Lịch sử | |
Dấu ấn Điện Biên Phủ : Tại sao Điện Biên Phủ ? | |
Những ai chưa có dịp tìm hiểu, đến nay vẫn đặt một câu hỏi là : Vì sao hai bên Việt Minh và Pháp lại chọn một nơi không hẹn trước, xa xôi hẻo lánh, tít mù cuối trời Tây Bắc, giáp ranh với nước Lào làm trận địa cho một cuộc chiến quyết định sống còn với mỗi bên ?!
Nhà văn hóa nổi danh Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn sách được tái bản nhiều lần "Kể chuyện đất nước", phần nói về Tây Bắc và Điện Biên Phủ cũng phải thốt lên : "Từ trên máy bay nhìn xuống, người ta tự hỏi : Không hiểu vì sao Navarre, một trong những tướng tài ba nhất của Pháp lại đem quân nhốt mình vào cái "chậu" (tiếng Pháp là Cuvette) bốn bề bịt kín thế này. Đúng, từ máy bay nhìn xuống đồng bằng Mường Thanh với căn cứ Điện Biên Phủ quả là một cái chậu bốn bề núi cao, vào đấy là hết đường thoát".
Nhưng nếu đi đường bộ, với cảnh đèo cao suối sâu, đường một bên, vực thẳm một bên … Vác được 30 kg gạo lên đến chiến trường thì người dân công hỏa tuyến đã ăn hết 29 kg (!), chỉ còn để lại cho bộ đội được 1kg ! Sau đó thì phải tự kiếm ăn dọc đường mà đi về (!) Lúc đó lại có người hỏi : "Vì sao Tướng Giáp lại dẫn những đơn vị chủ lực của mình từ xa xôi đến đây để giao tranh trong hoàn cảnh vô cùng không thuận lợi ?" (NKV).
Cái gì cũng có giá của nó. Và, lịch sử có lô-gích của lịch sử.
Chúng ta hãy tìm hiểu "Kế hoạch Na-va" và tình hình chiến sự Đông - Xuân 1933 - 1954 sẽ trả lời được những câu hỏi trên.
Về phía quân ta, đến Đông Xuân 53-54, lực lượng ta đã lớn mạnh, bao gồm 7 Đại đoàn chính quy (Đại đoàn 312, 316, 308, 351, 325, 320, 304), 18 trung đoàn và 19 tiểu đoàn trên toàn quốc. Những đơn vị này vẫn đơn thuần là bộ binh. Ngoài ra ta còn có 2 trung đoàn, 8 tiểu đoàn và 4 đại đội pháo binh. Một trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo phòng không. Bên cạnh bộ đội chủ lực và địa phương quân ta còn khoảng 2 triệu dân quân du kích. Các đơn vị vũ trang của ta chủ yếu mới đánh địch ở vùng rừng núi vào ban đêm, tập trung sức mạnh đánh vào chỗ yếu của địch rồi rút lui bảo toàn lực lượng. Trong chiến dịch Tây Bắc 1952, 2 đại đoàn của ta vẫn không giành được thắng lợi trọn vẹn khi phải "nhổ" một tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Nà Sản (nhỏ hơn nhiều so với tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này)
Về phía địch, trước khi vào mùa khô 1953-1954, tổng quân số của địch là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân ngụy. So với tổng quân số của ta là 252.000 người, như vậy so sánh lực lượng về quân số, địch vượt ta khá xa. Địch còn có pháo binh (25 tiểu đoàn), không quân (580 máy bay), 391 tàu chiến, không kể quân ngụy có 25 máy bay và 104 tàu chiến loại nhỏ và 3 tàu ngư lôi.
Trên chiến trường chính Bắc Bộ lúc đó, ta chưa thể đánh xuống đồng bằng, nơi địch có sẵn thế trận và sức mạnh của pháo binh, của không quân mà ta chưa có khả năng hạn chế.
