17/02/2014 03:00
Tháng 8.1978, nửa năm trước khi diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979, Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) đã được đón Tổng bí thư Lê Duẩn xuống thăm và làm việc. Bài nói chuyện của Tổng bí thư giàu cảm xúc, với nhiều nội dung đã làm sáng tỏ một điều: Cuộc “gặp gỡ” của súng đạn trên biên giới phía bắcsẽ là điều không thể tránh khỏi.
Trên thực tế, những hoạt động xâm nhập, bắt cóc, nổ súng… từ phía “bên kia” đã ngày càng dày thêm. Và cũng trên thực tế, “bên này” đã có sự chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Nhưng rồi, Mười bảy tháng hai vẫn nổ ra như một bất ngờ.
Khó ngờ rằng Trung Quốc lại mở cuộc tiến công quy mô, tàn khốc trên diện rộng hàng trăm ki lô mét toàn tuyến biên giới như vậy, với lực lượng hùng hậu 60 vạn quân thay cho dự báo có thể là các cuộc xung đột cấp chiến thuật trong một không gian hạn chế. Lý thuyết chưa được kiểm chứng cho đến lúc ấy là: không thể có chiến tranh xâm lược từ phía người anh em cùng giai cấp, cùng lý tưởng! Huống hồ đây lại là giữa hai quốc gia là phên dậu của nhau, từng sát cánh trong cuộc chiến tranh trường kỳ và khốc liệt vì độc lập, tự do của dân tộc Việt. Tất cả đã đổ vỡ một sớm một chiều.
*
**
Nguyên nhân thật của việc gây ra cuộc chiến Mười bảy tháng hai chưa từng được công khai. Hãy để cho lịch sử phán xét, dù phải thêm năm, mười hay vài mươi năm nữa. Điều này đâu quan trọng, thực tế ai cũng rõ cả rồi. Vì sự tôn trọng Trung Quốc, và vì quan hệ lâu dài giữa hai nước, người viết bài này từng không chỉ một lần kiến nghị về việc nên chăng có các cuộc luận đàm chính thức và thiện chí về vấn đề này nhằm tạo nên đồng thuận chính trị, coi sự kiện Mười bảy tháng hainhư một tai biến lịch sử chấp nhận được cho cả đôi bên như để khép dần quá khứ.
Nhưng hình như có những người, có những luận điểm truyền thông ở nước bạn không muốn thế. Năm 2009, 30 năm sau Mười bảy tháng hai, đầy ắp trên các trang mạng - và cả báo viết - của Trung Quốc là những bài phấn khích cực đoan về cuộc “phản kích tự vệ”. Người ta đánh thức cuộc chiến ấy với đầu rơi máu chảy được mô tả, hả hê chuyện tống bom, tống bộc phá giật sập một chiếc hang giết chết hàng trăm người dân Việt Nam vô tội vào đấy lánh nạn. Rồi sau đó, trên các phương tiện truyền thông, lúc ngấm ngầm khi bột phát, người ta nhắc về Mười bảy tháng hai bằng giọng điệu kích động, gây hấn và thậm chí có tờ báo còn “thiết kế” ra cả kịch bản chiến tranh trên bộ và trên biển Đông trong tương lai gần. Ngay cả mối quan hệ một thời “môi hở răng lạnh” (chữ của phía Trung Quốc) với nước láng giềng Việt Nam cũng bị các luận điệu ấy kích bác một cách giễu cợt, ác ý…
May thay, những điều đó, dù có thể được “bật đèn xanh" lúc này hay lúc khác, cũng không phải là đại diện của dư luận và lương tri Trung Quốc.
