Showing posts with label Hồ Chí Minh. Show all posts
Showing posts with label Hồ Chí Minh. Show all posts

Sunday 3 June 2018

Phong cách làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Mạch Quang Thắng - Quốc Phòng Toàn Dân)



QPTD -Thứ Hai, 19/06/2017, 07:59 (GMT+7)

“Làm báo” ở đây hiểu theo ba việc: 1. Sáng tác ra các bài báo, gồm cả viết báo và trả lời phỏng vấn cho phóng viên của tờ báo nào đấy rồi họ đăng lên báo; 2. Quản lý tờ báo; 3. Phần nào là đọc báo để vừa nhận thông tin vừa để nâng cao chất lượng tờ báo, bài báo. Hồ Chí Minh đã kinh qua ba việc đó. Phạm vi bài viết này đi sâu vào việc thứ nhất. Trong phong cách viết báo của Hồ Chí Minh, có ba điều cơ bản nổi bật nhất: 1. Viết ngắn gọn, súc tích; 2. Viết đủ những thông tin cơ bản cần thiết; 3. Viết hay (hấp dẫn người đọc).

Hồ Chí Minh là một nhà báo “chính danh”; là bậc thầy của nền báo chí cách mạng Việt Nam, tuy rằng Hồ Chí Minh không hề có thẻ nhà báo, làm báo nhưng chưa qua bất kỳ trường lớp nào dạy viết báo. Hồ Chí Minh đồng thời là người: sáng lập, chủ nhiệm, chủ bút, viết báo, phát hành,… nghĩa là làm tất các công đoạn từ A đến Z trong nghề báo1. Hồ Chí Minh là Chủ bút báo Thanh niên của tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên, từ năm 1925. Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh đã cho đăng trên các báo ở cả trong nước và nước ngoài khoảng hơn 3.500 bài.

Nhiều người đã gọi Hồ Chí Minh bằng nhiều danh vị: nhà cách mạng, nhà văn hóa, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thơ, v.v. Nhưng, Người chỉ nhận mình là nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Trong danh vị nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc dùng báo chí làm công cụ tác nghiệp để đạt mục đích ba giải phóng: dân tộc - xã hội - con người. Tất cả các biểu hiện phong cách làm báo của Hồ Chí Minh chỉ đều nhằm mục đích đó, không có mục đích nào khác. Như vậy, phong cách làm báo của Hồ Chí Minh luôn mang tính hướng đích, như một véc-tơ lực hướng vào cái đích đó mà thôi. Điều này cắt nghĩa tại sao Hồ Chí Minh thường hay nhấn mạnh tới những luận đề: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?

1. Phong cách viết ngắn gọn, súc tích

Hồ Chí Minh viết báo với nội dung không cao siêu, không chung chung, mà đi thẳng vào lòng người. Đề tài mà Người chọn viết luôn nhằm vào mục tiêu đã định; chính vì vậy rất ngắn gọn, súc tích. Điển hình là, trong cuốn Đường kách mệnh2, Hồ Chí Minh viết: “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ”3. Có thể coi đây là một dạng “tuyên ngôn” về phong cách viết của Hồ Chí Minh cho suốt cả cuộc đời viết báo của Người sau này.

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh khởi thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội chiều ngày 2-9-1945 chính là sự tinh chắt nguồn sinh khí của một dân tộc được hồi sinh và thăng hoa thông qua những lời văn súc tích. Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ vẻn vẹn 1.003 chữ, khi đề cập thời cơ, nguyên nhân do đâu hoặc hình thái mà nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh chỉ “gói” vào trong 9 chữ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”4. Bản Tuyên ngôn Độc lập ấy, hội đủ những căn cứ có giá trị pháp lý quốc tế, đồng thời khái quát quá trình diễn biến cho sự xuất hiện một chế độ chính trị mới; là tuyên ngôn về quyền chính đáng của một dân tộc và của cá nhân con người (quyền con người) trong độc lập, tự do và cho một thể chế chính trị bắt đầu bước lên khán đài chính trị thế giới bằng cái tên chưa bao giờ có trong lịch sử Việt Nam trước đó: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phong cách viết ngắn gọn, súc tích của Hồ Chí Minh còn được thể hiện rõ khi Người viết: Chánh cương vắn tắt của Đảng, với 276 chữ; Sách lược vắn tắt của Đảng, 253 chữ; Chương trình tóm tắt của Đảng, 178 chữ; Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, 603 chữ, nhưng lại đáp ứng được đầy đủ tất cả các tiêu chí làm thành cương lĩnh của một đảng chính trị trong Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930. Ngay các diễn văn đọc tại những buổi lễ hoặc đón - tiễn các nguyên thủ quốc gia sang thăm Việt Nam cũng được Hồ Chí Minh viết ngắn gọn, súc tích như thế; không ít diễn văn còn xen vào mấy câu thơ, có khi đó là thơ lẩy Kiều. Đặc biệt, những lời kêu gọi đầy khí thế hào sảng, những bức thư, những bài báo viết cho đồng bào, chiến sĩ và các cháu thanh thiếu niên cả nước rất ngắn gọn, súc tích nhưng chứa chan bao nhiêu ân tình.

Hồ Chí Minh phản đối cách viết dài mà lại rỗng tuếch, nhưng không nhất thiết lúc nào và về cái gì cũng phải viết ngắn mới tốt. Dài, ở đây theo đề cập là một số người viết dài mà không gọn gàng, súc tích. Trong nhiều bài trả lời phỏng vấn báo chí, nhất là gặp phải những câu hỏi hóc búa, thì Người thường trả lời còn ngắn gọn hơn cả câu hỏi đặt ra.

2. Viết đủ những thông tin cơ bản cần thiết

Trong viết báo, Hồ Chí Minh rất chú trọng chuyển tải đúng và chuyển tải đủ những thông tin cơ bản cần thiết đến cho người đọc. Đây cũng là một phong cách ấn tượng của nhà báo cách mạng Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người viết: “Chắc có người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả,… Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!"5.

Hồ Chí Minh thường sử dụng các con số thống kê. Đó là những con số biết nói; chúng không khô khan, bởi chúng được kiểm tra. Sau này, khi giữ trọng trách Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước, công việc hằng ngày rất bận, vậy mà hằng ngày Người vẫn thu thập tin tức (săn tin) từ các báo đài ở cả trong và ngoài nước, từ đọc sách, từ nghe và đọc các báo cáo của các cấp, các ngành. Bao giờ Hồ Chí Minh cũng thẩm tra lại những tin tức, những con số cho chính xác. Những bài báo của Hồ Chí Minh tuy ngắn, nhưng những câu viết hàm chứa những nhận định, thông tin có chiều sâu, đầy đủ, có nguồn tin cậy.

Rất tiếc trong thời đại của công nghệ thông tin hiện nay, không ít người viết đã dài mà lại không đủ thông tin, tệ hơn là không chính xác. Nguyên nhân có thể là cái tâm của người viết báo không lành, cái đức không tốt, không cao, kỹ năng viết báo kém cỏi và cuối cùng là nguồn tin thu thập được quá nghèo nàn. Không ít người dễ dãi trong nhận tin, tin không rõ cũng có, tin bị lừa cũng có. Phong cách viết báo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ: điều gì chưa rõ thì chưa viết; điều gì chưa nên công bố thì chưa công bố; những gì cần thông tin cho người đọc biết thì thông tin đầy đủ, đúng sự thật.

Những bài báo của Hồ Chí Minh đưa lại thông tin cho người đọc một cách hữu hiệu, vì luôn chú ý tuân thủ tính mục đích, cho nên Người đưa tin có trọng tâm, trọng điểm; tin gì viết kỹ, tin gì chỉ viết qua để tránh tình trạng thông tin chính không tập trung viết mà lại sa vào những tiểu tiết không quan trọng. Người đọc bao giờ cũng đứng trước sự lựa chọn để đọc bài báo phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của bản thân. Nhưng, dù với người đọc nào đi chăng nữa, thì luồng thông tin đầy đủ, chính xác trong bài báo cũng cần được tôn trọng. Có lẽ, để cho người đọc tránh được “định kiến”, Hồ Chí Minh thường lấy nhiều bút danh khác nhau để viết báo. Đây là việc độc đáo của nhà báo cách mạng Hồ Chí Minh.

