Showing posts with label thuật ngữ triết học. Show all posts
Showing posts with label thuật ngữ triết học. Show all posts

Thursday 8 December 2022

Có quá đáng không?

Một độc giả Kiến Thức Ngày Nay số 129 (15-01-1994) than phiền với Huệ Thiên:

Chẳng lẽ tiếng Việt không có từ nào để thay thế cho từ “lô-gích”? Ta có 4000 năm văn hiến mà vẫn bị “hổng” khi đụng lô-gích nên đành “bỏ trống” hay sao? Vậy tiếng của ta để làm gì?

 

Huệ Thiên biểu đồng tình:

Ông cho biết mình ở Sài Gòn 40 năm nhưng trước năm 1975 chưa từng nghe người Việt Nam nào nói tiếng Việt mà lại xen vào hai tiếng lô-gích. Có lẽ ông đã nói không quá đáng. (An Chi (2006-1:172))

 

Thật ra lô-dích đã xuất hiện trên sách báo những năm ba mươi của thế kỷ trước.

* Đây là chưa bàn đến ý-nghĩa của lời thơ còn chỗ vụng, mà hẵng nói về thể-tài của thơ, thì cách lập-luận như thế không phải là phép tam-đoạn-luận trong lô-dích (logique) là gì. Nam Phong Tạp Chí số 196 (1934:341, Hải-hạc)

* Ông không có « lô-dích » tí nào cả. Phong Hóa Tuần Báo số 79 (1933:9)

* Hiểu lô-dích chưa ? Phong Hóa Tuần Báo số 79 (1933:9)

* 2. Dịch câu ấy không đủ lô-dích và đã « sa lạc vào chỗ sai lầm » (« tùng bê » dans l’erreur). Phong Hóa Tuần Báo số 108 (1934:2, Tứ-Ly)


Sau Hiệp Định Giơ-ne-vơ, sách vở miền Bắc lưu hành đồng thời nhiều dạng: lô dích,[i] gic,[ii] lô gíc,[iii] lô gich,[iv] lô gích.[v] Các dạng này cũng xuất hiện trong sách vở in ấn ở miền Nam trước 1975.
* Họ không hiểu rằng chế-độ thực-dân trong bản-chất của nó, là bạo-động và bất-nhân, và những người đi thực-dân phải bạo-động bất-nhân theo một « lô-gíc » nội-tại của dự-phóng thực-dân. Nguyễn Văn Trung (1963:30)

* Mà ông lại muốn đem cái lô-gích khả kính của phương Tây ra để truất cái thú duy nhất, cái quyền duy nhất đó của họ ư ? Nguyễn Hiến Lê (1974:73)
 

Từ điển của Châu Văn Cán (1963:558) lô-dích.

 

Lên báo kêu rằng chưa từng nghe hay chưa từng thấy thì cũng hơi quá đáng. Có gì để mà kêu ca?

 



[i] * Việc nghiên cứu những vấn đề căn bản về biện chứng pháp , về lô-dích biện chứng (logique dialectique), về nhận thức luận và một số vấn đề giáo dục cộng sản của nhân dân lao động, chưa làm cho mọi người thỏa mãn. Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 19 (1956:70, Nguyễn Lương Bích)

* Chẳng qua là vì chúng ta thiếu cái "lô-dích" về đạo đức trong sự chiến thắng. Hồ Linh (1998:271)

CVC (1963:558), NQT (1992:235), LNT (1993:611)

[ii] * Cách đây hơn 2.000 năm, nhà toán học Hy-lạp Ơclít đã có gắng đặt một cơ sở lôgic chặt chẽ cho hình học đó, bằng cách xây dựng nên một hệ tiên đề rồi dùng suy diễn lôgic chứng minh các định lý. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:19, Nguyễn-Cảnh-Toàn)

* Mưu mô ấy bắt đầu ngay từ « nghệ thuật Lun-li » của thời đại trung cổ ; sau đó những khối óc như Lép-nít và La-pơ-lát-xơ đã tìm cách sáng tạo một toán thuật tuyệt đối trong toán học và lôgic học mà ông nói là có thể dùng để giải bất cứ bài toán nào ; trong mấy chục năm gần đây, những người nghiên cứu nhận thức luận ngữ nghĩa như Các-náp, Mô-rít, Cô-rơ-gíp-ski, cũng như các nhà lôgic học Ba-lan Tarski và Lu-ca-xe-vit tìm cách đặt ra « những bảng khoa học », phổ dụng và các thứ hệ thống « Siêu lôgic học », « Siêu ngôn ngữ học » và « Siêu ngữ pháp học ». Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:58)