Một nhà ngoại giao kể rằng ông ở Bắc Kinh thời kỳ Mười bảy tháng hai. Có lần đi sửa kính, người thợ già khi biết ông là người Việt liền bảo: “Tôi không hiểu những gì đang xảy ra ở biên giới, nhưng đem con em Trung Quốc đi đánh Việt Nam là không thể được…”, rồi dứt khoát không lấy tiền công. Còn câu chuyện dưới đây được kể từ Quý Châu, tỉnh vùng cao Trung Quốc. Một đoàn khảo sát thủy điện đến đấy, ghé vào quán ăn hẻo lánh. Khi biết trong đoàn có một số chuyên gia Việt Nam, chủ quán liền bốc điện thoại gọi đi đâu đó. Rồi giải thích: Ở vùng này hầu như không thấy người Việt, ông trưởng thôn của chúng tôi vẫn mong có dịp gặp họ. Trưởng thôn đến ngay tắp lự (dù ông đi lại không dễ dàng), trong quân phục Giải phóng quân chỉ có chiếc mũ với quân hiệu là mới (chắc lâu không có dịp đặt lên đầu), tay trái chống nạng, tay phải cầm một chai rượu, hỏi: “Xin lỗi, ở đây có ai từng là quân nhân không?”. Bạn tôi, người kể lại câu chuyện này đứng lên. Anh chưa kịp cất lời thì trưởng thôn đã lập tức quăng nạng qua một bên, dằn chai rượu lên bàn, hai chân - một giả, một thật - dập mạnh vào nhau, tay phải hắt một đường thẳng lên vành mũ: “Tôi đã từng tham gia chiến tranh “phản kích tự vệ”, xin nhận ở đây lời xin lỗi của tôi”. Ông kể mình mất một chân vì vấp phải mìn, và thôn nhỏ này cũng có sáu, bảy quân nhân tử trận trong cuộc “phản kích tự vệ” ấy. Ở Quảng Tây, tôi có một nhóm bạn là những chiến sĩ công binh Trung Quốc từng sang giúp chúng ta trong kháng chiến. Từ lần đầu tiếp xúc, họ vẫn gọi là “bạn chiến đấu”, đón tiếp chân tình. Ám chỉ đến cuộc chiến Mười bảy tháng hai, có người trong số họ bảo: “Cái gì xấu vứt ở ngoài kia, không cho ngồi vào đây”.
Những quan điểm tương tự cũng có ở các học giả, chuyên gia và ngay cả giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Có vị từng đánh giá cuộc chiến tranh Mười bảy tháng hai là một sai lầm. Có vị gần đây còn nhìn nhận “công lao xây dựng quan hệ hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng mấy chục năm qua của chúng ta chừng đã đổ hết xuống sông xuống biển”.
*
**
Quy chiếu từ tuyên bố “Dạy cho Việt Nam một bài học”, có thể khẳng định rằng: Nhìn từ 35 năm sau, cuộc chiến Mười bảy tháng hai thật sự là một sai lầm nghiêm trọng của những người gây ra nó. Còn lý do để có nó - cái gọi là cuộc “phản kích tự vệ” - chắc chắn là một ngụy lý. Người ta lu loa rằng, phải “phản kích tự vệ” vì đã có hàng ngàn cuộc nổ súng, xâm lấn từ phía Việt Nam, điều không hề có thật. Khi ấy, vừa giành được độc lập tự do, đang nỗ lực xây dựng đất nước trước muôn vàn khó khăn thì làm sao mà Việt Nam có thể dư lực mà khiêu khích, gây chiến với một nước mạnh là Trung Quốc. Hơn nữa, đấy là quốc gia từng ủng hộ Việt Nam trong hai cuộc chiến chống ngoại xâm thế kỷ 20. Nếu vin vào việc “vì yếu tố Campuchia” thì lịch sử đã cho thấy rõ rồi. Sau khi hỗ trợ lực lượng giải phóng Campuchia xóa tan nạn diệt chủng (cũng chính là mối nguy ở biên giới Tây Nam), Việt Nam đã tôn trọng quyền quản lý đất nước của người Campuchia để đất nước này nay cũng là “người bạn đáng tin cậy của nhân dân Trung Quốc”, như người ta hoan hỉ. Có thể không bắt bẻ những chuyện này làm gì, nhưng đáng quan tâm là: đến nay, bên kia biên giới, đây đó vẫn tồn tại luận điệu “gắp lửa bỏ tay người”, dựng nên những câu chuyện sai sự thật để vừa kích động, vừa gây áp lực.
Chính sách gây áp lực tuyệt đối không thể giúp được gì vào việc xây dựng một quan hệ tốt đẹp theo mong muốn của cả hai bên. Người Á Đông vốn chủ trương thuyết “tiểu nhân - quân tử”; thái độ quân tử ở góc nhìn của thời đại nên là một trong các tiêu chí để xử sự, truyền thông về sự thật lịch sử và cả với những bất đồng.
Kiên quyết bảo vệ lợi ích của đất nước, của dân tộc, các thế hệ Việt Nam có lúc thể hiện sự thận trọng nhún nhường vì đại cục; nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc để người nghĩ mình ươn sợ. Có câu: “Đành để người ghét, chớ để người khinh”. Huống hồ chúng ta có chính nghĩa ngàn năm lịch sử sau lưng và trăm triệu Lạc Hồng trước mặt chứ, đồng bào.
TS Vũ Cao Phan(Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế, Đại học Bình Dương)
|