Gặp người tử tù mưu sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở Hội Chợ Tết Ban Me Thuột năm 1957Trúc Giang MN
x...
x...
1* Mở bài Thời gian 1957, tổng thống Ngô Đình Diệm được suy tôn là một nhà chí sĩ yêu nước, người đã thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà. Miền Nam sống trong thời thái bình, là điều kiện để nước Việt Nam Công Hòa non trẻ phát triển về mọi mặt. Tin tức về ngưới ám sát tổng thống Diệm ở Ban Mê Thuột đã gây chấn động trong quần chúng. Năm 1963, nhóm bạn trẻ chúng tôi đang sống và làm việc tại tỉnh Côn Sơn, rất nôn nao trước tin tức những chính khách tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960 và người mưu sát tổng thống Diệm đã được đưa ra trại tù Côn Đảo. Nôn nao muốn được gặp mặt để thấy rõ hình dung của những chính khách đã từng được báo chí nhắc đến, đồng thời tìm hiểu thêm tin tức của người trong cuộc. Riêng đối với tử tù đã ám sát ông Diệm, câu hỏi mà chúng tôi cần có câu trả lời, anh ta là người quốc gia hay Cộng Sản? 2* Gặp người tử tù đã mưu sát tổng thống Ngô Đình Diệm Chúng tôi muốn gặp phạm nhân mang án tử hình tên Hà Minh Trí nhưng quy định của nhà tù Côn Đảo cấm quân nhân và công chức tiếp xúc với phạm nhân, nhất là đối với tù Cộng Sản. Người bạn của tôi, anh Nguyễn Văn Sáu, được gọi là Sáu Y Tế, vì anh là nhân viên của ty Y Tế Côn Sơn, đã có cơ hội gặp Hà Minh Trí nhiều lần. Ty Y Tế Côn Sơn, ngoài việc chăm sóc sức sức khỏe cho công chức và quân nhân cùng gia đình của họ, còn chăm sóc sức khỏe cho tù nhân ở các trung tâm trong nhà tù Côn Đảo. Anh Sáu thuật lại: “Hà Minh Trí là một thanh niên khoẻ mạnh, mặt mày sáng sủa dễ coi, ăn nói khá hoạt bác. Khi tôi đến gặp anh ở bàn làm việc bên ngoài chuồng cọp, anh khai bịnh: hai mắt bị mờ, nướu răng chảy máu. Đó là tình trạng thiếu dinh dưỡng. Tôi cho anh vitamine C, vitamine A&D và đa sinh tố deficiency. Hà Minh Trí yêu cầu tôi giữ anh ta ở lại bàn làm việc càng lâu càng tốt, vì anh ta muốn hít thở không khí và tiếp nhận ánh sáng bên ngoài một thời gian lâu dài trước khi trở lại chuồng cọp. Tôi chưa thể hiện sự chấp thuận, bèn hỏi: “Tôi thành thật hỏi anh, và cũng yêu cầu anh trả lời thành thật, anh là người quốc gia hay là người của phía bên kia?. Đối với tôi, anh là một bịnh nhân cũng như những bịnh nhân khác. Anh vi phạm luật pháp quốc gia và anh đã bị luật pháp trừng phạt, tôi không can dự vào việc đó. Tôi cũng không đưa khuynh hướng chính trị vào việc cho thuốc chữa trị người bịnh”. Anh Sáu cho biết, Hà Minh Trí một mực khẳng định anh ta là lính Cao Đài trong Lực Lượng Bảo Vệ Toà Thánh Tây Ninh, và sau đó được cử làm phó trưởng ty Thông Tin VNCH ở Tây Ninh. Những lần sau đó anh Sáu đã dành nhiều thời gian ở ngoài chuồng cọp cho Hà Minh Trí. Sau ngày 1-11-1963, Hội Đồng Tướng Lãnh tuyên bố thả tù chính trị trong vụ đảo chánh hụt của đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông ngày 11-11-1960, trong đó có Hà Minh Trí. Trong thời gian chờ tàu từ Sài Gòn ra đưa về đất liền, thì Hà Minh Trí được ra khỏi nhà giam và có đến ty Y Tế cám ơn anh Sáu. 3* Vụ mưu sát tổng thống Ngô Đình Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột năm 1957 3.1. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột năm 1957 Ban Mê Thuột tiếng Ê Đê gọi là Buon Ama Y-Thuot. Cao nguyên Trung phần Việt Nam là vùng đất mầu mỡ chưa được khai phá, có tiềm năng rất lớn về kinh tế, hơn nữa cao nguyên giữ vị trí chiến lược quan trọng đối với miền Nam VN. Nhiều bộ tộc thiểu số chưa phát triển cho nên vùng cao nguyên được tổng thống Ngô Đình Diệm quan tâm mở mang. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột năm 1957 nhằm mục đích triển lãm những máy móc phục vụ cho nông và lâm nghiệp, để đồng bào địa phương áp dụng cơ giới vào nông, lâm nghiệp, đồng thời giới thiệu những sản phẩm là thành tựu của việc phát triển cao nguyên. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột là một sự kiện quốc gia ở miền Trung, cho nên các địa phương nổ lực chuẩn và thực hiện rất chu đáo. Bộ Cải Cách Điền Địa, Phủ Tổng Ủy Dinh Điền, Tư lệnh Quân khu 2 và các tỉnh trưởng Darlac, Pleiku, Kontum, Phú Bổn, Lâm Đồng, Tuyên Đức... tích cực góp phần tổ chức hội chợ, được đặt cái tên là “Hội chợ kinh tế đoàn kết Kinh-Thượng”. 3.2. Lễ khai mạc
x...
x...
