ họ có điều kiện lao động sản xuất.
6. Đường lối công tác
Trong việc trấn áp phản cách mạng, phải thấu suốt đường lối công tác cơ bản là: "Đảng lãnh đạo, dựa vào quần chúng, kết hợp tính tích cực của quần chúng với công tác nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn". Phải thật sự động viên toàn Đảng, phải mạnh bạo và kiên quyết phát động quần chúng đứng dậy đấu tranh chống bọn phản cách mạng. Trong khi thực hành đường lối quần chúng, phải chú ý nắm vững lãnh đạo và phải kết hợp tính tích cực của quần chúng với công tác nghiệp vụ của các ngành chuyên môn. Trong công tác bảo vệ nội bộ phải thực hành đúng nguyên tắc: "Đảng lãnh đạo, thủ trưởng phụ trách, công an hướng dẫn về nghiệp vụ".
Phải thấu suốt nguyên tắc Đảng lãnh đạo chặt chẽ. Các cấp uỷ phải định kỳ tập thể nghiên cứu tình hình địch, nghiên cứu công tác đánh địch và công tác bảo vệ trong phạm vi mình phụ trách và quyết định những công tác lớn phải tiến hành. Chi bộ phải lãnh đạo công tác này trong từng xã, từng khu phố, cũng như trong từng cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, v.v..
Các thủ trưởng các ngành các cấp, các ban, các đảng đoàn, có trách nhiệm thi hành các mặt công tác bảo vệ, đánh địch trong toàn ngành mình phụ trách và phải chịu trách nhiệm chính đối với cấp uỷ đảng và đối với cấp trên.
Công an là cơ quan giúp việc đắc lực cho cấp uỷ, có nhiệm vụ hướng dẫn các ngành, các cấp dưới về mặt nghiệp vụ.
Phải tăng cường và phối hợp chặt chẽ các công cụ chuyên chính. Cần có kế hoạch và nguyên tắc phối hợp tốt các lực lượng công an, quân đội và dân quân du kích, để bảo đảm ngăn chặn kịp thời và tiêu diệt nhanh chóng mọi cuộc bạo động, gây rối trị an, hoặc hành động khiêu khích của kẻ địch bất kể xảy ra ở đâu và lúc nào. Phải tăng cường các công cụ chuyên chính: công an, kiểm sát, toà án (về các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và phương tiện làm việc, v.v.), và các ngành này phải phối hợp chặt chẽ để phát huy đầy đủ chức năng chuyên chính mạnh mẽ đối với kẻ địch.
7. Hình thức vận động
Rút kinh nghiệm đấu tranh chống phản cách mạng trong mấy năm vừa qua, trong tình hình chính trị của nước ta hiện nay, không cần thiết phải mở một phong trào vận động quần chúng trấn áp phản cách mạng một cách rầm rộ cùng một thời gian trong toàn miền Bắc mà cuộc đấu tranh chống phản cách mạng ở miền Bắc sẽ tiến hành dưới nhiều hình thức linh hoạt, nhằm đạt được yêu cầu phát động mạnh mẽ khí thế cách mạng của quần chúng và đấu tranh kiên quyết chống mọi hoạt động phá hoại của bọn phản cách mạng.
Hiện nay,hình thức thích hợp nhất và phổ biến nhất ở khắp nơi là tiến hành tuyên truyền giáo dục sâu rộng về tinh thần yêu nước và ý thức cảnh giác cách mạng, để phát huy khí thế cách mạng của quần chúng, động viên quần chúng tích cực tham gia công tác đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ sản xuất, bảo vệ bí mật nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, thể lệ, nội quy đã ban hành. Trong nội bộcác cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội, thì gọi là cuộc vận động "bảo mật phòng gian", còn ở ngoài xã hội thì gọi là cuộc vận động "bảo vệ trị an", theo cách ta đã làm ở xã Yên Phong, huyện Yên mô, tỉnh Ninh Bình (đã nêu trong Chỉ thị số 13 ngày 1-3-1961 của Ban Bí thư).
- Đối với những nơi xảy ra nhiều hoạt động phá hoại của bọn phản động cách mạng, cần tập trung lực lượng, tập trung chỉ đạo, chọn đúng thời cơ, mở cuộc vận động quần chúng đấu tranh với bọn phản cách mạng, kết hợp với việc đẩy mạnh các mặt công tác khác ở địa phương.
- Phải thông qua phong trào bảo vệ trị an có tính chất quần chúng để thường xuyên tiến hành giáo dục cải tạo những người trước kia là tề nguỵ, phỉ, những phần tử đã tham gia các tổ chức phản động cũ và các cơ sở xã hội khác mà địch dễ dàng lợi dụng ở ngoài xã hội.
Trên cơ sở giác ngộ chính trị của cán bộ và quần chúng được nâng cao, khuyến khích cán bộ và quần chúng báo cáo riêng với công an hoặc với cán bộ lãnh đạo những trường hợp nghi vấn về chính trị. Đối với những tài liệu do quần chúng tố cáo thì các cơ quan lãnh đạokhông được vội vàng kết luận mà phải tiến hành xác minh một cách thận trọng để tìm rõ sự thực.
IV- Mấy công tác lớn
1. Phải quy định chức trách và có kế hoạch cụ thể đối với từng cấp để tiến hành điều tra, nghiên cứu, nắm vững tình hình địch và tình hình chính trị phức tạp của từng địa phương, của từng đơn vị, cơ quan, xí nghiệp.
2. Khẩn trương tiến hành công tác tập trung cải tạo đối với các phần tử nguy hiểm. Bảo đảm duyệt đúng đối tượng, tiến hành tốt công tác giáo dục, cải tạo những phần tử bị tập trung và làm tốt công tác chính trị trong quần chúng và đối với gia đình họ, tránh gây thêm phức tạp.
3. Tích cực phát hiện, truy lùng và trừng trị kịp thời những bọn gián điệp được địch cài lại hoặc mới phái đến miền Bắc và những bọn phá hoại hiện hành khác.