3. Viết hay (hấp dẫn người đọc)

Người viết báo phải viết bằng trái tim đầy xúc cảm. Hồ Chí Minh chính là nhà báo như thế! Người viết báo là đi thẳng từ trái tim của mình đến bạn đọc. Ngòi bút và ngôn ngữ chỉ là phương tiện để nói hộ trái tim mình. Đối với Hồ Chí Minh, những bài báo “đặt hàng” chỉ là đặt hàng từ trái tim. Muốn hấp dẫn người đọc, Người thường căn dặn những nhà báo chú ý đến đối tượng người đọc. Bởi, mỗi một tờ báo đều có đối tượng riêng, khác nhau. Bài viết này là hay với đối tượng người đọc này nhưng chưa chắc đã hấp dẫn đối với đối tượng người đọc khác. Thông qua ngôn ngữ báo chí của mình, Hồ Chí Minh muốn biểu đạt tư tưởng của mình cho phù hợp với từng đối tượng người đọc. Hồ Chí Minh nói và viết bằng ngôn ngữ bình dân để tất cả mọi người, từ người bác học đến người dân bình thường đều hiểu được, tức là đề cập bốn vấn đề Người nói và viết phải xác định thật rõ: viết cái gì; viết cho ai; viết để làm gì; viết như thế nào. Không phải là tất cả, nhưng rất nhiều bài viết xong, trước khi công bố, Người thường đưa cho một số người xung quanh để mong nhận được góp ý sửa chữa, bổ sung. Khi nhận được góp ý thì Người đều quý trọng các ý kiến đó như nhau, không cho rằng ý của ông ủy viên Bộ Chính trị là quan trọng hơn ý kiến của anh chị em phục vụ.

Điều hấp dẫn của một bài báo không phải là dùng những từ ngữ cho “kêu”, cho “oai”, cho “bóng bẩy” mà là dùng những từ ngữ chính xác, lột tả được bản chất của vấn đề, có khi còn dùng cả lối chơi chữ (“Taylo thì chân cũng lo” - Taylo là tên của một người Mỹ); ẩn dụ, hóm hỉnh, trào lộng, dí dỏm làm cho người đọc dễ có ấn tượng. Trong những bài đả kích sâu cay, Hồ Chí Minh thể hiện phong cách vừa kiên quyết, vừa thâm trầm. Chẳng hạn, trong thời kỳ thực dân Pháp tái xâm lược Việt Nam, khi một số phóng viên báo chí nước ngoài moi móc, châm chọc, Người dùng cách viết “vừa xoa vừa đấm” rằng: tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi; nhưng với tờ giấy trắng mực đen ấy, người ta có thể viết những bức tối hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu đương. Từ trước đến giờ, báo chí Pháp đều chỉ dùng giấy để viết những tối hậu thư nhiều hơn; bây giờ về sau, chúng ta phải dùng giấy để viết những bức thư thân ái. Không phải chúng tôi có cái không tưởng rằng, báo chí hai bên sẽ luôn gửi thư yêu thương cho nhau. Nhưng, sự việc nào đó mà cứ thêu dệt thêm lên, dùng những lời vô phép, thô bỉ, thì bên kia thấy vậy chưa biết phải, trái ra sao thì đã bất bình và không ngần ngại gì mà không đối phó lại cùng một cách.

Hồ Chí Minh hay phê bình những cán bộ, đảng viên có “bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ, bệnh sính dùng chữ nước ngoài”, cứ nói và viết “tràng giang đại hải”, “giây cà ra giây muống”, “thao thao bất tuyệt”, dùng những ngôn từ không sát hợp đối tượng, nội dung không phù hợp, nghĩa là không chú ý tới người nghe, người xem, không quan tâm họ có hiểu hay không. Hồ Chí Minh nói tiếng nói của nhân dân, học tiếng nói của nhân dân, dùng ca dao, tục ngữ vào ngay cả những bài báo có tính chính luận; lạ thay, khi dùng như thế thì chúng lại mang tính triết lý đúc kết từ cuộc sống lâu đời truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác của dân tộc. Mà chúng ta biết rằng, ca dao, tục ngữ chính là biểu đạt và đúc kết từ sự thông thái của dân gian. Hồ Chí Minh diễn giải những vấn đề lý luận chính trị, về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đến với mọi người một cách rõ ràng, đúng bản chất của vấn đề, dễ hiểu, không rườm rà, không kinh viện kiểu “tầm chương trích cú”. Những lời kêu gọi đăng báo toát lên hừng hực khí thế bao chứa quyết tâm chiến lược hành động của cả một dân tộc ở trong đó; lời chúc Tết của Người có xen bài thơ làm cho đêm giao thừa giữa năm cũ và năm mới thật thiêng liêng, chứa chan xúc cảm lòng người; những bài văn chính luận hào sảng; những bức thư gửi cho các ngành, các giới, các em học sinh, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng đầy tình cảm thân thương, kể cả “Thư” (gọi là Di chúc) trước lúc từ giã cõi đời gửi lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, trong nước và quốc tế, đã nói lên phong cách viết báo đầy tính hiệu quả của Người. Đó thực sự là phong cách toát lên tinh thần “Dân tộc - Khoa học - Đại chúng”.

4. Vài suy nghĩ về học tập, vận dụng phong cách viết báo của Hồ Chí Minh hiện nay

Phong cách là cái riêng của mỗi một người, không ai giống ai. Đành rằng là thế. Có học tập, vận dụng phong cách viết báo của Hồ Chí Minh được không? Câu trả lời là: Được. Trong cái riêng của Hồ Chí Minh, vẫn có những cái chung, mà nếu muốn quyết tâm học tập, vận dụng thì cũng được, tuy không hề đơn giản. Muốn học và vận dụng được, ít nhất phải có hai điều:

Thứ nhất, phải có tâm thế chủ động, tích cực. Tâm thế là toàn bộ thái độ, tâm lý của con người khi đứng trước một sự việc nào đó và nó có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến kết quả hành động của con người. Có thể nêu lên hai tâm thế đối lập nhau là: chủ động, tích cực và bị động, tiêu cực. Người nào có tâm thế chủ động, tích cực thì khi ứng xử (đối với người, đối với việc, đối với người - theo cách phân loại ứng xử của Hồ Chí Minh) sẽ đạt được kết quả tốt. Ngược lại, người nào mà có tâm thế bị động, thụ động, tiêu cực thì khó hoặc không đạt được kết quả tốt. Hồ Chí Minh viết một bài báo nào đó đều với tâm thế tích cực, chủ động, thanh thản, bình tâm. Đó là trạng thái tâm lý của người viết báo. Do vậy, học tập phong cách viết báo của Hồ Chí Minh, chúng ta rất cần một tâm thế như Người, nghĩa là chủ động, tích cực. Tự bản thân mình thấy rằng, học tập phong cách viết báo của Hồ Chí Minh là nhu cầu thiết thân hằng ngày - như con người cần có nước uống, cần có cơm ăn, cần có dưỡng khí để thở - nếu đạt được tâm thế như vậy thì mới thu được kết quả tốt. Tâm thế đó phải trở thành một trong những điều kiện tiên quyết làm nên thành công của một nhà báo cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Muốn đạt được tâm thế này, một vấn đề nữa cần đặt ra là nhà báo cần có một trí tuệ sung mãn và tư chất đạo đức công dân cũng như đạo đức nghề nghiệp tốt. Đó là năng lực và trí tuệ của chính nhà báo được học tập, tự giác rèn luyện hằng ngày, bất kể trong điều kiện nào. Đó cũng là yêu cầu về chiều sâu của trí tuệ, bề rộng và dày của văn hóa và sự lão luyện, tinh thông kỹ năng của nghề báo.