* Ở Mác-bua ông đã thu hoạch những kiến thức vững vàng về toán, triết học, lôgic, vật lý, hóa học ; trong các môn khoa học tự nhiên ông nắm chắc khoáng học, thực vật và động vật học ; trong các ngành ứng dụng ông đã có kinh nghiệm thực tiễn về cơ khí, luyện kim ; ông lại biết khá nhiều về các nghề thủy tinh, đồ gốm, đồ sứ, làm muối, hàng hải, thiên văn và địa lý. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 10 (1961:1, Tạ Quang Bửu)

PVB (1986:146)

* “Lô gic” nó thế! Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* Thế mấy thằng ăn cắp cốp xe lúc nãy? Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* “Lô gic” của nó thế, anh ạ. Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* Nói một các “lô gic” – bọn em sống khổ lắm. Huỳnh Dũng Nhân (2012:113)

* “Lô gic” ở chỗ ấy đấy! Huỳnh Dũng Nhân (2012:113)

* “Lô gic” nó thế! Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

[iii] * Ở đây, chúng ta hãy nói vắn tắt về cái gọi là « tiêu chuẩn lô gíc của chân lý ». Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:58)

* Hình ảnh đó thật là hoàn chỉnh, khi ấy, tôi nghĩ người Việt Nam thật là đẹp, dũng cảm và không lô gíc. Nguyễn Bá Cộng (1979:599)

* Ông nghiên cứu lô gíc toán tại trường ĐHTH Cambridge Tạp Chí Thông Tin Toán Học tập 3 số 2 (1999:10, Ngô Việt Trung)

* Công việc tìm diệt tổ mối đáng căm hờn này, công việc bảo vệ đê, chống loài thuỷ tặc yêu quái này cung cấp cho con những dữ kiện để con xây dựng lô-gíc tư tưởng, lô-gic sống cho con: với cái xấu xa, đê hèn, cái cao cả phải biết mở đường, vượt qua, không có lý gì mà lại trở thành kẻ hèn hạ, trái lại phải hiên ngang, hiên ngang như những con đê. Ma Văn Kháng (2003III:130)

* Nó dựa vào nghĩa của từ điển, nhưng nhiều khi nó không giữ lại nguyên nghĩa ban đầu; thậm chí nhiều sắc thái nghĩa mới của nó không còn mang khái niệm lô-gíc để ta có thể định nghĩa nó một cách dễ dàng. Ngôn Ngữ & Đời Sống số 72 (2001:5, Nguyễn Lai)

[iv] * Xuất phát từ lý luận và khái niệm hiện có, qua suy diễn lô-gich hay suy dẫn toán học, qua sự tiếp xúc của các lý luận và khái niệm, người ta có thể thu được lý luận mới, dự kiến được sự thực mới. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 7 (1960:50, Nguyễn Đăng Khê)

* Khi cái siêu hình đã hàm chứa cái lô-gich thì lại không còn là siêu hình nữa. Chu Lai (2009:251)

[v] * Và thành lập nhóm học tập về « lô-gích-toán », nhóm này đã bắt đầu hoạt động với sự tham gia của 10 cán bộ trường bạn. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 5 (1960:36)

* Bởi vậy, từ địa vị giám đốc trường Cao đẳng quốc phòng ngụy, Vĩnh Lộc quay sang chân giữ vườn cho trường Cao đẳng Cơ đốc Mỹ, là đúng con đường « việt gian hóa... kiếp » rồi, là lô gích. Nguyễn Khắc & Lê Kim (1976:162)

* Nhưng bắt đền người nhà thì kém “lô gích” lắm. Nguyễn Công Hoan (2005k107)

* Và con quyết sống theo lôgích của con! Ma Văn Kháng (2003III:490)

* Vậy phải thay lô-gích bằng “từ Việt” nào thì chúng tôi thấy rất khó. An Chi (2006-1:173)

* Một thực tế dữ dội dẫn đến một ý thơ quyết liệt là điều phù hợp với lô-gích của nghệ thuật: Huỳnh Như Phương (2008:35)