4. Có kế hoạch cụ thể để tiến hành lần lượt trong từng khu vực trong từng huyện, tích cực đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an để phát huy mạnh mẽ khí thế cách mạng của quần chúng trong cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự, trị an trong thôn, xã, chống mọi hoạt động phá hoại. Phổ biến rộng rãi kinh nghiệm xã Yên Phong, Ninh Bình.
Thông qua phong trào bảo vệ trị an mà tiến hành tốt công tác giáo dục cải tạo những người trước kia là tề nguỵ, phỉ và những phần tử đã tham gia các tổ chức phản động cũ ở ngoài xã hội.
5. Có kế hoạch từng bước thẩm tra nội bộ để hiểu kỹ lịch sử từng người cán bộ, nhân viên và thẩm tra kỹ vấn đề phát triển đảng viên mới (trước hết phải tiến hành thẩm tra ở các cơ quan đầu não và các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị vũ trang trọng yếu).
ở các cơ quan xí nghiệp, phải thường xuyên động viên giáo dục cán bộ và quần chúng nâng cao cảnh giác, giữ gìn bí mật nhà nước, bảo vệ sản xuất, phát hiện và tiến hành đấu tranh chống mọi hành vi phá hoại, xây dựng và bổ sung các chế độ, nội quy bảo vệ và đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc chấp hành tốt các chế độ, nội quy đó, kiện toàn tổ chức bảo vệ của cơ quan, xí nghiệp.
6. Quy định rõ ràng những khu vực xung yếu về quốc phòng và những cơ quan, xí nghiệp quan trọng và có kế hoạch cụ thể lần lượt làm trong sạch những khu vực và cơ quan, xí nghiệp quan trọng đótheo những yêu cầu cụ thể nói trên.
7. Có kế hoạch sẵn sàng bảo đảm phối hợp nhanh chóng các lực lượng để ngăn chặn kịp thời, tiêu diệt nhanh chóng mọi âm mưu và hành động gây rối trật tự, bạo động, khiêu khích ở biên giới, giới tuyến để bảo đảm tốt trật tự, an ninh bất kể trong tình hình nào.
8. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nâng cao tính cảnh giác cách mạng và ý thức giai cấp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động, làm cho mọi người đều đồng tình và tích cực tham gia công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng. Các ngành tuyên, văn, giáo, huấn phải thường xuyên giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tính cảnh giác cách mạng, lòng căm thù kẻ địch và đường lối, chính sách trấn áp phản cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
V- Tổ chức thực hiện nghị quyết
1. Các cấp uỷ đảng ở khu, thành, tỉnh, các ban, các đảng đoàn phải tổ chức tập thể nghiên cứu để thấu suốt tinh thần nghị quyết này, liên hệ với tình hình chính trị của địa phương hoặc ngành mình và đặt kế hoạch toàn diện thi hành Nghị quyết này trong phạm vi phụ trách của mình.
2. Ít nhất ba tháng một kỳ, các cấp uỷ phải kiểm điểm tình hình thực hiện công tác này, tổ chức kiểm tra thường xuyên tận cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh công tác với một tinh thần khẩn trương, vững vàng, và kịp thời uốn nắn những lệch lạc xảy ra.
3. Ban Tổ chức Trung ương có trách nhiệm cùng với Đảng đoàn Bộ Công an, Ban Kiểm tra của Đảng, Đảng đoàn Ban Thanh tra Chính phủ, nghiên cứu và đề nghị với Ban Bí thư kế hoạch tiến hành thẩm tra chính trị nội bộ.
4. Ba tháng một kỳ, Đảng đoàn Bộ Công an có trách nhiệm nghiên cứu để nắm vững tình hình địch, theo dõi tình hình chấp hành nghị quyết này để báo cáo tổng hợp và đề nghị các vấn đề cần thiết lên Trung ương.
Vì vậy các cấp uỷ khu, thành, tỉnh, các ban, các đảng đoàn chung quanh Trung ương khi gửi báo cáo công tác thi hành Nghị quyết này lên Ban Bí thư, cần sao gửi một bản cho Đảng đoàn Bộ Công an theo dõi.
5. Đảng đoàn Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và đảng đoàn Toà án nhân dân tối cao cần theo dõi tình hình chấp hành Nghị quyết này trong phạm vi phụ trách của mình.
6. Cần tổ chức nghiên cứu toàn văn bản Nghị quyết này đến các huyện uỷ, thị uỷ, đảng uỷ các cơ quan ở trung ương và các cấp bộ tương đương. Sau khi nghiên cứu, các đơn vị phải có kế hoạch công tác cụ thể để chấp hành nghị quyết này trong phạm vi mình phụ trách.
Đối với chi bộ và đảng viên thì Đảng đoàn Bộ Công an cùng với Ban Tuyên giáo Trung ương soạn một tài liệu để tổ chức học tập trong nội bộ.
*
* *
Đấu tranh chống phản cách mạng để bảo vệ thành quả cách mạng là một vấn đề thuộc về nguyên tắc của chính quyền chuyên chính dân chủ nhân dân, thực chất là chuyên chính vô sản. đó là một trong những quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nước nào. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã tổng kết cuộc đấu tranh chống bọn phản cách mạng trong những năm trước đây, và đã đề ra đường lối, phương hướng chung chỉ đạo cho cuộc đấu tranh trấn áp phản cách mạng từ nay về sau.
Trung ương tin rằng, được Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng soi sáng và dựa vào nhiệt tình cách mạng của toàn thể cán bộ và nhân dân, nhất định chúng ta sẽ giành được nhiều thắng lợi trong cuộc đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng để bảo vệ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phục vụ tốt cho sự nghiệp đấu tranh nhằm hoà bình thống nhất nước nhà.
Nghị quyết này chỉ phổ biến đến huyện uỷ.
T/M Bộ Chính trị