Lễ khai mạc hội chợ Tết được tổ chức vào lúc 9 giờ sáng ngày 22-2-1957 tại Ban Mê Thuột, dưới sự chủ tọa của tổng thống Ngô Đình Diệm, thành phầm tham dự gồm các bộ trưởng và đại diện ngoại giao. “Khán đài” là những hàng ghế đặt trên mặt đất ở giữa trời, có chiếc dù to che nắng. Tổng thống Diệm mặc quốc phục, áo dài đen, quần trắng, đầu bịt khăn đóng, ngồi trên chiếc ghế bành duy nhất ở giữa, những chiếc còn lại là ghế ngồi thường, chân gỗ. Tổng thống Diệm ngồi giữa, bên trái ông là Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, kế đến là bà Nhu và ông Nhu, quan khách. Quan khách tham dự rất đông, là những thành viên chính phủ, chỉ huy quân đội, thân hào nhân sĩ trung ương và địa phương, đại diện các sắc tộc người Thượng. Trước hàng ghế chủ tọa và quan khách là một cái sân rộng để trình diễn văn nghệ và biểu diễn của đàn voi cao nguyên. Trước mặt tổng thống có một hàng những bình rượu cần của người Thượng để chiêu đãi quan khách. Bên kia sân, đối diện với hàng ghế chủ tọa, là đồng bào tham dự, gồm các già làng, đại diện các sắc tộc, công chức và học sinh cùng quần chúng rất đông đảo vì đây là một sự kiện quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều tỉnh trên cao nguyên. Hai bên là đàn voi và những thiếu nữ sắc tộc chờ trình diễn ca múa văn nghệ địa phương. 3.3. Phát súng ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm
x...
Hà Minh Trí bị bắt ngay tại trận
x...
MAT-49 (sẽ được cắt bán và nòng) Sau khi chủ tọa và quan khách đã ổn định vị trí và an tọa, lễ chào cờ bắt đầu. Khi bài quốc ca vang lên thì bổng nhiên có hai tiếng súng nổ. Bộ trưởng Cải Cách Điền Địa bị trúng đạn, ngã xuống. Hung thủ bị nhân viên an ninh khống chế và bắt ngay tại trận. Đó là Hà Minh Trí, 22 tuổi, trà trộn trong dân chúng dự lễ đã dùng súng tiểu liên MAT-49 mưu sát tổng thống. Hung thủ mặc sơ mi trắng, áo vét bên ngoài, thắt và vạt, khai là súng bị kẹt đạn nên chỉ bắn được có hai phát. Sau đó, chương trình hội chợ tiến hành như đã định, tổng thống và quan khách đi thăm các gian hàng. “Tiếng súng cao nguyên” mở đầu cho cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí. Hung thủ bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành bản án, và sau đó bị đày ra Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo giam giữ hàng trăm tù bị kết án tử hình. Trong khi ám sát tổng thống Diệm thì Hà Minh Trí không còn ở trong Lực Lượng Bảo Vệ Toà Thánh Tây Ninh của Cao Đài, mà đã thoát ly ra căn cứ kháng chiến. Tài liệu ghi như sau: “Chỉ trong nửa tháng, Hà Minh Trí đã có ba chuyến đi giữa Sài Gòn và Buôn Ma Thuột, thám sát địa thế để thiết lập kế hoạch hành động”. Đó là lý do mà sau ngày 1-11-1963, đệ nhất Cộng Hoà bị sụp đổ, Hà Minh Trí bị giữ lại để điều tra, mà không được phóng thích cùng với nhóm đảo chánh hụt ngày 11-11-1960 do đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông chủ trương. 4* Tiểu sử Hà Minh Trí
x...
x...
Hà Minh Trí (tên khai sanh là Phan Văn Điền) sinh ngày 18-8-1935 tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Cha chết năm 1940. Mẹ lấy chồng khác bỏ cậu bé Hà Minh Trí cho bà nội nuôi dưỡng. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã xô cậu bé 10 tuổi với bà nội mù lòa đi làm ăn mày dọc theo ven quốc lộ 1 A, thuộc huyện Diễn Châu (Nghệ An). Một chiếc xe nhà binh Nhật chạy ngang đã bắt cậu bé ăn xin nầy vào tận thành phố biển Vủng Tàu để làm chân giữ ngựa cho sĩ quan Nhật. Khi Nhật bại trận, cậu bé làm phụ việc trong một quán ăn mà ông chủ là một cán bộ Việt Minh, ông đã nhận cậu làm con nuôi và đặt cho cái tên mới là Đinh Văn Phú. Năm 13 tuổi, Hà Minh Trí được cử vào đội Biệt Động tỉnh N2. Sau đó, bị Tây và Cao Đài bắt đưa về Tây Ninh. Giữa năm 1953, do bị theo dõi gắt nên Hà Minh Trí rút vào căn cứ kháng chiến. Từ mật khu, lên Ban Mê Thuột ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm, bị bắt đưa về Sài Gòn rồi đày đi Côn Đảo. Được phóng thích, ra căn cứ Củ Chi, ôm trọn trái bom Mỹ nhưng bom không nổ, trở thành thương binh, gãy chân trái, rồi sau năm 1975 về sống ở Tây Ninh được phong chức đại tá và danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”. 