Thứ hai, vận dụng vào điều kiện hiện nay cho sát hợp. Muốn thế, cần phải hiểu rõ tình hình thực tế, hiểu rõ bản chất của vấn đề đang xẩy ra. Một món ăn tinh thần ngon lành, hấp dẫn người ăn là bởi vì nó hợp khẩu vị. Khẩu vị này hiện nay rất đa dạng, nhưng có những khẩu vị phổ biến “quốc hồn, quốc túy” mà làm nên văn hóa ẩm thực của con người Việt Nam nói chung. Chính vì thế, khi đọc lại những bài báo của Hồ Chí Minh, có khi đó là những bài đăng từ mấy chục năm nay rồi, hoàn cảnh hiện nay có thể đã khác xưa rồi, nhưng nhiều ý tứ mà Hồ Chí Minh viết vẫn còn hấp dẫn người đọc. Cuộc sống luôn biến đổi không ngừng. Cái còn lại mãi của một bài báo là ở sức sống từ bản chất vấn đề, chứ không nằm trong chi tiết nào đó. Bởi, chúng chỉ là cái cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể, nó có thể phù hợp với lúc này mà không còn phù hợp ở lúc khác. Phong cách viết báo của Hồ Chí Minh giống như bản thân Người quan niệm trong hành động: phải phù hợp với từng lúc, từng nơi, là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đó cũng là biện chứng mác-xít mà chúng ta thấy rất rõ trong phong cách mà Hồ Chí Minh để lại cho các thế hệ nhà báo cách mạng Việt Nam.

GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG

____________

1 - Khi Người làm ở báo Le Paria tại Pháp đầu những năm 20 của thế kỷ XX.

2 - Gồm những bài viết của Hồ Chí Minh cho các lớp huấn luyện thanh niên Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu - Trung Quốc được tập hợp lại in thành sách năm 1927.

3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 283.

4 - Sđd, Tập 4, tr. 3.

5 - Sđd, Tập 2, tr. 283.
(http://tapchiqptd.vn/vi/theo-guong-bac/phong-cach-lam-bao-cua-chu-tich-ho-chi-minh/10256.html)

Thursday 6 October 2016

Hồ Chí Minh với vấn đề khai thác di sản tư tưởng Nho giáo (Lại Quốc Khánh - Lý Luận Chính Trị)

Thứ năm, 20 Tháng 8 2015 09:55

Hồ Chí Minh với vấn đề khai thác di sản tư tưởng Nho giáo

(LLCT) - Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóaphương Tây.Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến tiếpbiến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hoá tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây; các phong trào chính trị - xã hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo bất lực trước việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn lịch sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục và khoa cử Nho học bị giải tán.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, bao gồm Nho giáo, chủ nghĩa Mác, v.v.., với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, là Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với bản lĩnh chính trị - văn hoá, và với vị thế của một người có quyền uy tư tưởng nhất định khi trở thành một nhân vật có uy tín của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam.
Nho giáo mà Hồ Chí Minh khai thác chủ yếu thể hiện trong Tứ thư, Ngũ kinh; Nho giáo gắn liền với các nhà nho thời kỳ lập thuyết (thời Tiên Tần) như Khổng Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử; Nho giáo tinh tuý nhưng không kinh viện, mà gắn liền và dung nhập chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, dung nhập hơi thở của thời cuộc ở bước chuyển biến có ý nghĩa bản lề của lịch sử dân tộc.
1. Những di sản tư tưởng Nho giáo được Hồ Chí Minh khai thác
Trước hết, cần xác định, Hồ Chí Minh nhận diện Nho giáo như thế nào.
Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng””(1).
Năm 1924, trong một tác phẩm viết chung, Hồ Chí Minh đã đề cập đến “tinh thần triết học và giáo lý của Khổng Tử”, và gọi Khổng Tử là “vĩ nhân”, gọi Mạnh Tử là “một lý luận gia cách mạng của thế hệ ông”(2).
Ngày 20-2-1927, chỉ năm ngày sau khi Chính phủ Trung Hoa Dân quốc ban hành lệnh xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử kèm theo những khoản dự chi cho những cuộc nghi lễ ấy và chuyển những đền thờ Khổng Tử thành các trường học công, Hồ Chí Minh đã viết bài báo có tên “Khổng Tử”, trong đó khẳng định: “Với việc xoá bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”(3).
Năm 1949, trong cuốn sách Hồ Chí Minh truyện, xuất bản bằng tiếng Trung Quốc (Bát Nguyệt thư xã xuất bản, người dịch Trương Niệm Thức), đã ghi một nhận xét của Hồ
Chí Minh:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(4).
Một số dẫn chứng như trên cho thấy, Nho giáo được nhận diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh: Là Nho giáo thời Tiên Tần, hay là học thuyết Khổng Mạnh; Là một hệ thống tư tưởng, chứ không phải là một tôn giáo; Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết về đạo đức, học thuyết về xử lý các mối quan hệ đạo đức cơ bản của xã hội; Nho giáo ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của bối cảnh ra đời, có nhiều ưu điểm, song cũng có cả những hạn chế, và trong đó, nếu nhìn vào cốt lõi của nó (học thuyết về tu dưỡng đạo đức cá nhân), thì ưu điểm là nổi bật, cần kế thừa và phát huy. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng; Nho giáo đã từng bị các triều đại phong kiến lợi dụng.
Sự nhận diện Nho giáo như trên của Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm khoa học, khách quan, công bằng, quan điểm khoan dung văn hoá, cũng như bản lĩnh của nhà tư tưởng trong ứng xử với các di sản tư tưởng văn hoá truyền thống.
Từ cách nhận diện như vậy, Hồ Chí Minh đã chọn lọc, kế thừa, cải biến di sản tư tưởng Nho giáo để làm giàu vốn tri thức văn hoá của bản thân.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo trên ba cấp độ sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề, có giá trị và sức sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp với thời đại.
Có thể nêu ra một số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng như Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu, v.v.. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”(5). Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung với vua trở thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ quát hoá đạo đức cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với cha mẹ.
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”, “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, v.v..
Những  mệnh đề trên được Hồ Chí Minh tiếp thu, và trong nhiều trường hợp, được Hồ Chí Minh khẳng định chính là những phẩm chất của những người cách mạng, những người cộng sản trong thời đại mới. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của Nho giáo là rất lớn.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư duycủa Nho giáo.
Phương pháp tư duy biện chứng của Nho giáo (của Khổng Tử, Mạnh Tử, và đặc biệt là Kinh Dịch) thể hiện rất đậm nét ở Hồ Chí Minh.
Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc; từ cải tạo; tự cải tạo con người đi đến cải tạo xã hội, v.v..cũng được Hồ Chí Minh kế thừa, sự dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn cách mạng. Có thể dẫn ra một số luận điểm của Hồ Chí Minh để chứng minh cho nhận định trên: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(6); “Khổng Tử nói: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình thế giới. Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”(7)...
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành triết lý sốngcủa các bậc đại Nho với các nguyên tắc tu nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo, v.v.. Có thể dẫn ra một số thí dụ. Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Người nói như vậy và luôn thực hành nguyên tắc này, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo - Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, từ những phạm trù, mệnh đề tưtưởng đến phương pháp tư duy; từ tư tưởng, học thuyết đến triết lý sống; từ nhận thức đến thực hành.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo
Thứ nhất, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophảitrên cơ sở quán triệt quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Hồ Chí Minh quan niệm, bất cứ một hệ thống tư tưởng nào cũng ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối, quy định của những điều kiện ấy. Chính vì thế, để lý giải, đánh giá nội dung, giá trị của bất cứ hệ thống tư tưởng nào, cũng cần phải đặt nó vào trong những điều kiện ra đời của nó. Mọi thiên kiến, áp đặt bằng con mắt phi lịch sử với các di sản quá khứ đều là điều không thể chấp nhận được, đều có nguy cơ dẫn đến sai lầm, hoặc tuyệt đối hoá hoặc phủ nhận sạch trơn giá trị của các di sản quá khứ. Nói về học thuyết Mác, Hồ Chí Minh viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(9), và vì thế, “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(10). Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng”(11), và “nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lênin”(12). Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Người cũng xem xét các di sản tư tưởng quá khứ trước những yêu cầu mới của thời đại mới, để từ đó kế thừa một cách biện chứng các di sản này.
Thứ hai, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophải trên quan điểmvới thái độ trân trọng, kế thừa, phát triểncó chọn lọc.
Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm mang tính chỉ dẫn rất toàn diện: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũmà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mớimà hay, thì ta phải làm”(13).
Quan điểm của ngườivừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “cổ” coi thường cái “kim”, vừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “kim” coi thường cái “cổ”, vì thế có tính khoa học sâu sắc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng,song những điều hay trong đó thì ta nên học”.
Thứ ba, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với thái độ khoan dung trong xem xét, đánh giá, ứng xử với các hệ thống tư tưởng khác nhau.
Không tuyệt đối hoá, không “độc quyền tư tưởng”, thì mới có thể chấp nhận những cái khác khác biệt để trân trọng và tiếp biến. Hồ Chí Minh không chỉ thừa nhận chủ nghĩa Mác có ưu điểm, mà khẳng định học thuyết Khổng Tử, tôn giáo Giêsu, đạo Phật, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, v.v.. đều có ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm chung với ưu điểm của chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, không phải chỉ có chủ nghĩa Mác, mà các học thuyết, hệ thống tư tưởng - văn hoá nói trên cũng hướng đến mục tiêu “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Hồ Chí Minh là người ngay từ rất sớm, đã khẳng định tôn giáo chứa đựng những hạt nhân văn hoá - đạo đức có giá trị, v.v..
Có thể thấy rõ, quan điểm khoan dung, bản lĩnh văn hoá kết hợp với tinh thần khoa học của quan điểm duy vật biện chứng, của thái độ trân trọng các di sản quá khứ đã giúp Hồ Chí Minh có khả năng khai thác di sản tư tưởng Nho giáo một cách rất thành công r
________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2014
(1), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.461, 284, 509-510, 509.
(3), (11), (12) Sđd, t.2, tr.454-455, 563, 562, 563.
(4) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh với con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.51.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.170.
(6), (13) Sđd, t.5, tr.280, 112-113.
(7) Sđd, t.8, tr.113.
 