 Trường Chinh

http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dang-toan-tap/doc-5101520152500356.html

Thursday 18 February 2016

Nguồn gốc của phở (Vương Trung Hiếu - Văn Chương Việt)

 

Nguồn Gốc Của Phở Vương Trung Hiếu

 
Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc của phở vào ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết về vấn đề này và nhận ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống nhất quan điểm về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa đàm”này, hy vọng rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều...
 
Phở ra đời từ năm nào?
 
Có thể khẳng định rằng tính đến năm 1838, từ “phở” chưa xuất hiện trong từ điển, bởi vì trong năm này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của AJ.L Taberd (còn gọi là Từ điển Taberd) được xuất bản lần đầu, nhưng trong đó không có từ “phở”. Theo nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở xuất hiện trong từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (1896) với nghĩa là “nổi tiếng tăm”(trang 200). Năm 1898, phở có mặt trong Dictionnaire Annamite-Français của  J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ồn ào” (trang 614). Trong bài Essai sur les Tonkinois (Khảo luận về người Bắc Kỳ) đăng trên Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương) ngày 15-9-1907, Georges Dumonutier đã giới thiệu nhiều thức ăn uống phổ biến ở miền Bắc vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm 1931, từ phở có nghĩa là một món ăn mới bắt đầu xuất hiện, ít nhất là trong quyển Việt Nam Tự Điển của Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (NXB Mặc Lâm): phở “do chữ phấn mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò: Phở xào, phở tái” (trang 443) (1). Một khi từ phở đã xuất hiện trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ biến. Thật vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Công Hoan viết: “1913... trọ số 8 hàng Hài... thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu,5 xu)”(2). Từ yếu tố này ta có thể khẳng định phở đã ra đời từ đầu thế kỷ 20.
 
Nguồn gốc của phở
 
Hiện nay, có ba quan điểm chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó là : phở xuất phát từ món pot-au-feu của Pháp, từ  món ngưu nhục phấn của Trung Quốc và cuối cùng là món xáo trâu của Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt tham khảo từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu.
 
Gốc Pháp
 
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là  cách nói tắt của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu). Quan điểm này được củng cố bằng quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue (1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
Món pot-au-feu (ảnh: Wikipedia)
 
Chúng tôi thật sự không hiểu: pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước có thể làm súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại có thể ghép món này với cháo phở của Việt Nam, cho dù trong giai đoạn ấy, do ảnh hưởng người Pháp, người Việt đã bắt đầu làm quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu món cháo thịt bò. Trên thực tế, xét về nguyên liệu, cách chế biến và cả cách ăn  thì phở và pot-au-feu là hai món hoàn toàn khác nhau,. Theo Wikipedia, pot-au-feu là  món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây, cần tây, hành tây; kết hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương… Thịt bò sử dụng cho món này thường dầy và to (chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ chân…), trong khi đó thịt bò trong phở lại mỏng và nhỏ; mặt khác, những thứ như cà rốt, củ cải, tỏi tây… không phải là nguyên liệu để làm phở, mùi vị pot-au-feu cũng không giống như phở. Người Pháp ăn món này với bánh mì, khoai tây, dùng muối thô, mù tạt Dijon, đôi khi cũng ăn với dưa chuột ri ngâm giấm chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm khi cho rằng phở có nguồn gốc từ món pot-au-feu.
 
Gốc Trung Quốc
 
 
Đây là giả thuyết mà nhiều người đồng ý nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc từ món Ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món làm từ bún và thịt bò (ngưu牛: bò; nhục 肉: thịt và phấn 粉: bún, bột gạo dạng sợi). Món này đọc theo tiếng Quảng Đông là Ngầu- yụk -phẳn. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán món Ngưu nhục phấn tại Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ngầu.. yụk..phẳn ..a” rồi dần dần hô tắt còn “yụk …phẳn…a” rồi “phẳn…a” và cuối cùng hô trại thành “phở”. Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (đã nêu trên): phở “do chữ phấn mà ra”.
 
Củng cố thêm là định nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue (1937), trong đó có đoạn: “Abréviation de “lục phở: phở xào: beignet farci et sauté” nghĩa là “viết tắt của từ “lục phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và được chiên”. Nhiều người thắc mắc, không biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng tôi đây là từ có thật. Tương truyền rằng ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn môn, Yên phong, Bắc Ninh) có sáng tác một bài thơ nói về chợ Đồng Xuân, để các cô đi chợ ngâm nga giải trí trên đường đi, trong đó có câu liên quan tới “lục phở”, xin trích đoạn sau:
----
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau lưng hàng giò
……
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết về từ “lục phở”: “abréviation de "lục phở": bouilli - cháo - pot au feu”…, “Lục phở: prononciation cantonaise des caractères chinois: (ngưu) nhục phấn" bouilli de boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của " lục phở", còn "lục phở" là từ phát âm của "(ngưu) nhục phấn" trong tiếng Trung Hoa.
 
Đến năm 1970, Nhà sách Khai Trí ( Sài-gòn) xuất bản quyển Việt Nam Tự-điển, do Lê Ngọc Trụ hiệu đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chắc hơn, trong đó định nghĩa “phở” như sau: “Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng hấp chín xắt thành sợi nấu với thịt bò (do tiếng Tàu “Ngầu-dục-phảnh” tức “Ngưu-nhục-phấn” mà ra: Ăn phở, bán phở”, trang 1169, tập 2).
 