5* Con đường hoạt động của Hà Minh Trí 5.1. Năm mười ba tuổi biết ném lựu đạn khủng bố Năm 1948, (13 tuổi) được đưa vào đội Biệt Động N2, tỉnh Bà Rịa-Vủng Tàu. nhiệm vụ ám sát những người làm việc cho Tây, Việt gian, phản động. Thành tích lẫy lừng, trích: “gây kinh hoàng cho bọn Pháp bằng những trận xuất quỷ nhập thần là ném lựu đạn vào các vũ trường và quán bar” (hết trích) 5.2. Hà Minh Trí bị bắt đưa về Tây Ninh và theo đạo Cao Đài Cũng năm 13 tuổi, Hà Minh Trí được giao nhiệm vụ làm giao liên giữa Ủy ban kháng chiến Bà Rịa với thiếu úy trưởng đồn Cao Đài ở Bờ Đập. Trưởng ban kháng chiến Hứa Văn Lến và trưởng ban quân báo Nguyễn Văn Bản giao nhiệm vụ đặc biệt cho Hà Minh Trí, vào đồn Cao Đài ở ngã ba Bờ Đập (nằm giữa ba xã Long Tân, Long Mỹ và Phước Hải thuộc huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa), do thiếu úy Cao Đài Phạm Ngọc Chẩn, đã chấp thuận kéo hết đại đội Cao Đài ra bưng theo Việt Minh. Ngoài ra, Hà Minh Trí còn nhiệm vụ điều tra và vẽ bản đồ các đồn Cao Đài chung quanh đồn Bờ Đập, như các đồn Phước Hà, Nước Ngọt và đồn ngã ba Lò Vôi, để Việt Minh tấn công tiêu diệt sau khi Cao Đài Bờ Đập ra chiến khu theo Việt Minh. Trong thời gian hai tháng ở trong đồn, tên đồn phó sanh nghi, theo dõi và mật báo cho phòng nhì Pháp ở Bà Rịa. Pháp báo về Bộ Tổng Tham mưu Cao Đài ở Tây Ninh, thế là thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn và Hà Minh Trí bị bắt giải về Tây Ninh. Sau hơn một tháng điều tra, Hà Minh Trí một mực khai rằng: “Trẻ mồ côi. Ở đợ chăn trâu gần đồn. Ông Chẩn dẫn quân đi tuần bắt đem về đồn. Biết tôi là trẻ mồ côi nên giữ lại trong đồn làm tạp dịch, phục vụ bưng trà nước và giặt quần áo cho ông”. Phần thiếu úy Chẩn, vẫn một mực khai rằng: “Tên đồn phó tham ô nên bị kỷ luật, từ đó sanh ra thù oán, bịa chuyện báo cáo cho Tây, chớ gia đình tôi là đạo dòng (cha mẹ đều là Lễ sanh), anh ruột là trung tá Phạm Ngọc Trấn, tư lịnh Cao Đài miền Tây, thì làm sao tôi theo Việt Minh cho được”. Sự việc do Tây báo cáo, căn cứ vào báo cáo của tên đồn phó, nên khó tìm chứng cớ. May mắn là trung tá Phạm Ngọc Trấn, anh ruột của Phạm Ngọc Chẩn, vốn là thầy học cũ của Trịnh Minh Thế, tư lịnh Cao Đài miền Đông, nên cả hai Chẩn và Trí được thả ra. Từ đó, Hà Minh Trí sống trong gia đình sĩ quan cao cấp Cao Đài và Trí cũng theo đạo Cao Đài. Giữa năm 1953, bị nghi ngờ và theo dõi nên Hà Minh Trí rút ra bưng. Năm 1954 không tập kết ra Bắc, ở lại nằm vùng trong căn cứ, là đội trưởng đội ám sát mà mục tiêu là tổng thống Ngô Đình Diệm. 5.3. Âm mưu ám sát Ngô Đình Diệm ở Tây Ninh năm 1956. Tài liệu Việt Cộng ghi như sau: “Mười Trí đeo ông Diệm từ toà thánh Tây Ninh, đến nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn) và đến Buôn Ma Thuột”. Năm 1956, Hà Minh Trí được trưởng ban địch tình tỉnh Tây Ninh là Lâm Kiểm Xếp (Năm Xếp) giao nhiệm vụ ám sát Tổng thống Diệm khi ông lên Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 20-10-1956 để ký thỏa ước Bính Thân với Cao Đài. Do không nắm rõ chi tiết nên việc mưu sát không thực hiện được. 5.4. Âm mưu ám sát Tổng thống Diệm trong đêm Giáng Sinh năm 1956. Căn cứ vào thói quen là cứ vào lúc 12 giờ đêm 24 tháng 12 thì Tổng thống Diệm thường đến nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn) dự lễ Mừng Chúa Giáng Sinh. Việt Cộng quyết định ám sát ông Diệm. Đêm Noel 1956, Hà Minh Trí được Lê Văn Của đưa vào bên trong nhà thờ. Bên ngoài, hai Việt Cộng Phan Văn Phát và Nguyễn Văn Tám đứng ở nơi có bình biến điện, khi nghe súng nổ thì cúp điện và ném lựu đạn gây hỗn loạn để tẩu thoát. Đến 12 giờ. Lễ bắt đầu nhưng không thấy ông Diệm ở đâu cả. Qua hôm sau, đọc báo mới biết tổng thống đến cầu nguyện với giáo dân tại khu trù mật Đức Huệ, tỉnh Tân An. Năm 1957, ám sát tổng thổng Ngô Đình Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột, bị bắt giải về Sài Gòn. Từ 1957 đến 1965, bị giam giữ và kết án tử hình đày đi Côn đảo ngày 31-7-1963. Ngày 10-3-1965 được quốc trưởng Phan Khắc Sửu phóng thích. Ngày 13-3-1965, thoát ly ra căn cứ Củ Chi, Sài Gòn. Tháng 4 năm 1965, công tác tại ban An Ninh T.4 khu Sài Gòn-Gia Định. Năm 1989, giữ chức Phó ban Nội chính Tây Ninh. Năm 1992, Trưởng ban Tôn giáo Tây Ninh. 6* Cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí Cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí bắt đầu từ trại giam của ty cảnh sát Ban Mê Thuột, đến trại P-42 trong sở thú (Sài Gòn), ra trung tâm thẩm vấn của Tổng Nha Cảnh Sát, khám Chí Hòa, rồi ra Côn Đảo. 6.1. Một mực cung khai “Chính đại tá Phạm Ngọc Thảo đã trực tiếp thẩm vấn tôi trước mặt bác sĩ Trần Kim Tuyến và ông Ngô Đình Nhu”, Hà Minh Trí thuật tiếp: “Tôi là lính Cao Đài thuộc Lực Lượng Bảo Vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Tôi ám sát Ngô Đình Diệm để trả thù cho thủ lãnh Cao Đài là Hộ Pháp Phạm Công Tắc, bị đàn áp cho nên phải chạy sang lánh nạn bên Cam Bốt, tôi cũng trả thù cho chủ tướng là Trịnh Minh Thế đã bị ông Nhu giết chết”. Hà Minh Trí khai như thế.
x...
x...