PGS, TS Lại Quốc Khánh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
(http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1062-ho-chi-minh-voi-van-de-khai-thac-di-san-tu-tuong-nho-giao.html)

Sunday 1 May 2016

Năm ấy Bác Hồ không đi thăm rừng Cúc Phương

Năm ấy Bác Hồ không đi thăm rừng Cúc Phương
(http://thptchonthanh.com.vn/BacHo/chuyen76.htm)

    Sinh thời, các chiến sĩ và cán bộ Cục Hàng không thường đưa Bác đi công tác trên chiếc máy bay của nhân dân Liên Xô tặng mang biển số Mi-4 VN 50D. Trong các chuyến đi gần và ít người, các chú phụ trách đã đề nghị Bác dùng trực thăng như trong các chuyến đưa Bác đến Lạng Sơn, Tân Trào, Quảng Ninh...

 

4-1.jpg

 
    Một lần Bác đi công tác Vĩnh Phú, theo chương trình thì chiều là Bác đi ô tô về Hà Nội. Nhưng lần ấy, tối mịt Bác mới xong việc. Anh em trong đoàn vừa lo đường sá, vừa sợ Bác mệt, nên xin điều một máy bay trực thăng để đưa Bác về. Trực thăng đỗ ở sân bóng đá Vĩnh Yên. Tỉnh ủy thưa với Bác và đề nghị Bác lên trực thăng về Hà Nội. Bác cảm ơn rồi nói:
- Bác có ô tô. Bác về Hà Nội bằng ô tô. Chú nào đã điều máy bay lên thẳng thì chú ấy ra ngồi máy bay mà về...
Đầu năm 1969, sau khi nghe Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp báo cáo tình hình rừng cây bị phá hoại, phần thì bom đạn, phần thì dân đốt phá, đẵn làm gỗ, làm củi và “cứ đà này, vài năm nữa ta sẽ hoàn thành kế hoạch... tiêu diệt rừng”. Nhân đó, Tổng cục trưởng mời Bác vào thăm rừng Cúc Phương. Tuy sức không còn khỏe, nhưng Bác vẫn vui vẻ nhận lời và nói:
- Phải đi thăm hang người Việt cổ...
Bác đề nghị bác Nguyễn Lương Bằng thu xếp cho chuyến đi. Anh em đề nghị Bác không đi ô tô nữa mà đi bằng “trực thăng”. Trước hết, Bác uốn nắn:
- Tại sao chú không gọi là “lên thẳng” mà cứ gọi là “trực thăng” ? “Trực thăng” thì hơn gì “lên thẳng”?
- Bác đi ô tô. Các chú cứ cho rằng hễ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước đi đâu, muốn “đi” gì cũng được à? Không phải thế đâu! Để Bác khỏe lên, Bác đi ô tô đến thăm Cúc Phương. Đi máy bay lên thẳng thì thôi, chờ dịp khác. Máy bay lên thẳng để dành khi nào có đồng bào bị tai nạn, bị đau nặng ở vùng rừng núi hẻo lánh khó chạy chữa thì đưa đồng bào nhanh chóng vào bệnh viện. Sau khi mưa bão, lũ lụt cần hộ đê, cứu dân thì dùng.
    Lần ấy chỉ vì không chịu đi máy bay lên thẳng mà Bác đã không đến được Cúc Phương. Mãi mãi anh chị em công nhân, cán bộ trông nom rừng Cúc Phương không đón được Bác để thực hiện một điều mong ước nhỏ.
Ngày nay, trong rừng Cúc Phương vẫn còn có cái thang của công nhân, cán bộ làm để Bác leo lên thăm hang người Việt cổ. Cái thang ấy không được in dấu chân Người. Ngày ngày, mỗi khi nhìn vào thang, mọi người càng thương nhớ Bác. Họ đặt tên cho cái thang ấy là “Cái thang thương nhớ”.

Phải bảo vệ từng cành cây
    Hôm ấy, tôi có nhiệm vụ mắc đường dây điện thoại qua vườn Phủ Chủ tịch. Tôi đang trèo lên một cây ở ngay cạnh đường thì nghe có tiếng chân người. Tôi nhìn về phía đó thì thấy Bác đi tới. Tôi loay hoay định tụt xuống thì Bác đã giơ tay ra hiệu dừng lại và nhẹ nhàng hỏi:
- Cẩn thận kẻo ngã. Chú trèo cây làm gì?
- Thưa Bác, cháu mắc dây điện thoại ạ!
Trong lúc ấy, tay tôi vít chặt làm gẫy một cành cây nhỏ. Tôi giật mình nhìn Bác, lo lắng. Bác không nói gì chỉ chú ý xem từng động tác của tôi ra dây, mắc dây vào cành cây. Sau đó, Bác chỉ vào một cành cây to ở cạnh ngay chỗ tôi, nói:
- Sao chú không mắc dây vào cành kia, vừa to vừa chắc chắn hơn. Các chú mắc dây cần phải chú ý bảo vệ từng cành cây nhỏ, nếu không làm gì có cây to, cành to mà mắc dây.
Nói xong, Bác đi vào nhà làm việc. Tôi nhìn theo Bác cho đến khi Bác vào hẳn trong nhà. Nhìn vào cành cây vừa gẫy, nhìn vào đường dây đang mắc, tôi càng thấm thía hơn lời dạy của Bác.
(Theo cuốn “Hồ Chí Minh- Một huyền thoại kỳ vĩ”, NXB Lao động)