Một điều cần được nói rõ, và chỉ đến bây giờ, với đầy đủ tư liệu lịch sử chúng ta mới nhìn nhận sáng tỏ rằng, sau thế chiến II, Mỹ không ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương áp đặt chủ nghĩa thực dân cũ. Thậm chí còn gây khó khăn cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhưng khi nổ ra chiến tranh Triều Tiên 1950, Mỹ thay đổi chiến lược ở Châu Á, quay lại hỗ trợ Pháp trong chiến tranh Việt Nam … vì sợ làn sóng Đỏ tràn ngập Châu Á. Tuy nhiên, dù cho Mỹ có giúp sức Pháp (73% chi phí chiến tranh Đông Dương) thì cả Mỹ và Pháp đều nhận thấy không thể giành thắng lợi quân sự ở VN để kết thúc chiến tranh lúc này, mà chỉ nhằm giành một chiến tranh quân sự quyết định, để buộc ta phải đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện họ đặt ra.
Tháng 5/1953 Pháp cử tướng Nava (Henri Navarre) sang thay thế cho Xa-lăng, người không có khả năng "giành một chiến thắng quân sự quyết định" cho nước Pháp !
Từ khi bắt đầu chiến tranh, Pháp đã 7 lần bổ nhiệm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh tại Đông Dương. Nava là một tướng bốn sao, 55 tuổi, nguyên tham mưu trưởng lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương. Nava đã từng chỉ huy một sư đoàn thiết giáp và được báo chí phương Tây ca ngợi là một "danh tướng" có thể "uốn nắn lại tình hình Đông Dương"!
Chỉ sau hơn 1 tháng nghiên cứu tình hình, ngày
Nhờ cơ quan tình báo Trung Quốc, ta đã có một bản kế hoạch Nava với cả bản đồ.
Kế hoạch Nava có hai bước : Một là, trong thu đông 1953 và mùa xuân 1954, Pháp giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm ba tỉnh tự do ở đồng bằng Liên khu 5 của ta. Đồng Thời mở rộng xây dựng quân ngụy thành một lực lượng lớn mạnh để chiếm đóng (giữ đất), và xây dựng một đội quân cơ động mạnh đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực của ta. Bước hai, từ Thu đông 1954, sau khi hoàn thành nhiệm vụ bước 1, chuyển sang tiến công chiến lược, buộc ta phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện của Pháp. Nava chủ trương "luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công" !
Rõ ràng trong kế hoạch Nava không có Điện Biên Phủ !? Nava liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét dữ dội vùng tạm chiếm ở Bắc Bộ - Bình Trị Thiên và Nam Bộ.
Trong thời gian này, các địa phương của ta ngoan cường đối phó với các cuộc càn quét của địch. Quân chủ lực của ta luyện tập đánh công kiên và đánh vận động. Vào mùa khô 53 - 54, để giữ vững và phát huy quyền chủ động, ta chủ trương dùng một bộ phận chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương mở những cuộc tấn công vào những hướng chiến lược mà địch tương đối yếu để giải phóng đất đai và buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động để đối phó. Khoét sâu vào mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực tạo thế trận và thời cơ mới. Trên chiến trường Bắc Bộ, ta hướng tấn công lên Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, uy hiếp địch ở Thượng Lào, sau đó sẽ tiến đánh Trung Lào và Hạ Lào. Ở khu 5, ta chủ trương đưa bộ đội chủ lực khu 5 lên đánh bắc Tây Nguyên để tiêu diệt sinh lực địch và bảo vệ vùng khu 5 một cách hiệu quả. Các chiến trường khác (Nam bộ, Nam Trung bộ và đồng bằng Bắc bộ ta đẩy mạnh chiến tranh du kích … Bác Hồ đã kết thúc đề án tác chiến Đông Xuân 53 - 54 bằng mấy ý : Tổng quân ủy phải có kế hoạch lâu dài về mọi mặt để đối phó với quân địch trên toàn quốc … Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc là hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Hướng chính không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải:"thiên biến vạn hóa" !