Thật ra, những quan điểm trên chỉ cho thấy chữ “phở” có nguồn gốc từ tên Ngưu nhục phấn, nhưng đáng tiếc là  nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn, hoặc “cách tân” từ  món Ngưu nhục phấn, chế biến cho hợp với khẩu vị của người Việt. Một số người lại dựa theo bài “Phở, phởn, phịa…” của Nguyễn Dư, dẫn chứng quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam, 1908 - 1909) của Henri Oger (3) để củng cố quan điểm này. Họ giới thiệu hai bức tranh khắc, bức đầu tiên (mang số 26 trong tập tranh 4577 bức) miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú thích “Chinois vendeur ambulant à la tombée de la nuit” (Người Tàu bán hàng trong buổi tối - Trần Đình Bình dịch). Nhưng họ không thể khẳng định người đàn ông ấy bán cái gì, chỉ bảo rằng gánh hàng trông giống như gánh phở ở Hà Nội ngày xưa); bức còn lại là hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn  行肉粉, họ cho rằng giống như thùng của gánh hàng trong bức đầu tiên. Thế là họ vội khẳng định dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉, và bán Ngưu nhục phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách khác, phở chính là Ngưu nhục phấn (!). Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người bán hàng có tóc đuôi sam, vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉 ở Hà Nội chứ không phải người Việt Nam bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả gánh hàng Ngưu nhục phấn ra làm sao để đối chiếu với gánh phở. Có khả năng gánh “nhục phấn” giống gánh “phở” chăng?  
 
Theo chúng tôi, ngưu nhục phấnphở là hai món ăn khác nhau. Từ điển bách khoa Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa phương, nguyên liệu và cách chế biến ngưu nhục phấn có thay đổi đôi chút, song nhìn chung, nguyên liệu gồm có: thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, hành, tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô, rau mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải…Trong khi đó, thành phần chính của phở gồm có sợi phở, nước dùng (ninh từ xương ống lợn/bò và một số gia vị khác), thịt bò bắp (để làm thịt chín), thịt thăn mềm (để làm thịt tái), con sá sùng, tôm nõn, hành khô, gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây, hành hoa, húng bạc hà, chanh, ớt, rau thơm…
 
Xét về nguyên liệu, ngưu nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, tinh dầu hạt cải…những thứ không dùng để chế biến phở; ngược lại phở sử dụng con sá sùng (có thể thay bằng bột ngọt), tôm nõn, dứa, chanh, ớt, rau thơm…những thứ không thấy khi làm món ngưu nhục phấn.
 
Cách chế biến hai món này cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không trình bày ở đây, mời bạn đọc tìm hiểu thêm từ những clip giới thiệu cách làm ngưu nhục phấn và phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây (bên trái) bạn sẽ thấy nước phở trong, bánh phở nhỏ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn 牛肉粉,  có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Việt Nam.  
 
Gốc Việt Nam
 
Trước hết, xin phép nhắc lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm khẳng định món phở là của Việt Nam. Song song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm dần dần trở thành văn tự chính của nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, chính quyền Pháp quyết định giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho (năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung Kỳ). Họ dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm để làm văn tự chính thức ở nước ta từ năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời xuất hiện để chúng ta thấy rằng phở chẳng liên quan gì tới phấn 粉 trong Ngưu nhục phấn  牛肉粉. Nhìn chung, có một số cách cấu tạo chữ Nôm, ở đây chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để bạn đọc đối chiếu với từ phấn:
 
- Thứ nhất, cách vay mượn nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ Nôm có cách đọc và nghĩa khác với chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt) để tạo chữ Nôm biết 別(hiểu biết); mược chữ đế 帝 (vua chúa) để tạo ra chữ Nôm đấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
- Thứ hai, cách ghép hai chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là thành tố biểu ý, chữ thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt 月 (biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ Nôm tháng; mượn chữ thượng 上 (biểu ý) +  thiên 天 (biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.
 
Vậy có bao nhiêu chữ Nôm đọc là phở?
 
Theo những tự điển mà chúng tôi đã tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm có ba chữ (𡂄 và 㗞, đều thuộc bộ khẩu; 頗, thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở có một chữ (普, thuộc bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm hai chữ Hán ghép lại: mễ 米+ phả .
 
Những thí dụ trên cho thấy hai chi tiết đáng chú ý sau:
 
1. Bánh phở bò: trong Từ điển nhật dụng thường đàm, mục Thực phẩm (食 品 門 Thực phẩm môn) có đoạn giải thích về “bánh phở bò” bằng chữ Nôm. Chúng tôi sắp xếp lại cho dễ đọc: “Chữ Hán: 玉 酥 餅 (âm Hán Việt: ngọc tô bính) giải thích bằng chữ Nôm: 羅 普 (là 羅 bánhphở 普 bò); tiếng Anh : rice noodle. Ta thấy gì?
 
普 là một chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt là phổ. Người Việt xưa đã mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở.  Tuy nhiên, cách giải thích của Từ điển nhật dụng thường đàm khiến chúng tôi rất phân vân, bởi vì từ tiếng Anh rice noodle có nghĩa là phở, tức món phở mà ta đang bàn, song chữ Hán玉 酥 餅 (ngọc tô bính) lại nói về một loại bánh khác, vì trong đó 酥 có nghĩa là món ăn làm bằng bột nhào với dầu. Thí dụ: hồng đậu ngọc tô bính 红豆玉酥 (bánh ngọt nhân đậu đỏ), hạch đào tô ( bánh bột trái đào). Vậy từ phở 普 ở đây dùng để chỉ món phở hay bánh bột? Đây là điều cần phải xem lại.
 
2. Theo Từ điển chữ Nôm của Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF), hai chữ Hán: mễ 米 (biểu ý) kết hợp với phả (biểu âm) tạo thành một chữ Nôm có nghĩa là phở(trong cơm phở). Đây là cách ghép từ rất đáng chú ý, vì mễ 米 có nghĩa là gạo, biểu ý cho món ăn chế biến từ gạo (bánh phở); còn phả đọc theo tiếng Hoa là “pho” hoặc “phỏ”, dùng làm từ biểu âm để tạo ra chữ phở là rất hợp lý.
 
Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở (𡂄, 㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn 粉 trong ngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở  trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên quan gì cả. Nếu thật sự phở là từ đọc trại từ chữ phấn 粉, tại sao người Việt xưa không mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở ? Vì điều này tiện hơn là mượn một chữ khác?  Nói rộng hơn, chữ Nôm 𤙭 trong phở bò cũng chẳng có liên quan gì tới chữ ngưu 牛 trong tiếng Hán.
 
Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò  𤙭 cho thấy rằng người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng “phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc.
 
Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?
 
Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc, đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Để làm món này người ta chuẩn bị nguyên liệu : thịt trâu thái mỏng (ướp gia vị cho thấm), hành lá, hành ta (tím), tỏi, mỡ, rau răm cắt dài 1 đốt ngón tay, khế chua cắt ngang…Sau đó họ xáo (xào) thịt trong chảo khoảng 30 giây rồi đổ ra bát riêng, kế tiếp bỏ khế vào, đảo đều tới lúc khế chuyển sang màu trắng; rồi cho thịt, rau răm và hành vào, đảo cho tới lúc tỏa mùi thơm (khoảng một phút) ; cuối cùng họ chế nước vào, để lửa liu riu. Khi ăn, họ lấy bún cho vào bát, sau đó gắp vài miếng thịt trâu bày trên mặt bún rồi chan nước xáo thịt vào.
 
Nhìn chung, xáo trâu là món ăn thông thường ở các chợ nông thôn, xóm bình dân của Hà Nội ngày xưa. Trước năm 1884, việc nuôi bò ở miền bắc chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp, người Việt chưa có thói quen ăn thịt bò, nhưng ít nhiều gì người Hà Nội cũng đã từng ăn món Ngưu nhục phấn do Hoa kiều bán rong trên đường phố.
 
Có nhà nghiên cứu cho rằng vào thời đó, thịt bò bị chê là nóng và gây nên chẳng mấy người mua, giá bán rất rẻ, chỉ có người Pháp mới ăn thịt bò. Và chính vì thế một số người bán xáo trâu mới chuyển sang bán xáo bò. Thật ra không phải vậy. Thịt bò thời đó khan hiếm và đắt tiền. Theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Long, trước năm 1885 “các quan chức Tây còn không có đủ thịt bò mà ăn nói chi đến người Việt. Ngay cả đến những năm 40-50 của thế kỉ trước, khi phở đã khá thịnh hành và thành món ăn “gây nghiện” cho một tầng lớp người khá giả ở Hà Nội thì việc cung cấp thịt bò ở Hà Nội cũng không phải dư giả cho lắm. Trong bài Phở Gà, Nhà văn vũ Bằng đã phải thốt lên: “Ở Hà nội có hai ngày trong tuần mà những người “chuyên môn ăn phở” bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai ngày không có thịt bò. Anh nào nghiện thịt bò, nhớ thịt bò hai hôm ấy như gái nhớ trai, như trai nhớ gái”…”.
 
Nhìn chung, từ khi người Pháp vào nước ta, người Việt đã chịu ảnh hưởng phần nào thói quen ăn uống của người Pháp. Dân ta đã bắt đầu ăn khoai tây, súp lơ, su hào, cà rốt, bánh mì, bơ, phó mát…, đặc biệt là thịt bò. Những món ăn mới có thịt bò dần dần xuất hiện, đó là cháo bò và xáo bò... Xáo bò là một món “biến tấu” từ xáo trâu. Tuy nhiên, do thịt bò ăn với bún không hợp lắm nên người ta mới nghĩ ra cách ăn với những loại bánh khác, trong đó có loại bánh cuốn chay mỏng phổ biến ở Hà Nội rồi cuối cùng “sánh duyên” lâu dài với bánh phở. Phải chăng, để phân biệt với món xáo bò, người ta đã nghĩ ra từ phở bò, xuất phát từ việc ăn bánh phở với thịt bò ? Nếu bánh phở  là từ xuất hiện trước món phở thì ta có quyền tin vào giả thuyết này. Và nếu đúng vậy thì phở là từ nằm trong bánh phở  chứ không phải do đọc trại  chữ phẳn 粉 theo giọng Quảng Đông.
 
Phần viết thêm
 
Trong từ điển Wikipedia bản tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đều có mục riêng viết về phở và gọi đích danh là “ Phở”, chứ không gọi bằng tên món ăn nào đó của Pháp hay Trung Quốc. Điều này cho thấy thế giới công nhận “phở” là một món ăn của Việt Nam. Riêng bản Trung văn, mục viết về phở có tựa đề là 越南粉 (Việt Nam phấn), cũng cho thấy rằng người Trung Quốc công nhận “phở” là món ăn Việt Nam. Do đặc điểm về ngôn ngữ, trong phần nói về nguồn gốc của từ phở, họ chú thích hình ảnh tô phở là 越 南牛肉粉 (Việt Nam ngưu nhục phấn), có thể dịch là “phở bò Việt Nam”. Viết như thế thì chấp nhận được. Nhưng có những website dạy tiếng Trung Quốc lại ngang nhiên giảng phở bò Ngưu nhục phấn  牛肉粉 thì thật đáng báo động (!).

(1) Nguồn gốc và sự ra đời của phở của Vũ Thế Long.

(2) Nguyễn Công Hoan. Nhớ và ghi về Hà Nội, NXB Trẻ 2004.
(3) “Kỹ thuật của người An Nam” (tựa tiếng Pháp: “Technique du peuple Annamite”, tựa tiếng Anh: “Mechanics and crafts of the Annamites”) là một công trình nghiên cứu văn minh vật chất ở An Nam khoảng 100 năm về trước, chủ yếu phản ánh cuộc sống của người Hà Nội. Quyển này tập hợp 4577 bức tranh khắc, do Monsier Henri Oger (người Pháp) và những nghệ nhân người Việt Nam thực hiện trong hai năm (1908 – 1909), phát hành với số lượng hạn chế (60 bản). (theo Wikipedia tiếng Việt).
 