* Cái lô gích sách lược này làm đầu tôi dịu đi được một ít. Trần Đĩnh (2014-1:259)

KMA (1977b:528), NQT (1992:235), LNT (1993:611), LPT (2001:689), HHT (2002:325), NKT (2005:968), HP (2006:580), TTA (2009:74)

Friday 11 October 2019

Bàn thêm về một số thuật ngữ triết học, chính trị-xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (Nguyễn Tấn Hùng - Tạp Chí Triết Học)


Bàn thêm về một số thuật ngữ triết học, chính trị-xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, Đại học Đà Nẵng
Tạp chí Triết học số 01 tháng 01 -2010
03:35′ CH – Chủ nhật, 28/03/2010
Bài viết của tôi “Về một số thuật ngữ triết học, chính trị-xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài” đăng trên Tạp chí Triết học, số 4, 4-2009 đã được một số trang web đăng lại. Bài viết đã nhận được nhiều ý kiến nhận xét của độc giả, khen nhiều nhưng chê thì cũng có. Nhìn chung các độc giả hoan nghênh và khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Trong bài viết này tôi đi sâu hơn về các thuật ngữ chỉ tên và hình thức nhà nước; cách đặt tên của các học thuyết, trường phái, qua đó làm rõ nguồn gốc của chúng, chỉ ra một số bất cập trong việc phiên dịch các thuật ngữ này trong tiếng Việt. Tuy biết rằng không thể thay đổi những thuật ngữ đã quá quen thuộc trong tiếng Việt, nhưng việc tìm hiểu nguồn gốc, thực chất của chúng sẽ giúp chúng ta tránh được cách hiểu đơn giản, sai lệch.như từ trước đến nay.
  1. Về các thuật ngữ chỉ tên và các hình thức nhà nước
Chúng tôi nhận thấy một số tên nhà nước trên thế giới được dịch ra tiếng Việt thiếu chính xác, hoặc đã thay đổi rồi nhưng chúng ta vẫn cứ gọi theo tên cũ.
Nước “Mỹ” là cách gọi không khớp với tên của nhà nước đó hiện nay là United States of America (USA). Đây là một nhà nước liên bang gồm 50 tiểu bang hợp nhất lại. Từ “states” có nghĩa là tiểu bang; “united” có nghĩa là thống nhất, hợp nhất lại. Trong tiếng Việt, nước Mỹ còn có tên gọi là “Hoa Kỳ” (cờ hoa), nhưng thực ra, lá cờ nước Mỹ gồm “sao và vạch” (stars and stripes) chứ không phải là “hoa”. Trên lá cờ Mỹ có 13 vạch đỏ và trắng đại diện cho 13 xứ thuộc địa của Anh đã nổi dậy giành độc lập trong cuộc cách mạng 1776 và 50 ngôi sao năm cánh đại diện cho 50 tiểu bang hiện nay ở Mỹ.
Nhiều nhà nước trên thế giới được tổ chức theo hình thức liên bang; tên nhà nước có thể có từ “liên bang”, như Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà Liên Bang Nigiêria… Nhưng cũng có những nhà nước liên bang không dùng từ federation hoặc federal mà dùng từ “united” (hợp nhất, thống nhất lại, cũng có nghĩa là là liên bang, liên minh), như trường hợp United Sates, United Kingdom, United Arab Emirates. “Unnited Kingdom” (UK), tên đầy đủ là “Unnited Kingdom of Great Britain and Northern Irland”, tiếng Việt gọi là “Vương quốc Anh”. Thật ra, nó không chỉ có nước Anh mà còn có ba nước khác nữa: là Bắc Ailen, Xcôtlen (Scotland) và Wales. “Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất” (United Arab Emirates) là một liên bang gồm 7 tiểu vương quốc (emirate) hợp nhất lại.