Thursday 19 November 2015

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc (Xuân Ba - Tiền Phong_

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc

TP - Được phép của giáo sư (GS) Mai Quốc Liên, xin được cảo thơm lần giở tập tư liệu hồi ức của GS Nguyễn Văn Hoàn.
…Cuối năm 1959, Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học nhà nước bắt đầu tập trung cán bộ để chuẩn bị thành lập và đi vào hoạt động. Tôi đang làm cán bộ giảng dạy của Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội liền trở thành cộng tác viên của Nhóm Truyện Kiều thuộc một tổ nghiên cứu của viện có cái tên gọi tắt ngộ nghĩnh Cổ - Cận - Dân(Cổ đại, Cận đại, Dân gian).
Sau đó Viện Văn học có dự kiến sẽ đề nghị kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 nên từ đầu năm 1962 tôi được điều về làm cán bộ nghiên cứu của Tổ Cổ - Cận, mới tách ra từ tổ nói trên, do nhà văn Trần Thanh Mại làm tổ trưởng. Công việc đầu tiên của chúng tôi là dự thảo kế hoạch kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.
Ngày 2/2/1962, Viện Văn học mở Hội nghị, mời đại diện các ngành liên quan và các nhà văn, nhà nghiên cứu đến góp ý kiến cho bản dự thảo kế hoạch. Đến dự có khoảng 70 người, trong đó có các ông Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Ca Văn Thỉnh, Minh Tranh (Ủy ban Khoa học nhà nước), Nguyễn Xuân Trâm (Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam), các nhà nghiên cứu Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, nhà thơ Xuân Diệu, các GS Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Lương Ngọc, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn (Đại học Hà Nội) v.v...
Sau lời tuyên bố lý do của ông Hoài Thanh, Phó viện trưởng Viện Văn học, ông Nguyễn Khánh Toàn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước, đã khai mạc hội nghị.
Ông nói: “Việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du là một sự kiện lớn trong sinh hoạt văn học của nước ta đồng thời có ý nghĩa chính trị và tầm quan trọng quốc tế. Một kiệt tác là thành tích của một cá nhân, một thiên tài, nhưng đồng thời thể hiện bản lĩnh sáng tạo của một dân tộc. Kỷ niệm Nguyễn Du là một dịp khiến ta hiểu ta hơn, từ đó đề cao tinh thần tự hào dân tộc và từ thực tiễn quá khứ rút ra bài học để tiến lên. Kinh nghiệm Liên Xô: Kỷ niệm 100 năm Puskin đã tạo được một bước phát triển mới cho nghiên cứu văn học, sân khấu, điện ảnh... Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều có ý nghĩa quốc tế của nó. Khi thực dân Pháp mới chiếm nước ta, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đầu tiên được dịch và nghiên cứu, đến nay không riêng gì ở Pháp mà ở Liên Xô và nhiều nước khác trên thế giới đều có dịch và nghiên cứu Truyện KiềuMấy năm nay Hội đồng Hòa bình thế giới có sáng kiến kỷ niệm danh nhân văn hóa các nước nhưng ta chưa có danh nhân tiêu biểu nào chẵn năm, lần này chúng ta sẽ giới thiệu Nguyễn Du ra thế giới kỷ niệm. Từ nay đến 1965 chúng ta còn 3 năm chuẩn bị, 
Thời gian còn lại không nhiều. Viện Văn học sẽ là đơn vị chủ chốt nhưng cần có sự phối hợp với các cơ quan khác, cần có một kế hoạch, một tổ chức, cần lập ngay Ban trù bị kỷ niệm để theo dõi, phối hợp việc thực hiện, kể cả việc phối hợp với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài”.
Tiếp đó ông Trần Thanh Mại, thay mặt Viện Văn học trình bày kế hoạch dự kiến và hội nghị thảo luận rất hào hứng.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc - ảnh 1
Sau cuộc họp, Viện Văn học đã thành lập Ban trù bị kỷ niệm Nguyễn Du và làm tờ trình gửi lên Ban Bí thư, Ban Tuyên huấn Trung ương và đến tận từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, đồng thời gửi lên Ủy ban Khoa học nhà nước, Bộ Văn hóa, Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; mặt khác các báo đều đưa tin làm cho dư luận trong nước rất quan tâm.

Phản hồi đầu tiên đến từ tỉnh Hà Tĩnh, có thắc mắc là sao chưa kỷ niệm Trần Phú mà đã kỷ niệm Nguyễn Du. Ông Đặng Thai Mai đã viết thư cho lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, đề nghị cho biết rõ ý kiến đó, đồng thời đề nghị Hà Tĩnh chưa nên vội di táng mộ Nguyễn Du và xây dựng trường học trên phần đất đã dự kiến dành cho khu lưu niệm.
Xây trường học trên phần đất khu mộ của Nguyễn Du? Chuyện động trời? Về sau hóa ra chuyện thế này.  Dịp ấy,  một đồng chí lãnh đạo Hà Tĩnh ra Hà Nội họp, đã đến thăm ông Đặng Thai Mai và nói: “Có chuyện chi mô anh, đó chỉ là một cách để Hà Tĩnh “vòi” Trung ương thêm kinh phí kỷ niệm Trần Phú, còn mần cụ mô trước thì có can chi mô vì cũng là danh nhân Hà Tĩnh cả!”.