Tòa Thánh tại Tây Ninh 6.2. “Dùng kế ly gián làm đảo điên chính trường Sài Gòn” Việt Cộng và báo chí nhà nước thường hay cường điệu hóa, thần tượng hóa những hành động gián điệp của bọn nằm vùng ở Việt Nam Cộng Hoà để tuyên truyền về tài năng của đảng CSVN. Hà Minh Trí cho biết, “do sự chỉ đạo của đồng chí Mai Chí Thọ, phải dùng kế ly gián, nên tôi đã một mực khai báo như sau: “Tôi hành động (ám sát ông Diệm) theo chỉ thị của Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân”. Vừa nghe tôi trả lời như thế thì Ngô Đình Nhu tái mặt, ra lịnh cho ngừng ngay cuộc thẩm vấn và yêu cầu những người có mặt phải giữ kín cuộc thẩm vấn nầy. Lời khai vô cùng nghiêm trọng đối với hai ông Diệm Nhu”. (ngưng trích) Theo tài liệu của Việt Cộng thì sau lời khai của Hà Minh Trí, thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, và trung tướng Dương Văn Minh, Tư lịnh Biệt khu Thủ Đô, kiêm Tổng trấn Sài Gòn Gia Định, bị cho ra rìa. Nhiều tướng lãnh thân Pháp có liên hệ đến hai ông Minh và Xuân cũng chịu chung số phận. Nội bộ chính quyền miền Nam phân hóa sâu sắc và nghi kỵ lẫn nhau. Tài liệu VC kết luận: “Kế ly gián của Hà Minh Trí đã làm đảo điên chính quyền Sài Gòn”. 6.3. Kế ly gián tào lao và vô lý Hà Minh Trí và Việt Cộng cường điệu hóa bịa chuyện vô lý để tự hào về kế ly gián của họ, cho rằng: “Kế ly gián của Hà Minh Trí làm đảo điên chính quyền Sài Gòn”. Hà Minh Trí khai rằng chính Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân chỉ đạo cho hắn ám sát ông Diệm. Tào lao và ba xạo ở chỗ nầy. Theo tiểu sử tự khai và tài liệu của VC, thì năm 1954, Hà Minh Trí không tập kết ra Bắc, mà ở lại hoạt động trong mật khu, không còn ở trong Lực Lượng Bảo Vệ Tòa Thánh Tây Ninh của Cao Đài nữa. 1). Và Hà Minh Trí cũng không có một dấu vết nào cho biết đương sự có liên hệ với Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân cả. Nếu Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân muốn giết ông Diệm thì phải chọn người đáng tin cậy trong đám thuộc hạ của mình, cớ sao mà phải lặn lội vào mật khu bàn thảo kế họach với một tên Việt Cộng, ở đợ chăn trâu cà lơ phất phơ như Hà Minh Trí để ám sát ông Diệm? Vô lý! 2). Hà Minh Trí nói tầm bậy mà báo chí vẫn loan tin. Trích: “Vừa nghe tôi trả lời như thế thì Ngô Đình Nhu tái mặt và ra lịnh cho ngưng ngay cuộc thẩm vấn”. - Ngô Đình Nhu đâu có phải là đứa con nít, mà khi nghe như thế thì tái mặt và và tin tưởng ngay, nên ra lịnh cho ngưng ngay cuộc thẩm vấn. Trái lại, với một nhân viên thẩm vấn bình thường, khi nghe như thế thì cương quyết tiếp tục thẩm vấn cho đến cùng để moi ra tất cả những tin tức làm tài liệu và làm bằng chứng. Người điều tra ít khi vội vã tin ngay những lời khai của can phạm, vì có ai “chịu cha ăn cướp bao giờ đâu?. Bị bắt quả tang, có chứng cớ rành rành mà còn chối leo lẻo là chuyện thường xảy ra. 6.4. Trại giam P-42 trong Sở Thú Sài Gòn Báo chí mô tả P-42 là một cái hầm bí mật trong Sở thú Sài Gòn mà tù nhân gọi là địa ngục trần gian, thật ra, nó là một biệt thự thuộc bộ Canh Nông nằm bên trong thảo cầm viên (Sở thú). Không ai ngờ rằng ngôi biệt thự nằm công khai giữa nơi dân chúng tấp nập qua lại hàng ngày lại là nơi giam giữ can phạm chính trị đặc biệt. Từ năm 1956 đến 1960, ngôi biệt thự nầy trở thành phòng điều tra của Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội (Sở mật vụ) do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách. Có thể bên trong toà nhà có những hầm để che giấu các hoạt động thẩm vấn và giam giữ can phạm. 6.5. Hà Minh Trí sống an nhàn ở trại P-42 Hà Minh Trí thuật lại: “Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, tôi bị giam giữ ở Sở thú một năm rưởi. Thời gian nầy bọn chúng không thèm đếm xỉa gì đến tôi nữa. Tuy nhàn nhã với hai bữa cơm lưng lửng dạ dày mỗi ngày, nhưng tôi buồn thúi ruột vì không có ai để trò chuyện. Tôi giải khuây bằng cách hát. Tôi hát say sưa những ca khúc “kháng chiến”. Hát chán chê, tôi tập Yoga”. 