 
Vương Trung Hiếu
Số lần đọc: 5568
Ngày đăng: 17.07.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18940

Wednesday 17 February 2016

Hai người gian dối trong cuộc chiến 1979 (Đức Toàn - Petrotimes)


06:40 | 17/02/2016

Hai người gian dối trong cuộc chiến 1979

Tháng 3/1979, nhân dịp kỷ niệm 48 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (TNCSHCM), Trung ương Đoàn đã mời những đoàn viên thanh niên có thành tích xuất sắc trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược về Hà Nội để kể chuyện chiến đấu và nêu gương sáng trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu cho thế hệ trẻ cả nước.

Tướng Phạm Xuân Thệ: Nói về chiến tranh biên giới không phải kích động thù hằn dân tộc!
Trung tướng - Anh hùng LLVTND Phạm Xuân Thệ nhấn mạnh rằng: “Chúng ta nói ra là để tôn vinh những người đã khuất chứ không phải để kích động thù hằn dân tộc.”
Chủ trì cuộc gặp mặt hôm đó có ông Nguyễn Tiên Phong và ông Lê Thanh Đạo, Bí thư Trung ương Đoàn.
Hơn chục nhân chứng gồm bộ đội, công nhân, dân quân tự vệ và thanh niên thuộc 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã có mặt tại trụ sở Trung ương Đoàn để gặp gỡ phóng viên các báo, đài. Nghe các nhân chứng kể chuyện, ai cũng cảm động bởi sự dũng cảm, ngoan cường, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc của họ.
Nông Thành Pheo, chiến sĩ biên phòng đã sống sót sau 5 ngày đêm cố thủ ở pháo đài Đồng Đăng. Nguyễn Đăng Trần, công nhân đường sắt đã cứu được đoàn tàu chở A pa tít từ Pom Hán, Làng Giàng về phố Lu (Lào Cai)…
hai nguoi gian doi trong cuoc chien 1979
Lính Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
Ngay hôm sau, các báo, đài bắt đầu đưa bài, ảnh tuyên truyền về những gương điển hình này. Nhưng có hai nhân chứng là Vũ Thị Chiên, công nhân Lâm trường Pha Long (Mường Khương, Hoàng Liên Sơn) và Hoàng Văn Đức, thanh niên dân tộc Tày ở Cao Bằng là hai người bị nghi ngờ là nói sai sự thật, mạo nhận thành tích.
Vũ Thị Chiên có chồng là Đặng Văn Dương cùng quê Lý Nhân, Hà Nam, cùng là công nhân và tự vệ Lâm trường Pha Long, Mường Khương. Khi xảy ra chiến sự, cả hai vợ chồng chị cùng lên chốt chiến đấu nhưng chị không ở cùng vị trí “chốt công nhân” với chồng mà chạy lên chốt của bộ đội biên phòng. Chị mô tả là “vơ lấy khẩu AK và 3 khẩu CKC. Khi thấy một tiểu đội lính Trung Quốc nấp trong bụi cây, chị đã bắn một loạt đạn AK và chỉ thấy còn một tên sống sót bỏ chạy”.
Rồi có tình huống một tên lính Trung Quốc đang vác B40 nhắm bắn chị thì chị đã dùng súng bắn tỉa bắn hai phát, một phát vào cổ và một phát vào giữa trán nó. Có lúc chị vừa bắn vừa ném lựu đạn. Đến khi ở pháo đài, bị địch bao vây tứ phía thì chị cùng mấy chiến sĩ biên phòng đã nhảy qua tường để đến vị trí chiến đấu khác…
Có người nghe chị kể chuyện cũng đã nghi ngờ bởi sự hoạt ngôn, ăn nói lưu loát, vô tư của chị trong khi chồng chị đã bị hy sinh ngay trong ngày 17/2 nhưng chị không sang lo hậu sự mà nhận được tin rồi vẫn tiếp tục ở lại vị trí chiến đấu đến mấy ngày sau mới rút về phía sau…
Còn Hoàng Văn Đức 14 tuổi ở Cao bằng thì có “chiến tích” bắn cháy xe tăng địch, đã bị các nhà quân sự phát hiện ra sự vô lý về kỹ thuật tác chiến. Khi được hỏi kỹ về tư thế và kỹ thuật bắn quả đạn B40, Đức nói là thấy chú bộ đội bị trúng đạn hy sinh, Đức đã nhặt khẩu B40 lên nhằm xe tăng để bắn.
Nhưng đứng ở sườn núi, có vách đá ngay sau lưng mà vác súng trên vai, để nòng vuông góc với vách đá thì nếu có bắn, luồng lửa phụt ra phía sau sẽ phả vào vách đá rồi bật ngược lại, trùm lên người bắn. Sức nóng của luồng lửa đó sẽ thổi ngã và thiêu cháy người bắn…
Khi các nhà chuyên môn đã thẩm tra lại thông tin về hai nhân chứng này thì ngay sau đó, Ban tổ chức đã không cho hai người tham gia đoàn đi báo cáo thành tích và kể chuyện chiến đấu ở đâu nữa.
Đó cũng là bài học cho các cấp cơ sở khi chạy theo thành tích, “mớm lời”, thiếu chuyên môn, nghiệp vụ nên chọn lựa nhầm gương điển hình. Hai nhân chứng đó cũng háo danh và bị cuốn theo không khí vinh danh ồn ào nên đã thiếu trung thực để mạo nhận thành tích.
Thời chống Pháp có nhân vật ảo là thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người, đốt cháy thành ngọn đuốc sống rồi lao vào kho xăng địch.
Thời kỳ đầu chống Mỹ có Nguyễn Văn Bé giật mìn tiêu diệt giặc nhưng vô lý là dùng dây chuối… Rồi cả hai nhân vật này đã được ồn ào vinh danh một thời.
Đó là bài học đáng nhớ cho hậu thế!
Tướng Phạm Xuân Thệ: Nói về chiến tranh biên giới không phải kích động thù hằn dân tộc!
Trung tướng - Anh hùng LLVTND Phạm Xuân Thệ nhấn mạnh rằng: “Chúng ta nói ra là để tôn vinh những người đã khuất chứ không phải để kích động thù hằn dân tộc.”
[VIDEO] Ký ức về cuộc chiến tranh biên giới 1979
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc.
Chiến tranh biên giới phía Bắc: Nỗi đau không thể nào quên!
Ngày 7/1/1979 quân đội Việt Nam đã lật đổ chế độ Pol Pot ở Campuchia vốn được Trung Quốc hậu thuẫn. Để trả đũa, ban lãnh đạo Trung Quốc quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”. 
Tướng Nguyễn Quốc Thước: Lãng quên cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung là có tội!
Trung Tướng  Nguyễn Quốc Thước: “Chẳng có lý do gì để những người đã nằm xuống vì sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước bị lãng quên”.
Tội ác của lính Trung Quốc ở biên giới Việt - Trung năm 1979
Những từ ngữ trên tấm bia ghi nhớ tội ác còn sót lại ở Tổng Chúp là không đủ, và không bao giờ là đủ để diễn tả hết sự bạo tàn của quân xâm lược Trung Quốc.