Vấn đề Hà Tĩnh thế là được giải đáp, sau đó Viện Văn học lại nhận được tiểu luận Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du về truyện Kim Vân Kiều của ông Tôn Quang Phiệt, 91 trang đánh máy. Tác giả bản tiểu luận đã so sánh, đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để đi đến kết luận: Nguyễn Du đã phỏng dịch chứ không phải đã sáng tác ra Truyện Kiều, rồi kết thúc bằng mấy câu tập Kiều:
Rằng hay thì thật là hay! 
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Rồi cụ Tôn Quang Phiệt thẳng thắn đề nghị không nên rầm rộ kỷ niệm Nguyễn Du bằng hai câu đậm hơi hướng Kiều thế này.
Dám xin gửi lại một lời: 
Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau!
Có ý kiến cho rằng: Tiểu luận này phản ánh ý kiến của một đồng chí trong Bộ Chính trị. Kèm theo tiểu luận còn có một bức thư gửi đồng chí Tố Hữu:
“ Tôi muốn phổ biến bài này trong khi Viện Văn học đang chuẩn bị việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. 
- Anh có đồng ý cho tôi đưa vấn đề này ra một cuộc nói chuyện và xuất bản công khai để tổ chức một cuộc thảo luận không?”.
Ở góc trái bức thư có lời ghi viết tay của thư ký đồng chí Tố Hữu:“Anh Lành ốm, không gặp được, đề nghị anh Mai (Đặng Thai Mai) gặp, trao đổi và do Viện định”.
Một vài cán bộ nghiên cứu trẻ trong Viện Văn học rất muốn đưa bài đó ra công khai để thảo luận nhưng ông Mai bảo:
“Trong tình hình hiện nay, để một câu chuyện văn chương làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết thì không đáng!”
Và yêu cầu cất bài đó vào ngăn tài liệu lưu trữ của viện.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc - ảnh 2Cuốn Kim vân kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (Trung Quốc).
Cũng xin nói thêm, cụ Tôn Quang Phiệt và cụ Đặng Thai Mai cùng quê Thanh Chương - Nghệ An, cùng học trường Quốc học Vinh và Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Gia đình ông Mai còn giữ một tấm ảnh cũ, chụp đội bóng đá trường Quốc học Vinh vào khoảng thập niên 1920, trong đó ông Phiệt là đội trưởng, mặc áo lương đen chít khăn đóng, đứng ở giữa, ông Mai mặc áo thủ môn ngồi bên cạnh. Với quan hệ thân thiết đó thật khó cho ông Mai đến gặp ông Phiệt để nói câu chuyện nghiêm túc trên đây.
Anh Hoài Thanh có sáng kiến cử tôi đi gặp ông Phiệt.
Tôi gọi điện thoại xin gặp bác Phiệt. Buổi sáng tôi đến số 10 phố Trần Hưng Đạo, bác hơi mệt, phải nằm trên giường tiếp chuyện tôi nhưng hai bác cháu vui vẻ trao đổi ý kiến về Truyện Kiều hầu như suốt cả buổi sáng, cuối cùng bác đồng ý là lúc này chưa nên công bố rộng rãi và tổ chức thảo luận về bài của bác. Lúc tôi ra về, bác lấy một gói sách đã gói sẵn để ở đầu giường đưa cho tôi và nói: “Mấy bản Kiều này bác không cần nữa nhưng với cháu thì chắc vẫn còn có ích”. Đó là một số bản Kiều quốc ngữ, in dưới thời Pháp thuộc. Đáng chú ý có một cuốn Kiều của Nguyễn Can Mộng, khổ nhỏ, mà theo ông Nguyễn Tường Phượng thì trước đây một số trí thức Hà Nội gọi một cách khinh thị là “bản Kiều cu ly xe” vì nó gọn, nhỏ, nên các cu ly xe kéo thường dùng để đọc trong lúc ngồi đợi khách!
Sau đó Viện Văn học được truyền đạt ý kiến của đồng chí Lê Duẩn:“Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.
Nhân dịp này tôi viết một bức thư kính gửi đồng chí Lê Duẩn trình bày ý kiến sau đây:
- Trong báo cáo Phong trào cách mạng dân tộc và Mặt trận dân tộc ở Nam Bộ từ cuộc Cách mạng tháng Tám đến ngày nay (1951), đồng chí có đề cập đến việc đánh giá Truyện Kiều và phê bình ý kiến của ông Hoài Thanh trong cuốn Quyền sống của con người trong Truyện Kiều (1949): “Lòng đau thương oán giận của cụ Nguyễn Du đâu có phải chỉ vì bọn phong kiến bất lực đê hèn. Chế độ phong kiến vẫn còn đẹp đẽ nguy nga với cụ. Cụ tức giận những bọn phong kiến bất lực mà cụ còn oán ghét một chế độ đương tiến lên, một chế độ thương mại... Vì bản chất giai cấp của cụ, cụ chỉ thấy mặt xấu của đồng tiền mà không thấy mặt tốt, mặt tiến bộ của nó. Đó là phần phản động củaTruyện Kiều”. Nhiều người nghiên cứu chưa hiểu rõ ý kiến này của đồng chí. Đề nghị nhân dịp kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí có bài phát biểu về Truyện Kiều.
Anh Đỗ Trình, thư ký riêng của đồng chí Lê Duẩn, đã trả lời tôi: “Bài đó anh Ba phát biểu đã lâu, nay anh cũng muốn phát biểu lại nhưng rất tiếc là không có thì giờ. Đề nghị Viện Văn học không in lại và công bố bài đó”.  
Ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: “Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.