Hướng chính là Tây Bắc trong Đông Xuân 53-54. Nhưng lực lượng địch ở Lai Châu lại ít, chỉ cần một đại đoàn để đánh Lai Châu. Như vậy thế trận Đông Xuân 53-54 của ta sẽ là 3 hướng : Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Tây Nguyên !
Nhưng Nava đã ra tay trước. 22 tiểu đoàn của y đánh ra Ninh Bình, trong trận đánh này một đại đoàn nhẹ do Đờ Cát-tri (De Castries) chỉ huy. Chính Cát-tri sau này là tổng chỉ huy ở Điện Biên Phủ ! Cùng với cuộc hành quân Hải Âu đánh ra Ninh Bình, Nava còn đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa, hoạt động chiến tranh tâm lý ở khu 4 .v.v… Những cuộc hành quân trên Nava nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công vào đồng bằng Bắc Bộ … !!! Nhưng sự thất bại của cuộc hành binh Hải Âu làm cho Nava lo lắng.
Trong lúc quân ta đang lo chưa xuất hiện một chiến trường chính, để có thể tiêu diệt một lực lượng lớn của địch trong Đông Xuân 53 - 54 thì ngày 20/11/1953 ta được tin địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ! Tiếp đó các ngày 21 và 22 … tổng cộng 6 tiểu đoàn dù tinh nhuệ đã được ném xuống Điện Biên Phủ. Đến
Như vậy là Nava đã thay đổi kế hoạch mà ông đã đề ra ?
Sau này, trong hồi ký của mình, Nava có biện minh cho việc đưa quân đến Điện Biên Phủ : "Hồi 18 giờ 15phút ngày
Sai lầm của Nava và cả bộ tham mưu của ông ta ở Sài Gòn là khi nhận định :"Việt Minh không thể duy trì ở thượng du quá 2 đại đoàn và 20.000 dân công, sự bấp bênh về giao thông không cho phép họ mang tới đó pháo trên 75 ly cùng với đạn pháo quá 7 ngày chiến đấu (!)".
Đó chính là điều đã khiến ĐBP xa xôi, hẻo lánh trở thành "điểm hẹn lịch sử". Trở thành "lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu".
Dấu ấn Điện Biên Phủ :
ĐIỆN BIÊN PHỦ- BÀI THƠ VÀ CON NHÍM
Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tây Bắc thực sự trở thành hướng chính như dự kiến của ta trong kế hoạch Đông Xuân 1953 - 1954
Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội 480 km về phía Tây Bắc. Mường Thanh là tên gọi xưa nhất và phổ biến nhất của Điện Biên. Đời nhà Lý Mường Thanh nằm trong địa hạt châu Lâm Tây. Đời Trần nước ta có 15 lộ thì Mường Thanh thuộc Châu Ninh Viễn, lộ Đà Giang. Đến đời Lê, Mường Thanh thuộc Châu Phục Lễ, Trấn Gia Hưng, Châu Phục Lễ tức Mường Lễ, tức Lai Châu ngày nay ….
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhưng phải đến năm 1890 Pháp mới đặt được ách thống trị tại Lai Châu. Theo nghị định ngày 6.1.1891 của Phủ Toàn quyền Pháp thì Lai Châu (trừ Phong Thổ) thuộc đạo binh thứ 4 nằm trong khu vực quân sự Vạn Bú. Năm 1910 tỉnh Lai Châu được thành lập, Điện Biên thuộc Phủ Điện Biên. Phủ Điện Biên có châu Điện Biên và Tổng Tuần Giáo.