Saturday 6 February 2016

Mãi cồn cào những cơn sóng Hoàng Sa (Huy Thịnh - Tiền Phong)

Mãi cồn cào những con sóng Hoàng Sa

(http://www.tienphong.vn/xa-hoi/mai-con-cao-nhung-con-song-hoang-sa-965176.tpo#ng%E1%BB%A5y)

06:48 ngày 06 tháng 02 năm 2016
TP - Tin dữ ập đến ngày 29 Tết. Ðứa con gái mới 7 tuổi của trung tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ10) cầm xấp báo ra cầu thang chung cư ngồi đọc bản tin đặc biệt, vừa đánh vần vừa khóc. Vợ hạm phó - hải quân thiếu tá Nguyễn Thành Trí ngất lịm, bào thai hai tháng chỉ chực tuột ra.
Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ ông Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo trong căn hộ mới. Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ ông Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo trong căn hộ mới.
Hơn bốn mươi năm sau trận hải chiến Hoàng Sa bi tráng, nỗi đau dường như vẫn chưa nguôi ngoai… 
Tết đoàn viên hóa thành tang tóc
Chiều cuối năm Ất Mùi, bà Huỳnh Thị Sinh lặng lẽ lau dọn bàn thờ chồng - hạm trưởng Nguỵ Văn Thà. Mái tóc thiếu phụ đã thưa và lốm đốm bạc, còn ông vẫn trẻ trung giữa hương khói nghi ngút. Căn hộ 60m2 càng trống trải, hiu quạnh.
Bà Sinh nói: “Tôi nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cách ổng đối xử, thương yêu vợ con mà quyết ở vậy, không đi bước nữa. Ổng hiền lắm, về tới nhà là quấn quít vợ con. Người ta bảo cái gì cũng phôi phai theo thời gian, nhưng mỗi lần nhắc lại thấy buồn thấu ruột.
Bà Sinh kể: Ổng thường xa nhà, hai ba tháng mới về một lần. Lần cuối cùng, buổi sáng ổng xách va li xuống tàu, chiều bất ngờ trở về, đứng dưới tầng trệt gọi vợ. Tàu bị hư, nằm ụ sửa chữa, hơn nửa tháng sau mới rời cảng.
“Hôm ở đảo Song Tử Tây, lúc chào cờ, vì xúc động quá, tôi ngất xỉu. Lãnh đạo đoàn đưa tôi vào bệnh xá có hai bác sỹ chăm sóc rất tận tình. Họ lấy sữa, pha thuốc cho tôi uống, trực tiếp đút cháo cho tôi ăn”.
Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ ông Nguỵ Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo
Ông Thà được điều ra Ðà Nẵng. Bà Sinh ở nhà chuẩn bị mọi thứ chờ chồng về ăn tết, không ngờ ông đi luôn đến bây giờ. Bà Sinh nhớ lại: Tôi nghe có đánh nhau, tàu bị chìm nhưng vẫn đinh ninh ổng còn sống. Ngày 29 Tết, báo chí đồng loạt đưa tin. Ðứa lớn nhất lúc ấy 7 tuổi, mới học lớp 1. Nó cầm xấp báo ra cầu thang chung cư Nguyễn Kim (quận 10) vừa đánh vần vừa khóc, dỗ hoài không nín. Bà Ngô Thị Kim Thanh được chồng - hạm phó HQ10 Nguyễn Thành Trí đưa về Nha Trang, chờ đi tuần xong sẽ đón về Sài Gòn. Bà nhớ lại: Chiều 29 tết, qua đài phát thanh, bố mẹ chồng nhắn tôi về gấp. Tết năm ấy không có ngày ba mươi. Mùng một tết xe đò không chạy. Sáng mùng hai, tôi ôm con về Sài Gòn và ngất lịm khi thấy bàn thờ chồng trong nhà.
Mãi cồn cào những con sóng Hoàng Sa - ảnh 1 Bà Ngô Thị Kim Thanh khóc ngất trong lễ truy điệu chồng.
Những giọt máu của Hoàng Sa
Năm ấy bà Sinh mới 26 tuổi. Còn bà Thanh 29 tuổi, đang mang thai đứa con thứ hai được hai tháng.
Chỉ tấm ảnh đang ôm bụng khóc ngất trong lễ truy điệu chồng, bà Ngô Thị Kim Thanh nghẹn ngào: Tôi chết đi, sống lại, cái thai bị động chỉ chực tuột ra. Bác sỹ chích thuốc, bắt tôi đeo nịt để giữ. Thai yên rồi tôi lại lo cháu sinh ra gặp chuyện không hay. Anh Trí mong chờ đứa con trai nên khi tôi có bầu đã dặn đặt tên con là Nguyễn Thanh Triết. Bảy tháng sau ngày anh mất, con trai chúng tôi chào đời. Khi khai sinh, tôi làm theo di nguyện của chồng và đặt thêm “tự Hoàng Sa” phía sau tên con để đánh dấu nơi anh nằm lại, nhắc nhở các con Hoàng Sa vẫn luôn là một phần máu thịt không thể tách rời của Việt Nam.