6.6. Bài thơ “Lao Trung Lãnh Vận” của Trần Văn Hương Nhà văn Hoàng Hải Thủy thuật lại câu chuyện của cố tổng thống Trần Văn Hương, nói về người tù Hà Minh Trí như sau: “Bị giam vào lao ít lâu, thường đêm lúc 9, 10 giờ, nghe có tiếng người ca hát văng vẳng từ xa đưa đến, giọng vô củng buồn thảm, như hờn, như oán, như khóc, như than. Ai nghe cũng đau lòng đứt ruột. Ban đầu ngỡ đó là tiếng hát của mấy ông lính canh, sau nghe kỹ lại thì đó là tiếng hát từ một xà lim cuối dãy, với giọng hát của một người trẻ tuổi. Một đêm, nghe tiếng hát, tôi xúc động làm bài thơ: “Từng chập luồn sang giọng thiết tha Đưa niềm u uất khách phòng xa Nỉ non im nghẹn lời yêu nước, Tê tái sầu vương hận mất nhà. Oán dậy ào ào: cây núi đổ Máu tuôn cuồn cuộn suối ngàn xa. Lặng nghe não nuột người thông cảm, Đồng bịnh cùng thương, lựa trẻ già”. (Trần Văn Hương) Trần Văn Hương chỉ biết người tù đó là một người cùng cảnh ngộ mà thôi. 6.7. Việt Nam Cộng Hòa biết Hà Minh Trí là Việt Cộng nên không thả Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, Hội đồng Tướng lãnh tuyên bố trả tự do cho những tù nhân chính trị quốc gia, đối lập với Tổng thống Diệm, Hà Minh Trí được đưa về Sài Gòn trên cùng một chuyến tàu với những người tham gia đảo chánh hụt, nhưng do lý lịch không rõ ràng, nên Hà Minh Trí bị giam giữ lại để điều tra. Sau đó, bà Ngô Bá Thành, một luật sư thân Cộng và theo Việt Cộng, mở chiến dịch báo chí đòi thả ngay Hà Minh Trí với tư cách là đối lập Cao Đài. Trong khi những tù chính trị quốc gia đối lập với chế độ ông Diệm trong vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-1960 đều được thả ra hết, chỉ còn Hà Minh Trí bị giam giữ, vì Hà Minh Trí là Việt Cộng nằm vùng, đội lốt Cao Đài. Bác sĩ Nguyễn Chữ, người bị tù Côn Đảo trong nhóm đảo chánh hụt, được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng Cứu xét Phóng thích Tù Chính tri, đã gọi Hà Minh Trí lên hỏi: - “ Ồ! khoẻ không đồng chí Cộng Sản núp bóng Cao Đài? Anh mà ra tù chắc anh theo cô Kim Hưng. (trích Hà Minh Trí) Hà Minh Trí thuật lại: - Hắn (Nguyễn Chữ) biết tôi và cô Kim Hưng có cảm tình với nhau, và hắn cũng biết Kim Hưng là Cộng Sản. Hắn mượn câu đó để xác định tôi là Cộng Sản chớ không phải Cao Đài. Thế là Hà Minh Trí tiếp tục ngồi tù. Mãi cho đến ngày 10-3-1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, một tín đồ Cao Đài, giáo phẩm Thượng Đầu Sư Cao Đài Tiên Thiên, ký giấy thả Hà Minh Trí. Như vậy, Hà Minh Trí ở tù 8 năm 16 ngày. Ba ngày sau, 13-3-1965, Hà Minh Trí trở về hoạt động ở căn cứ Củ Chi, Sài Gòn. 7* Mật lịnh đánh chìm chiếc tàu chở tù ra Côn Đảo
x...
x...
Tàu Hàn Giang 401 - Chiếc tàu tử thần chở tù ra Côn Đảo Câu chuyện về mật lịnh của Phủ Tổng Thống chỉ thị cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường, thả bom đánh chìm chiếc tàu vận tải HQ-401 chở Hà Minh Trí và tù chính trị trong vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-1960, trên đường ra Côn Đảo. Có hai tài liệu với nhiều bài viết khác nhau về việc nầy. Một tài liệu của Việt Cộng có mục đích cáo buộc sự độc ác của tổng thống Diệm, với nhiều bài viết có tựa đề rất giật gân như: “Sự thật khủng khiếp về chuyến hải trình tử thần”, “Vì sao Diệm lịnh ném bom tàu chở tù ra Côn Đảo”, “Vì sao có lịnh ném bom tàu chở tù HQ-401?” Một tài liệu khác ở hải ngoại cho rằng Vatican và CIA âm mưu ném bom, mục đích chia rẻ giữa Phật Giáo và Công Giáo. Nhưng cả hai tài liệu nói trên hoàn toàn sai sự thật và rất vô lý. 7.1. Mật lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường đánh chìm tàu HQ-401 Tài liệu Việt Cộng ghi lại như sau: “Anh em Ngô Đình Diệm ra lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường ném bom đánh chìm chiếc tàu hải quân để thủ tiêu những người đối lập đang trên đường đi đày ra Côn Đảo. Ngày 5-10-1963, đại úy phi công Huỳnh Minh Đường nhận được hai bao thơ mật, một thơ ra lịnh công tác đi ném bom, bao thơ thứ hai chỉ được mở ra khi máy bay đã cất cánh lên bầu trời. Đó là ném bom đánh chìm chiếc hải vận hạm Hàn Giang HQ-401 trên đường chở tù ra Côn Đảo. Nếu làm xong nhiệm vụ sẽ được thưởng một triệu đồng và được thăng lên chức thiếu tá. Buổi chiều hôm đó, chiếc tàu vận tải hải quân mang mã hiệu Hàn Giang HQ-401, rời bến Sài Gòn ra Biển Đông nhắm hướng Côn Đảo trực chỉ. Chiếc tàu chở 400 tù nhân, tài liệu VNCH công bố, có 216 người thuộc “phe VNCH” đã từng tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960 và nhóm Nghị sĩ Caraven như thiếu tá Phan Trọng Chinh, các nghị sĩ Phan Khắc Sửu, BS Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh. Khi lên tàu, nhóm tù VNCH được sĩ quan hải quân trọng đãi, cho lên boong tàu ngắm trời mây. Khi tàu ra biển khơi, đột ngột phe VNCH