****

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu

TP - Làm Thư ký thường trực Ban trù bị kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, Giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn có nhiệm vụ phải thu thập tài liệu và theo dõi tình hình nghiên cứu Nguyễn Du ở trong nước và ngoài nước. Chúng tôi tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn…
Sưu tầm tài liệu ở Pháp và miền Nam nước ta  rất khó khăn. May thay, giữa lúc đó Giáo sư J.Filliozat, Giám đốc trường Viễn Đông Bác cổ ở Paris, viết thư đến Viện Văn học đề nghị thiết lập quan hệ trao đổi sách báo thường xuyên giữa hai bên. Viện Văn học liền gửi đề nghị lên Ủy ban Khoa học nhà nước nhưng không được chấp thuận, thậm chí hồi đó có thời gian ta còn tạm đình chỉ cả việc dạy tiếng Pháp trong các trường học.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện thoại yêu cầu lên gặp một cơ quan cấp trên. Đồng chí phụ trách cơ quan đó truyền đạt cho tôi quyết định sau đây: “Do nhu cầu tài liệu cần cho việc kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí được phép lấy tư cách cá nhân trao đổi sách báo vềKiều với hai người quen biết ở Paris và Sài Gòn mà đồng chí thấy là thích hợp, nhưng không được tiết lộ việc này với ai, cũng không cần phải báo cáo với lãnh đạo Viện Văn học; khi nào có trục trặc thì lên đây báo cáo, cơ quan trên này sẽ tìm cách giải quyết”.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu - ảnh 1Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du khai mạc ngày 19/11 tại TPHCM. Ảnh: Hữu Huy.
Tôi vừa mừng vừa lo trước một sự cho phép như vậy và nghiêm chỉnh chấp hành.
Thế là từ năm 1963 tôi bắt đầu trao đổi sách báo với Tạ Trọng Hiệp, cộng tác viên của trường Viễn Đông Bác cổ Paris.
Trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn không đề cập gì về Tạ Trọng Hiệp. Nay xin bổ sung về người học trò kiêm cộng sự xuất sắc của GS Hoàng Xuân Hãn như sau:
Tạ Trọng Hiệp sinh ngày 18/10/1933 tại làng Thụy Khuê (làng Giấy), cạnh Hồ Tây, Hà Nội; từ trần hồi 21 giờ ngày 25/10/1996, vì bệnh ung thư, tại bệnh viện Kremlin Bicêtre, ngoại ô Paris. Hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 1970, Ðại học Paris VII muốn mở một ban Việt học. Tạ Trọng Hiệp sáng lập ra ban Việt học bắt đầu trường ở đường Censier rồi sau dọn sang đường Jussieu mà ông là GS Hán Nôm cho tới ngày mất. Ông là thành viên của Société Asiatique (Hội Á Châu).
Tủ sách của Tạ Trọng Hiệp cũng là một di sản văn hóa lớn lao cho giới nghiên cứu văn học. Tạ Trọng Hiệp làm việc âm thầm và những công trình của ông thể hiện phần lớn như những báo cáo cho Trung tâm nghiên cứu Khoa học Pháp. 
Ông là vai chính trong việc phát hiện bộ Ðại Việt Sử ký Toàn thư, bản Nội các Quan bản.
Ông đã tham gia đắc lực vào việc hình thành Thư mục Di sản Hán Nôm từ đời Lý - Trần đến ngày nay. 
Nhiều công trình nghiên cứu còn đang dang dở dưới dạng bản thảo chưa in, trong đó có chương trình Tuyển tập Văn bia Bi ký Việt Nam từ thời Lý Trần đến ngày nay. (Ðây là chương trình cộng tác giữa trường Viễn Ðông Bác cổ và Viện Hán Nôm Hà Nội- X.B)
Tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn: Thời gian này, tôi còn liên lạc qua một kênh khác với GS Nguyễn Văn Trung ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Kết quả trao đổi rất đáng hài lòng vì vị này cũng đang rất khát tài liệu xuất bản ở miền Bắc nước ta, còn các trục trặc thì không phải chờ đợi lâu mà xảy ra ngay:
Lần thứ nhất, tôi nhận được một giấy báo của bưu điện Hà Nội cho biết có một bưu phẩm gửi cho tôi đến từ Paris, nhưng tôi không được phép nhận vì toàn là ấn phẩm lạc hậu và phản động in ở Sài Gòn.
Tôi lên báo cáo với cơ quan trên và vài hôm sau thì nhận được gói sách đó. Nhân viên bưu điện ở đây dần dần quen mặt tôi nên việc gửi sách báo đi và nhận về theo luồng này trở nên thông suốt.
Lần thứ hai, một hôm đồng chí Phạm Huy Thông với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của ta tiếp một đoàn Hòa bình Mỹ, có một ông chuyển cho tôi một gói sách, đồng chí Phạm Huy Thông vốn là hiệu trưởng của tôi ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho thư ký chuyển gói sách đến cho tôi một cách tự nhiên, nhưng tôi thì cảm thấy cần viết ngay một bản tường trình, với các lý lẽ có thể nói được, gửi lên đồng chí Phạm Huy Thông, lúc đó là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, mới tách ra từ Ủy ban Khoa học nhà nước. Ít lâu sau gặp tôi, đồng chí nói: “Lúc đầu nhận được bản báo cáo của anh, tôi nghĩ là không cần thiết nhưng sau lại thấy anh làm thế là rất chủ động”.
Việc thứ ba còn rắc rối và tế nhị hơn, có một hộp các-tông nhỏ từ trường Viễn Đông Bác cổ Paris được gửi đến Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, rồi qua Bộ Ngoại giao ta cuối cùng đến Văn phòng Ủy ban Khoa học xã hội. Đồng chí Vụ trưởng Vụ Liên lạc đối ngoại Ủy ban Khoa học xã hội trao cho tôi một cái hộp nhỏ đó, trong đựng một bản vi phim (microfilm) bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Đến đây cũng mở thêm một cái ngoặc là trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn, có thể do khuôn khổ bài viết chưa có sự chú giải về nguồn tài liệu quý hiếm thời điểm ấy. Đó là bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Như nhiều người đã biết, bản Kiều quốc ngữ xưa nhất là bản Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm in vào năm 1875, bản Truyện Thúy Kiều do Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ hiệu khảo, bản Kim Vân Kiều do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải (1925), Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, bản Truyện Kiều Chú Giải do Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính và bình luận, bản Kim Túy Tình Từ do Phạm Kim Chi san định in năm 1917...
Bản cổ nhất được xác định là bản Liễu Văn đường in năm 1866.
Về thời gian Nguyễn Du viết Truyện Kiều, chưa có sách nào minh định rõ ràng? Nhiều tài liệu khẳng định chắc khừ, Nguyễn Du viết Kiều  sau khi đi sứ Trung Hoa ở Yên Kinh về (tức là trong khoảng thời gian từ 1814 đến trước khi ông mất -1820). Có thể vin vào lý do là khi đi sứ Trung Hoa, Nguyễn Du mới đọc được truyện Vương Thúy Kiều trong tập Ngu Sơ Tân Chí của Đạm Tân Dư Hoài, và nhất là Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chăng? Cuốn ấy như nhiều người đã rõ, đây là quyển sách được viết theo thể văn xuôi mà từ nội dung, nhân vật của sách này Nguyễn Du đã viết thành Truyện Kiều. Người ta cho là thời của Nguyễn Du không dễ dàng gì một tác phẩmkhông mấy nổi tiếng như hai quyển trên (hai quyển Vương Thúy Kiều của Đạm Tân Dư Hoài, và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân) là những tác phẩm vốn chưa bao giờ được coi là nổi danh, là hot  văn học Trung Hoa cỡ như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tam Quốc Chí... Vậy nên khó lòng hai quyển này lại sang được xứ Nam mình thời bấy giờ?
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu - ảnh 2Kim Vân Kiều thích chú - Bản Kiều cổ được trưng bày tại triển lãm.
Xin trở lại bản Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh thị tân thuyênxuất bản năm Nhâm Thân (1872) đã được in tại Phật Trấn- Việt Đông bên Trung Quốc. Kể về năm in thì bản ấy ra đời sau bản Liễu Văn Đường tân san năm Bính Dần (1866) tới sáu năm.
Bản này đã được tái bản ba lần: Bảo Hoa các (1879), Văn Nguyên đường (1879) và Thiên Bảo lâu (1891). Các lần tái bản sau đều khắc đúng như bản in lần thứ nhất.
Năm 1884, Abel Des Michels, người đầu tiên dùng bản Duy Minh thịđể dịch Truyện Kiều sang Pháp ngữ, đã có nhận xét rằng, bản ấy có quá nhiều lỗi vì đã được giao cho những người thợ Trung Quốc không biết tiếng Nam (chữ Nôm) khắc ván in. Bản ấy chỉ được phổ biến ở miền Nam và Trương Vĩnh Ký cũng đã có tham khảo khi phiên âm Truyện Kiều lần đầu tiên sang quốc ngữ. Nhưng bản Duy Minh thịđã không được các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Bắc dùng làm tài liệu tham khảo. Mãi tới năm 1971, bản Duy Minh thị mới được ông Vũ Văn Kính dùng làm tài liệu để biên soạn quyển Đoạn trường tân thanh khảo lục nhưng ông cũng không chép theo bản này mà phần lớn đều theo bản Kiều Oánh Mậu (1902) và bản Quan Văn đường (1925).
Người đầu tiên đi sâu vào văn bản này là cụ Hoàng Xuân Hãn. Cụ cho biết: “Bản này in sai rất nhiều, cho nên không mấy ai để ý tới. Nhiều khi người ta cho là bản một người dốt chép lại, không ai để ý. Nhưng sự thực bản ấy là bản quý nhất. Về mặt niên đại, về chữ húy, chỉ có húy đời Gia Long không có húy đời Minh Mạng, thì biết rằng bản viết người ta theo đó để mà sao lại, chắc chắn đầu đời Gia Long. Bản ấy có nhiều sai lầm nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn” (X.B chú dẫn theo nguồn Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967).
Nhiều tư liệu quý tại triển lãm về Nguyễn Du
Kỷ niệm 250 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du, Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du đã được Sở VH-TT-DL TPHCM khai mạc tại TPHCM ngày 19/11. Triển lãm đã trưng bày nhiều tư liệu quý về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du cũng như các tác phẩm Truyện Kiều của nhiều thời kỳ. Trong đó đáng chú ý là 249 đầu sách viết về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Du bằng nhiều ngôn ngữ của các học giả nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Đào Duy Anh, Trương Tửu… thực hiện. Triển lãm kéo dài cho đến hết ngày 25/11.
Trọng Thịnh