Cách mạng tháng 8 thành công nhưng Điện Biên vẫn tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Pháp. Số là, trong cuộc đảo chính của Nhật đêm 9.3.1945, Tướng Pháp Alessandri, chỉ huy một lữ đoàn tại Sơn Tây đã đưa 6000 quân chạy qua Lai Châu sang Trung Quốc. (Lúc đó thuộc lực lượng của Đồng minh Anh - Mỹ - Tưởng chống Nhật). Khi Nhật đầu hàng, số tàn quân Pháp này lại tìm đường về Lai Châu. Và, đến Hiệp định sơ bộ 6.3.1946, 800 quân Pháp được chính thức trở lại vùng này để tiếp phòng quân Tưởng. Tướng Lơcléc đã trực tiếp lên Điện Biên Phủ dịp này. Đến chiến dịch Tây Bắc năm 1952 Điện Biên Phủ mới được giải phóng.
Điện Biên Phủ giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở Tây Bắc mà còn trên cả chiến trường Đông Dương. Vùng này tiếp giáp với Thượng Lào, có đường xuống Trung Lào và Hạ Lào, phía Tây là Thái Lan, Miến Điện, phía bắc giáp Trung Quốc.
Ai đã một lần lên thăm Tây Bắc - Lai Châu - Điện Biên Phủ mới thấy thiên nhiên nước ta thật kỳ thú. Và, Điện Biên Phủ là một vẻ đẹp khác thường. Huyện Điện Biên (nay được chia làm hai, gồm huyện Điện Biên, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên Đông) trước kia rộng đến 316.000 hécta, gấp hai lần tỉnh Thái Bình là một vùng núi cao hiểm trở, đỉnh cao nhất là Pú-Huổi 2178m. Giữa vùng núi rừng trùng điệp đó lại bất thần xuất hiện một lòng chảo có chiều dài đến 20km, rộng từ 7 đến 8km, bằng diện tích một huyện miền xuôi. Cánh đồng Mường Thanh nằm lọt giữa lòng chảo thung lũng Điện Biên rộng đến 4000 hécta, là vựa lúa lớn nhất của cả vùng thượng du Tây Bắc. Lòng chảo Điện Biên với cánh đồng Mường Thanh và con sông Nậm Rốn êm đềm uốn khúc giữa lòng nó khác nào một bài thơ của núi rừng Tây Bắc. Một ngày của Điện Biên có 4 mùa xuân hạ thu đông vì thế hạt gạo Mường Thanh thơm ngon kỳ lạ. Giống lúa IR64 ở miền xuôi là lúa của người nghèo đem lên trồng ở Điện Biên thành đặc sản. Gạo nếp nương của Điện Biên hạt to, trong suốt, nấu lên thơm phức cả nhà, ăn dẻo dai như cốm và không mau ngán như nếp thường …
Kể từ ngày 20.11.1953 khi 6 tiểu đoàn lính dù nhảy xuống đây thì bài thơ Điện Biên bỗng trở thành "con nhím" Điện Biên Phủ ! Con nhím đó sau này lên đến 16.200 quân gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh với 40 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 10 chiếc giăng thành một tập đoàn cứ điểm, tập hợp trong 8 trung tâm đề kháng với 49 cứ điểm có hầm hào, lô cốt, dây kẽm gai, bãi mìn bảo vệ. Tập đoàn cứ điểm còn có 2 sân bay, và hàng ngày có từ 200 đến 300 tấn lương thực, súng đạn, thuốc men do 100 máy bay từ Hà Nội, Hải Phòng chở tới yểm trợ. NaVa đã 9 lần lên Điện Biên kiểm tra "con nhím"; Còn Cô-nhi, tư lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ thì đến nhiều hơn vì đây là phần đất do ông ta phụ trách! Từ Paris nhiều bộ trưởng, quan chức cao cấp và tướng lãnh được cử tới thị sát tại chỗ. Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao-ơ (Eisenhower) cử các tướng O'Daniel, Thomas Trapnell đến thăm Điện Biên Phủ, sau đó là 3 sỹ quan Mỹ ở lại làm cố vấn cho Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm!
Ai đến cũng thừa nhận Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Mà đúng thế thật, ngay cả trong thế chiến thứ 2, quân Pháp cũng chưa bao giờ xây dựng một trận địa phòng thủ dã chiến lớn đến thế. Tất cả đều đồng thanh tung hô : một pháo đài không thể tấn công !