phát hiện một chiếc máy bay Skyraider Buno, số hiệu U-3465 (loại khu trục ném bom), xuất hiện ngay trên đầu, đảo một vòng. Bỗng chiếc máy bay bật tín hiệu, đó là tín hiệu ném bom. Mọi người đang lo lắng, thì chiếc máy bay kia đảo ba vòng để chào, rồi chuyển hướng về Campuchia, bay mất dạng.” (ngưng trích) 7.2. Đại úy Huỳnh Minh Đường trở về từ Cam Bốt Tài liệu Việt Cộng ghi tiếp, trích nguyên văn như sau: “Lúc 15h35 ngày 16-11-1963, sân bay Tân Sơn Nhất đón một chiếc máy bay từ Campuchia sang. Đó là chuyến bay chở những sĩ quan đã từng bị Diệm truy sát, đào thoát sang Campuchia trở về. Trong đó có đại úy Huỳnh Minh Đường, đã bay “chào” những tù nhân trên chuyến tàu ra Côn Đảo ngày 5-10-1963. Đại úy Huỳnh Minh Đường thuật lại: “Chiều ngày 5-10-1963, ông bất ngờ nhận được hai phong bì đóng dấu tuyệt mật của Phủ Tổng Thống, một phong bì là mật lịnh thực hiện phi vụ đặc biệt có chữ ký của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Phong bì thứ hai được chỉ thị là sau khi rời đường băng, ông Đường nhận được lịnh của hoa tiêu dưới mặt đất điều khiển chuyến bay, yêu cầu chuyển tần số liên lạc sang Phủ Tổng Thống, mã số nằm trong phong bì thứ hai. Khi kết nối vào tần số liên lạc đặc biệt của Phủ Tổng Thống, ông Đường nhận được một chỉ thị lạnh lùng: “Ném bom đánh đắm chiếc vận tải hạm HQ-401 đang trên hải trình chở tù nhân chính trị chống chế độ, đi Côn Đảo. Nếu hoàn thành nhiệm vụ thì được thưởng một triệu đồng và được thăng lên chức thiếu tá. Ông quyết định không ném bom, bay chào mọi người rồi đào thoát sang Campuchia”. (hết trích) Câu chuyện về đại úy Huỳnh Minh Đường còn nhiều bí ẩn. Sự thật đại úy Đường có bay qua Cam Bốt tỵ nạn chính trị, và cũng đã về VN cùng chung với đại tá Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông. Nhưng có hai tài liệu khác nhau. Tài liệu một cho rằng sau đó, đại úy Đường bị cho giải ngũ, về bán bánh mì nuôi gia đình và bị ám sát tại nhà ở ngã tư Bảy Hiền. Tài liệu hai cho biết đại úy đường đến Mỹ định cư ở bang Washington và qua đời vào năm 2001. Tài liệu VC cho rằng đại úy Đường ném bom giết Hà Minh Trí. Hà Minh Trí ám sát ông Diệm, làm cho bộ trưởng Canh Nông bị thương, toà kết án tử hình, thì cứ đem ra bắn là hợp pháp, cần gì phải ném bom giết quân nhân của mình?. 8* Nói về tù nhân trên tàu HQ-401 đến Côn Đảo Ngay khi đến Côn Sơn, những tù chính trị quốc gia được cho ra ăn ở và làm việc trong các ty, sở hành chánh Côn Sơn. Họ không bị giữ trong trại giam. Có hai nhóm, nhóm dân sự và nhóm quân nhân. 1). Nhóm quân nhân thuộc binh chủng nhảy dù được ra ăn ở tại nhà của anh Nguyễn Văn Đồng, trưởng ty tiểu học, gồm có: đại úy Nguyễn Thành Chuẩn, trung úy Nguyễn Vũ Từ Thức, tr/u Nguyễn Bá Mạnh Hùng, và một vài người nữa không nhớ tên. Nhà ở Côn Sơn do Pháp xây cất nên ngoài toà nhà chính ra, còn có một số phòng phía sau làm nhà kho, nhà bếp và chứa những dụng cụ cần thiết, vì thế có chỗ ngủ cho khoảng 10 người. Thiếu tá Phan Trọng Chinh không ra Ty Tiểu học cho nên không biết tin tức. 2). Nhóm chính trị được đưa ra làm việc ở Ty Y Tế Côn Sơn, gồm có: BS Phan Quang Đán, ông Phan Bá Cầm (Hoà Hảo), Trương Bảo Sơn, Phan Đình Nghị và Vũ Đình Lý. Hai ông Nghị và Lý thuộc các tổ chức miền Trung. BS Phan Quang Đán tham gia khám bịnh cho quân nhân, công chức tại ty Y Tế Côn Sơn. Trúc Giang tôi không gặp Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Bùi Lượng nên không biết tin tức về họ. Những tù nhân đảo chánh bắn đại liên và súng cối vào Dinh Độc Lập mưu sát tổng thống Diệm mà khi ra Côn Đảo đã được đối xử tử tế như thế, cho thấy ông Diệm không phải là người nham hiểm, độc ác, âm mưu trả thù đối với những người cố ý giết mình. 3). Hà Minh Trí bị giam ở chuồng cọp. Những tù nhân chính trị nguy hiểm mang án tử hình thì bị giam ở chuồng cọp. Chuồng cọp là những dãy phòng nằm sâu dưới nền nhà, phía trên có song sắt. Mỗi phòng dài 2.5m, rộng 1.45m giam giữ một người. Phòng nầy cách phòng kia bằng một bức tường nên tù nhân không liên lạc với nhau được. Đi trên nền nhà, giữa hai song sắt, giám thị cải huấn có thể quan sát được hai phạm nhân dưới hai hầm cùng một lúc. Mọi sinh hoạt: ăn ngủ, tiểu tiện đều ở trong phòng biệt giam đó. Cửa ra vào các “chuồng cọp” ở dưới nền nhà.
x...
x...
Song sắt là phần trên nóc của mỗi phòng biệt giam 4). Tổng quát về Côn Sơn
x...