***


Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Kỳ VI:

Bác Hồ với Truyện Kiều

TP - Tiếp mạch hồi ức của giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn: …Đối với tôi và một vài đồng nghiệp khác thì nhờ có nguồn trao đổi này (đã nói ở kỳ V) mà có tài liệu rất kịp thời đến từ Huế và Sài Gòn, còn trục trặc thì chưa dừng ở đây.
Sau khi Sài Gòn được giải phóng, năm 1978, tôi được cử đi học ở Ý, chờ đợi mãi, đã quá hạn học bổng mà vẫn chưa nhận được giấy phép của Bộ Công an cho phép xuất cảnh. Anh Đinh Lư, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, kiêm Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học xã hội, vốn là cán bộ hoạt động địch hậu, đã để lại một cái chân ở chiến trường Quảng Ngãi, cũng sốt ruột, đã phải thân hành lên Bộ Công an hỏi lý do và nhận được một câu trả lời xanh rờn: Đồng chí này có liên hệ bất minh với phía bên kia”. Anh về gặp lại tôi với vẻ mặt lo lắng. Tôi kể sơ qua cho anh nghe về việc tôi được phép năm 1963 thì anh thốt lên: “Chế độ đơn tuyến!”. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe thấy thuật ngữ này. Hôm sau tôi nộp cho anh một số tài liệu cần thiết. Anh lại lên Bộ Công an và lúc về vui vẻ bảo tôi: “Bên công an họ khen anh lưu trữ tài liệu tốt”. Tôi nghĩ thầm trong bụng: Đó là do tôi học được từ “Đơ bê” ( Phòng Nhì- 2B) vì hay đọc tư liệu lưu trữ của mật thám thực dân Pháp.
Rồi đến một hôm đầu năm 1964, đồng chí Tố Hữu gọi điện thoại cho ông Đặng Thai Mai: “Xin báo anh biết, Bộ Chính trị đã thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du, thông qua một cách chóng vánh. Điều ngạc nhiên là Ông Cụ (Bác Hồ) đã phát biểu trước tiên. Ông có dặn: Đối với nhân vật Từ Hải thì đề cao vừa vừa thôi! Nhân vật này hèn! Anh Trường Chinh có nói đỡ: Từ Hải phạm tội đầu hàng nhưng đã phải trả giá chết đứng ở trận tiền! Ông Cụ lại bồi thêm: Không chết đứng ở trận tiền thì rồi cũng chết quỳ ở triều đường thôi”.
Tôi bỗng nhớ lại nhiều câu chuyện chứng tỏ sự yêu quý của Bác Hồ đối với Truyện Kiều. Anh Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, có lần kể với tôi, lần nào đi công tác nước ngoài Bác cũng nhắc anh Vũ Kỳ đem theo cho Bác một quyển Kiều, nhưng lịch làm việc ở nước ngoài thường rất căng, anh không bao giờ thấy Bác có thì giờ đọc Truyện Kiều vào ban ngày, có thể Bác chỉ tranh thủ đọc trước khi đi ngủ. Nhưng những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.
Bác Hồ với Truyện Kiều - ảnh 1
Tác phẩm truyện Kiều dịch sang tiếng Pháp. Ảnh: Hữu Huy
Ngày 14/4/1964, Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức hội nghị truyền đạt chỉ thị của Bộ Chính trị đến thủ trưởng các cơ quan văn hóa văn nghệ ở Trung ương. Dự có các đồng chí Hà Xuân Trường (Vụ Văn nghệ), Huy Cận (Bộ Văn hóa), Đặng Thai Mai và Hoài Thanh (Viện Văn học), Nguyễn Đình Thi (Hội Văn nghệ)...
Đồng chí Tố Hữu nói: “Bộ Chính trị đã chính thức thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du năm 1965. Thực hiện chủ trương đó chúng ta cần chú ý các việc sau:
1. Thứ nhất phải đánh giá Nguyễn Du cho thật đúng mức. Nghĩa là không quá cao mà cũng đừng quá thấp. Từ trước đến nay đánh giá Nguyễn Du thường có hai khuynh hướng đó nhưng nói chung thì đề cao nhiều hơn, nhất là về phương diện nghệ thuật. Nói nghệ thuật của Nguyễn Du cũng nên phải lời, phải lẽ, nói cho có căn cứ. Cái gì của Nguyễn Du, cái gì không phải của Nguyễn Du. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là ở đâu.
Về phương diện nội dung, không thể đòi hỏi Nguyễn Du như chúng ta ngày nay nhưng không phải mọi cái hay của Nguyễn Du đã được nói đầy đủ và sâu sắc.
Nên đọc lại và suy nghĩ về những cái xưa nay người ta đã viết về Nguyễn Du. Nên tranh thủ nghe ý kiến của các đồng chí lãnh đạo hiện nay, ít nhất nghe cho được ý kiến của bốn anh: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Nên tổ chức phỏng vấn. Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều rất đáng mở ra một cuộc thảo luận.
2. Giới thiệu Nguyễn Du ra nước ngoài thế nào cho người nước ngoài thấy được giá trị của Nguyễn Du. Chú ý đừng để gây ra ngộ nhận, nhất là trong tình hình hiện nay. Các tác giả lớn xưa nay hay mắc nạn! Các thế lực xấu luôn khai thác để kiếm lợi.
Cũng nên quan tâm đến sự cân đối. Cân đối giữa danh nhân văn hóa và danh nhân chính trị. Cân đối trong một địa phương. Từ Nguyễn Du có ý kiến đã nêu Trần Phú, nhưng còn Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu nữa”.
Sau khi có chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc kỷ niệm Nguyễn Du, mọi công việc liên quan đều được xúc tiến khẩn trương, trong đó đặc biệt nhất là việc chuẩn bị các tài liệu bằng ngoại văn, nhất là một bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Từ năm 1962 ông Phan Nhuận, kiều bào ở Paris, đã nhận dịch vì ông đã dịch rất thành công Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch. Nhưng Phan Nhuận mới dịch được 128 câu thì đột ngột từ trần, ông Đặng Thai Mai lại đề nghị ông Nguyễn Khắc Viện dịch tiếp nhưng phải cho kịp trước ngày kỷ niệm. Ông Nguyễn Khắc Viện nhận lời nhưng cũng nêu điều kiện phải cho phép anh dịch Kiều theo quan niệm riêng của anh. Ông Mai vui vẻ nhận lời. Trong quá trình hoàn thành bản dịch, ông Nguyễn Khắc Viện đã đăng bài Le Kiều: Trésor littéraire des Vietnamiens trên tạp chíLa Pensée của Pháp số 119, tháng 2/1965, kèm theo hai đoạn dịchKiều của anh. Căn cứ vào hai đoạn trích này ông Đào Duy Anh đã gửi thư đến các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng Thai Mai và Hoài Thanh nói rằng: “Tôi thấy hai đoạn ấy dịch đã không sát mà còn nhiều điểm sai và tôi trộm nghĩ rằng những đoạn văn dễ ấy mà còn dịch không đạt như thế thì không rõ những đoạn văn khác tinh tế và khó hơn sẽ dịch ra sao?”.
Tiếp theo còn có thư phê bình của ông Trần Quốc Nghệ và Trần Đình Đàn gửi từ Hà Tĩnh ra. Ông Đặng Thai Mai đã bảo Văn phòng Viện Văn học gửi các bản góp ý kiến ấy cho anh Nguyễn Khắc Viện tham khảo. Anh Viện đã trả lời: “Tôi nhận thấy, đây không phải là ông Anh và tôi đã hiểu khác nhau những câu, những chữ trích ra, nhưng thực tế là do hai bên đã áp dụng một quan niệm, một phương châm dịch khác nhau”.
Bác Hồ với Truyện Kiều - ảnh 2
Minh họa Kiều của Nguyễn Tư Nghiêm.
Lại còn vấn đề tranh minh họa cho bản Kiều dịch sang Pháp văn. Nhà xuất bản Ngoại Văn đã tổ chức một cuộc họp để góp ý cho họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Họp vào một buổi tối tại cơ quan Ủy ban Liên lạc với nước ngoài ở phố Tôn Đản. Đồng chí Trường Chinh cũng tới dự. Một cán bộ đã nói với đồng chí: “Tình hình khẩn trương thế này mà anh cũng đến họp được à?”. Đồng chí Trường Chinh làm bộ ưỡn ngực, khuỳnh vai rồi trả lời: “Chúng ta đánh Mỹ với tư thế người chiến thắng”. Mọi người đều cười vui vẻ.
Đồng chí Trường Chinh còn tổ chức một cuộc tọa đàm tại nhà riêng về Truyện Kiều với một số nhà nghiên cứu và nhà văn. Tại Hội nghị thảo luận về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học trong hai ngày 17 và 18/8/1965, đồng chí cũng đến dự và phát biểu: “Đồng chí Đặng Thai Mai có đặt vấn đề tôi sẽ phát biểu về Truyện Kiều trong một buổi nào đấy. Đó là một trách nhiệm rất nặng đối với tôi, vì tôi không có nhiều thì giờ để nghiên cứu. Nhưng tôi rất thích và chú ý đến kiệt tác này. Rồi đây nếu có ý kiến gì xét ra bổ ích cho các đồng chí thì tôi sẽ xin phát biểu, còn nếu không thì phát biểu làm gì, tốt hơn là như cụ Lê Thước nói hôm qua “dựa cột mà nghe” thì hơn. Tôi đến đây chủ yếu là học tập các đồng chí, nghe các đồng chí phát biểu tôi thấy sáng tỏ thêm nhiều vấn đề. Xin cám ơn các đồng chí”.
Sau đó đồng chí đã có cuộc nói chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học (20/10/1965).
Trong hoàn cảnh đất nước ta còn bị chia cắt và có chiến tranh phá hoại của Mỹ, chúng ta vẫn tổ chức thành công sự kiện kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 và đã gây được ảnh hưởng tốt trong dư luận trong nước và quốc tế. Đồng chí Charles Fourniau, phóng viên thường trú của báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp, từ Hà Nội đã gửi bài Một nhà thơ và chiến tranh về Paris đăng trên báo Phê Bình Mới số 175, tháng 4/1966 mạnh mẽ khẳng định bản lĩnh và ý chí của nhân dân Việt Nam: “Trong lúc những máy bay siêu âm, một trong những thành tựu phức tạp nhất của kỹ thuật hiện đại còn tung bom xuống Tiên Điền, làng quê của Nguyễn Du, ở giờ phút mà nhân dân Việt Nam nổi tiếng, bất chấp tất cả, vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ dân tộc của mìnhToàn thế giới thấy rõ chính nghĩa ở về bên nào, tự do và hòa bình ở về bên nào”.
 _____________________
  (Còn nữa)
Những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.