Duy chỉ có các nhà báo Pháp là có con mắt tinh đời. Robert Guillain phóng viên của tờ Le Monde sau khi sang thăm Điện Biên Phủ đã viết : "chẳng khác gì một hố nhốt sư tử", "một sân vận động mà Việt Minh chiếm lĩnh các bậc thang pháo đài xung quanh"! Trả lời nhà báo, Henri Amourouk của tờ
Trong khi nhiều người đều tin là sẽ có chiến thắng nếu Việt Minh tấn công vào Điện Biên Phủ. Riêng Nava, với tầm nhìn cao hơn, y tỏ ra dè dặt. Ngày 31.12.1953 đã bí mật chỉ thị cho Cô-nhi phải nghiên cứu một kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ khi cần thiết, cuộc hành binh ấy được biệt danh là Xênôphôn (apération Xénophon). Sự lo ngại của Nava còn thể hiện rõ qua báo cáo gửi về Paris ngày 1.1.1954 : "Tất cả đều cho cảm giác là lúc này kẻ thù quyết tâm dùng sức mạnh tiến công Điện Biên Phủ với những phương tiện rất lớn … Trường hợp bị tấn công cơ may chiến thắng của chúng ta ra sao ? Mới hai tuần lễ trước, tôi đánh giá nó là 100%… Nhưng với sự xuất hiện những phương tiện mới … tôi không thể … bảo đảm chắc chắn thắng lợi … Dù sao đi nữa Điện Biên Phủ sẽ giữ vai trò chiếc nhọt tụ độc và sẽ cho phép tránh cuộc tổng giao chiến ở đồng bằng".
Nava là một tướng năng động. Ngay khi nhậm chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương, y đã nêu cao khẩu hiệu :"luôn luôn chủ động", "luôn luôn tiến công" … Xa-lăng, người tiền nhiệm của Nava trước đó chỉ có khả năng cứu vãn và duy trì sự cầm cự của quân Pháp nên đã bị sa thải. Là một chỉ huy năng động Nava không thể để nằm yên những binh đoàn cơ động của mình ở đồng bằng. Y phải "điều binh khiển tướng", và chỗ điều đó lại là Điện Biên Phủ mới trớ trêu (!). Sau này, trong cuốn hồi ức "Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thể hiện (NXB Quân đội nhân dân-2001), Đại tướng có nhận định : "Trước sau, Điện Biên Phủ chỉ giữ một vai trò thứ yếu trong kế hoạch, nhưng vẫn là một nước cờ chiến lược đã được Nava tính trước những hệ quả một cách tỉnh táo - Công bằng mà nói, tới lúc này Nava không đáng chê trách như nhiều người sau đó đã lên án !" (trang 77) .
Hạ tuần tháng 12 năm 1953 Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953 - 1954. Đảng ủy chiến dịch được chỉ định gồm Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, Lê Liêm - Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm cung cấp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Bí thư kiêm chỉ huy trưởng chiến dịch.
… Đại đoàn 312 từ Yên Bái được điều lên Tây Bắc. Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 chốt chặn con đường từ Điện Biên Phủ sang Lào. Đại đoàn 351 và các trung đoàn trưởng lựu pháo 105, cao xạ pháo được triệu tập để nhận lệnh lên đường v.v.. và ….v.v….
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Bác ở Khuổi Tát trước khi lên đường. Trước đó, cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh đã lên đường để không những chỉ đạo Điện Biên Phủ mà còn chỉ đạo các chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Căm-pu-chia .
"Bác hỏi Đại tướng : Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không ?
- Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng và cần thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ chính trị.
- Tổng tư lệnh ra mặt trận, "Tướng quân tại ngoại". Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn (Trung Quốc - LPK) thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau.
Khi chia tay, Bác nhắc : Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, không chắc thắng không đánh …" (Trang 63- sách đã dẫn)
| |
Lê Phú Khải | |
No comments:
Post a Comment