Quần đảo Côn Sơn, trước kia có tên Pháp là Poulo Condor, rồi Côn Đảo. gồm 16 đảo, diện tích 76Km2. Ngoài đảo Côn Sơn lớn nhất, 50Km2, còn có những đảo nhỏ như các đảo: Hòn Bà, Hòn Cau, Hòn Tài Lớn, Hòn Tài Nhỏ, Hòn Trứng, Hòn Bãi Cạnh, Hòn Bông Lan, Hòn Trác Lớn, Hòn Trác Nhỏ, Hòn Tre, Hòn Vung... Vào những năm 1960, Côn Sơn là một trại tù với bộ máy hành chánh cấp tỉnh phục vụ công tác cải huấn. Cũng có đầy đủ các ty, sở như các ty: Công Chánh, Kiến Thiết, Tiểu Học, Y Tế, Cảnh Sát, Ngân Khố, Thông Tin, Canh Nông, Bưu Điện, một nhà máy điện, một đài khí tượng, một trường trung học đệ nhất cấp... Không có thường dân trên đảo. Một tiểu đoàn Địa Phương Quân giữ an ninh cho đảo. Mỗi gia đình công chức được xin một phạm nhân ra giúp việc trong nhà: đi chợ, nấu ăn, trồng rau...thường thì được thưởng tiền hàng tháng. Không có điện thoại và báo chí, không có rạp ciné, không có những bóng hồng đối tượng của những chàng trai độc thân, cho nên độc thân vẫn độc thân suốt thời gian sống ở đảo. Đời sống Côn Sơn hầu như cách biệt với đất liền. Mỗi tháng có hai chuyến tàu tiếp tế ra đảo, như thế công chức được nhận thơ từ trong đất liền ra đảo, hai lần trong một tháng. Người ta trông tàu ra, cảm thấy vui mừng khi nghe tiếng trống báo hiệu tàu đến để nhận thơ và quà. 5). Người tù Côn Đảo Nhà tù Côn Đảo giam giữ những phạm nhân bị kết án 5 năm trở lên. Khi đến nhà tù thì phạm nhân không còn bị tra khảo hay đánh đập gì nữa cả. Có hai loại tù: thường phạm (tù hình sự) và chính trị phạm. Tù chính trị gồm có chính trị quốc gia và chính trị Cộng Sản. Án tù cũng chia làm hai loại: tù khổ sai và tù cấm cố. Tù cấm cố mơ ước được làm tù khổ sai để được “xuất ngoại”, tức là ra ngoài làm lao động, sáng ra tối vào trại. Ra ngoài được hít thở không khí trong lành, được cử động tay chân, tắm nắng...Tù cấm cố thì luôn luôn suốt năm ở trong trại. 9* Những điều vô lý của mật lịnh đánh chìm tàu 9.1. Vô lý #1: Tàu chở tù ra Côn Đảo vào ngày 31-7-1963 chớ không phải ngày 5-10-1963. Trong thời gian đó, Trúc Giang tôi đang ở Côn Sơn, đã tiếp xúc với nhóm đảo chánh hụt suốt thời gian gần nửa năm. Bác Sĩ Phan Quang Đán đã dạy Anh Văn cho tôi và người bạn là Sáu Y Tế (Nguyễn Văn Sáu thuộc ty Y Tế Côn Sơn). Một người bạn gái của anh Sáu ở Sài Gòn viết thơ ra nhờ giúp đở cho đại úy Nguyễn Thành Chuẩn ở tù vì tham gia đảo chánh hụt. Sau nầy, ông Chuẩn thăng đại tá, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Biên Phòng Vùng 3 Chiến Thuật. Võ sư Phạm Lợi dạy Judo cho anh Sáu Y Tế và đã cùng với trung úy nhảy dù Nguyễn Bá Mạnh Hùng tập dượt Judo để trình diễn màn võ thuật, qua một vở kịch ngắn, trong ngày lễ chào mừng Ngày Quốc Khánh 26-10-1963 tại sân vận động Côn Sơn. Nhiều bài viết xác định tàu HQ-401 khởi hành ngày 5-10-1963 là hoàn toàn sai, vì từ 5-10-63 đến 1-11-63 thời gian chỉ có một tháng thôi, mà thực tế chúng tôi đã tiếp cận với những người nầy trong thời gian 4 tháng. 9.2. Vô lý thứ #2. Trích cái vô lý như sau: “Phe VNCH phát hiện một máy bay Skyraider Buno số hiệu U-3465 (loại khu trục ném bom), xuất hiện trên đầu họ”. (ngưng trích). Cha nội tác giả bài nầy nói dốc vô lý. Đó là, làm sao mà người trên tàu đọc được số hiệu U-3465 cho được? trong điều kiện chữ khổ nhỏ, bay nhanh, khoảng cách rất xa giữa tàu và phi cơ trên trời cao? 9.3. Vô lý thứ #3. Trích điều vô lý như sau: “Khi lên tàu, nhóm tù “VNCH”, được sĩ quan hải quân trọng đãi, cho lên boong tàu ngắm trời mây” Sự thật là không có tù nhân nào được lên boong tàu cả, vì không có boong tàu dành cho hành khách, mà tất cả tù nhân bị còng chân, ngồi xếp hàng từng dãy có trật tự, đó là nguyên tắc an ninh của nha Cải Huấn. Việc áp giải tù ra Côn Đảo do nha Cải Huấn phụ trách. Thủy thủ mọi cấp không được xía vào công việc an ninh của nha Cải Huấn. Còng chân để giữ trật tự, an ninh. Tránh những trường hợp như: nổi loạn trên tàu, nhảy xuống sông, nhảy xuống biển hoặc giết nhau do thù oán cá nhân... Tàu đi ra biển nào cũng phải theo con sông Sài Gòn, sông không to lớn lắm, đi qua rừng Sác rồi ra biển qua cửa Cần Giờ. Việc áp giải tù nhân luôn được giữ bí mật, từ khám Chí Hoà đến khi xuống tàu không được tổ chức nơi bến công cộng có nhiều người trông thấy. Tàu hải quân có bến trong Hải Quân Công Xưởng (Sở Ba Son), là căn cứ quân sự của hải quân. 9.4. Kịch bản của Hà Minh Trí dở ẹt Sở mật vụ và ông Nhu muốn giết một người tù thì dễ như trở bàn tay, có cả chục, cả trăm cách hợp pháp và hợp lý, tù bị kết án tử hình thì cứ đem pháp trường thi hành bản án là xong ngay, cần gì phải thực hiện hai cái bao thơ gọi là tuyệt mật rất vô lý, bởi vì buổi chiều ngày 5-10-1963 đại úy Đường