Nguyễn Thanh Triết hiện đang làm nhân viên IT (công nghệ thông tin) tại một bệnh viện nổi tiếng tại TPHCM. Anh chỉ biết về cha qua sách báo và tư liệu gia đình.
“Năm 1995, tôi đi tàu của Nhật qua vùng biển Hoàng Sa và nhận được những lời cảnh báo từ phía Trung Quốc, rằng khu vực này thuộc chủ quyền của họ, tàu nước ngoài không được phép tiếp cận. Tôi không hề sợ vì đây là biển đảo của Việt Nam, là nơi ba tôi đã nằm lại” - Triết nói.
Ngày trung sỹ Nguyễn Thành Trọng ngã xuống, vợ ông - bà Nguyễn Thị Lựa mới 20 tuổi, đang mang thai đứa con đầu lòng. Bà đặt tên con là Nguyễn Hoàng Sa và vò võ một mình nuôi con khôn lớn.
Mãi cồn cào những con sóng Hoàng Sa - ảnh 2 Bà Ngô Thị Kim Thanh, vợ ông Nguyễn Thành Trí, hạm phó chiến hạm Nhật Tảo và hai con bên các kỷ vật.
Cảm thông, chia sẻ
Hai bà quả phụ Huỳnh Thị Sinh và Ngô Thị Kim Thanh xin vào Ngân hàng Việt Nam Thương tín làm việc cho đến lúc giải phóng miền Nam. Cả hai đã từ chối lên tàu di tản trong những ngày chính quyền Sài Gòn hấp hối.
Bà Sinh nghỉ việc ngân hàng xin vào hợp tác xã mua bán quận. Bà không nề hà việc gì, hết bán rau, bán cá, đến trứng vịt, trứng gà. Biết bà có trình độ, lãnh đạo đơn vị đề bạt làm cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống.
“Lần đầu được ra Trường Sa với thân phận là con của người lính ở phía bên kia, được nhà nước quan tâm, trân trọng và ưu ái, tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc”. 
Nguyễn Thị Thanh Thảo, con ông Nguyễn Thành Trí, hạm phó chiến hạm Nhật Tảo.
Bà Sinh nhớ lại: Thứ bảy hằng tuần, tôi phải về uỷ ban phường họp. Có mấy chị kiến nghị, chất vấn lãnh đạo vì sao cho vợ ngụy vào hợp tác xã? Tôi nhớ hoài câu nói của ông Chín Trường, Bí thư phường: “Người ta là vợ ngụy nhưng làm tốt thì mình phải nâng đỡ, tạo điều kiện. Mình đừng dồn người ta vào chân tường”. Nghe ông Chín nói vậy, mấy bà nín thinh.  Hợp tác xã giải thể, bà Sinh thất nghiệp, xin phụ mấy người em làm băng đĩa để kiếm sống qua ngày. Ba đứa con tự bươn chải kiếm tiền đi học. Ðứa đi giao hóa đơn, chứng từ, đứa phụ người ta bán hàng.
Bà Thanh tiếp tục làm ngân hàng, được điều chuyển đi tỉnh, hai đứa con phải gửi nhờ ông bà nội, ngoại. Hằng tuần bà lặn lội về thăm con. Cực quá, bà xin nghỉ, về Sài Gòn bán dạo kiếm tiền nuôi con. Bà Thanh nhớ lại: “Khi chuyển công tác, tôi bị cắt hộ khẩu ở Sài Gòn, thành người cư trú bất hợp pháp. Thỉnh thoảng, công an vào kiểm tra hộ khẩu, tôi bị mời về công an phường ngồi cả đêm”.
Mẹ con bà Thanh nương nhờ gia đình chồng. Năm 2000, các con bà được thừa kế một phần gia sản và mua căn hộ chung cư 40m2 ở quận 3. Căn hộ trên tầng ba, chật chội, lên xuống khó khăn, nhất là với cô con gái đang bị bạo bệnh.
Chung cư Nguyễn Kim bị giải tỏa, bà Huỳnh Thị Sinh được hỗ trợ tiền thuê nhà hàng tháng trong thời gian chờ bố trí tái định cư. Chán ngán sống thui thủi một mình, bà Sinh về nhà bố mẹ, tiền thuê nhà đong gạo, ăn uống sinh hoạt.
Thấy bà Sinh không có nhà, phải phụ con bán băng đĩa ca nhạc sống qua ngày, một tổ chức thiện nguyện kêu gọi các nhà hảo tâm quyên góp, mua tặng bà một căn hộ chung cư trị giá hơn 1,3 tỷ đồng. Gia đình bà Thanh cũng được hỗ trợ hơn 600 triệu đồng thay đổi nơi ở mới rộng rãi, khang trang hơn ở quận Bình Tân.
Hôm bà Sinh nhận nhà, thấy căn hộ trống trơn, nhiều đơn vị, cá nhân đã ủng hộ bà mua vật dụng trong nhà. Một lãnh đạo cấp cao gửi tặng bà Sinh 30 triệu đồng.