nhận được hai bao thơ để đánh chìm chiếc tàu vào buổi chiều cùng ngày. Một sĩ quan, một cá nhân, không thể tự ý nạp bom vào phi cơ, rồi chờ cho đúng giờ tàu ra cửa biển để bay đi đánh chìm. Ai ai cũng biết là phòng hành quân ra lịnh thì phi vụ mới tiến hành được, nhất là quy luật an ninh của Không Quân, sau vụ ném bom của Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ngày 27-2-1962, thì mỗi phi vụ phải có ba chiếc để canh chừng lẫn nhau. Trường hợp trung úy Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Thành Trung, phi vụ cũng 3 chiếc, nhưng ông nằm vùng nầy lấy cớ trục trặc kỹ thuật gì gì đó để cất cánh chậm năm bảy phút, rồi đến thả bom xuống dinh Độc Lập ngày 8-4-1975. Kịch bản của Hà Minh Trí như trên, tào lao là vậy. Phủ Tổng Thống ra điều kiện thăng thưởng trên chuyến bay, thăng lên thiếu tá, thưởng một triệu đồng cho việc đánh chìm chiếc tàu HQ/VNCH là tự xác nhận mình vi phạm luật pháp, tội lớn nhất là giết binh sĩ của mình, phá hủy tài sản của mình, đó không phải là tác phong của sở mật vụ và của hai ông Diệm-Nhu. Ở thời điểm những năm 1960, HQ/VNCH chỉ có 7 chiếc hải vận hạm mang số từ HQ-400, 401, 402, 403, 404, 405 và 406 do Mỹ chuyển lại trong nhiều đợt. HQ-401 là tàu chở quân đổ bộ đường biển, loại trung bình, thường gọi là tàu đầu bằng há mõm, được Mỹ chuyển giao năm 1956, tên gốc của nó là LSM-110. (LSM=Landing Ship Medium). Thủy thủ đoàn gồm 58 người. Hạm trưởng là Hải quân đại úy Nguyễn Văn Hớn (sau lên đại tá), hạm phó là HQ trung úy Lê Thành Uyển. Sinh mạng của 58 người nầy không phải là người bình thường, mà là những người được đào tạo, huấn luyện, cho đi tu nghiệp và trải qua những thời gian dài thu thập kinh nghiệm để vận hành con tàu. Thủy thủ đoàn là những chuyên viên kỹ thuật của nhiều ngành nghề khác nhau. Con tàu và thủy thủ đoàn là một tài sản vô cùng quý báu của quốc gia trong thời gian đó, có nhiều tiền cũng không mua được, có xin thì cũng không được Mỹ cho ngay tức khắc. Mang một tài sản quý báu cộng thêm một triệu đồng tiền thưởng để giết một tử tù thì thật là một câu chuyện tào lao, bá láp. Khi toà đã kết án tử hình thì muốn đem ra thi hành bản án lúc nào mà không được? Những người đã từng mưu sát ông Diệm như Hà Thúc Ký, lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng, đã lập chiến khu Ba Lòng chống chế độ, đã tàng trữ vũ khí để mưu sát ông Diệm, bị tù nhưng vẫn còn sống sau đó. Trung úy Phạm Phú Quốc cùng với thiếu úy Nguyễn Văn Cử đã dội bom mục đích giết cả gia đình ông Diệm, bà Nhu bị té gãy tay khi chạy xuống hầm, Dinh Độc Lập bị sập phân nửa, thế nhưng cả ông Hà Thúc Ký và Phạm Phú Quốc vẫn còn sống nhăn sau khi ông Diệm chết. Những điều đó chứng tỏ tổng thống Diệm không phải là người hiếu sát, thù cá nhân và nham hiểm. Và kịch bản của Hà Minh Trí là dở ẹt, tào lao, bá láp và vô lý. Chỉ có những đầu óc thiếu học mới nghĩ ra cái quái thai đó mà thôi. 10* Kết luận Hà Minh Trí là Việt Cộng đội lốt Cao Đài, mà mục đích hành động là ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm. Đã ba lần mưu sát ông Diệm. Báo chí Việt Cộng thổi phồng quá mức “Kế ly gián của Hà Minh Trí làm đảo điên chính quyền Sài Gòn” Kịch bản mật lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường đánh chìm tàu HQ-401 chở tù đi Côn Đảo trong đó có Hà Minh Trí, là một kịch bản rất tồi, rẻ tiền và vô lý, khó tin được. Một chi tiết đáng buồn cười là lá thơ tuyệt mật của Phủ Tổng Thống có hai chữ ký của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Thơ của Phủ TT thì Ngô Đình Nhu ký tên thì đúng, chớ mắc mớ gì mà BS Trần Kim Tuyến lại ký thêm vào đó? Dốt đặc cán búa! Tài liệu còn rất nhiều chi tiết sai sự thật. Nhóm tham gia đảo chánh hụt chỉ có 32 người chớ không phải là 216. Nhóm Caravelle không phải là nhóm nghị sĩ, Phan Khắc Sửu và Phan Trọng Chinh không phải là nghị sĩ, và nhóm Caravelle không tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960. BS Phan Quang Đán không thuộc nhóm Caravelle. (Nhóm Caravelle gồm 18 chính khách đối lập, lấy tên là nhóm Tự Do Tiến Bộ, họp báo tại khách sạn Caravelle ngày 26-4-1960 để phổ biến Bản Tuyên Cáo tố giác chính quyền độc tài và đề nghị tổng thống Diệm thay đổi chính sách. Trưởng nhóm là ông Trần Văn Văn. Các thành viên gồm có: Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui). Một anh thất học, 5 tuổi cha chết, 10 tuổi dẫn dắt bà nội mù lòa đi ăn mày, 13 tuổi đi ném lựu đạn vào vũ trường, quán bar, rồi sau đó đi “làm cách mạng” thử hỏi thời gian đâu mà học với hành? Với trình độ đó, thì kịch bản cũng ở trình độ đó thôi. Trúc Giang |
NUTB:: Published on Friday 01.11.2013
|
No comments:
Post a Comment