Nước “Dân chủ Hy Lạp” (tiếng Hy Lạp phiên âm latin: Elleniki Demokratia) là tên gọi chính thức của nhà nước này, nhưng trong nhiều thứ tiếng khác trên thế giới nó có tên gọi là “Cộng hòa Hy Lạp” (tiếng Anh: Hellenic Republic). Dân chủ và cộng hòa có gì khác nhau? Đây là những hình thức nhà nước trong lịch sử. Thuật ngữ “dân chủ” (tiếng Anh: democracy, tiếng Hy Lạp phiên âm latin: demokratia) bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp: demos (nhân dân) và kratos (sự cai trị, sức mạnh), gộp lại có nghĩa là sự cai trị của nhân dân. Thuật ngữ “cộng hòa” (tiếng anh: republic) có nguồn gốc từ hai từ Hy Lạp “res” (công việc) và “publika” (chung). Thuật ngữ này hàm ý: nhà nước cộng hoà là “công việc chung”, khác với chế độ quân chủ (tiếng Anh: monarchy có nguồn gốc tiếng Hy Lạp: monos (một) và arkhos (người cai trị). Cộng hoà và dân chủ trong thời cổ đại Hy Lạp là hai hình thức nhà nước khác nhau. Platôn phản đối nhà nước dân chủ Aten và chủ trương xây dựng một nhà nước cộng hoà lý tưởng. Nhà nước cộng hoà của Platôn là “công việc chung” của đẳng cấp nhà triết học, chứ không phải là công việc chung của nhân dân, vì theo Platôn, số đông nhân dân thì không có tri thức để cai trị nhà nước. Ngày nay, cộng hoà cũng có nghĩa là dân chủ, vì nhà nước cộng hoà là công việc chung của nhân dân. Cộng hoà là hình thức nhà nước phổ biến hiện nay trên thế giới, mặc dù có nhiều nước vẫn gọi nhà nước của họ là “vương quốc”, hoặc chẳng dùng từ cộng hòa để gọi tên nhà nước của họ.
  1. Về cách đặt tên cho một học thuyết, một trường phái
Để đặt tên cho một học thuyết, một trường phái triết học, chính trị-xã hội, người ta thường có mấy cách.
Cách đơn giản nhất là lấy tên người sáng lập, có khi để nguyên tên cộng thêm đuôi “ism” (dịch ra tiếng Việt là chủ nghĩa, đạo, giáo), như chủ nghĩa Marx (Marxism), chủ nghĩa Lênin (Leninism), chủ nghĩa Mao (Maoism), chủ nghĩa Thomas (Thomism), Phật giáo (Buddhism, xuất phát từ Buddha), v.v., hoặc biến danh từ riêng thành tính từ rồi mới cộng thêm “ism” vào. Thí dụ, Khổng giáo (Confucius (Khổng Tử) -> Confucian -> Confucianism), chủ nghĩa Cantơ (Kant -> Kantian ->Kantianism), chủ nghĩa Hêghen (Hegel -> Hegelian -> Hegelianism), v.v..
Cách phổ biến thứ hai trong việc đặt tên cho một học thuyết và cũng là cách gây ra lắm sự rắc rối cho người nghiên cứu là lấy khái niệm trung tâm trong học thuyết đó để đặt tên cho nó. Thí dụ, Đạo gia là một trường phái triết học ở Trung Quốc cổ đại do Lão Tử sáng lập; khái niệm trung tâm của học thuyết này là “Đạo”. Khái niệm này thật khó phiên dịch, nên ngay cả phương Tây cũng phải gọi nó là Daoism hoặc Taoism.
Trong triết học, chính trị học, xã hội học hiện đại, khi đặt tên cho học thuyết của mình, tác giả của nó tìm một thuật ngữ phản ánh được bản chất của học thuyết đó. Do đó chúng tôi nhấn mạnh rằng việc tìm hiểu và giải thích đúng tên của một học thuyết hay trường phái có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu cũng như giảng dạy học thuyết đó.
Vì không hiểu khía cạnh này nên nhiều người nghiên cứu và giảng dạy thường ít quan tâm đến tên của học thuyết đó, hoặc chỉ thỏa mãn với cái tên đã được dịch ra tiếng Việt mà không cần quan tâm tìm hiểu nguồn gốc của thuật ngữ.
Thuật ngữ “Pragmatism” là do tác giả của nó Charles Sander Peirce đặt ra. Ông dùng thuật ngữ này có một hàm ý sâu xa của nó. Ta hãy nghe lời phân tích của William James, một trong ba nhà sáng lập chủ nghĩa thực dụng, người đã biến chủ nghĩa thực dụng thành học thuyết lý luận. Trong bài giảng của mình: “What Pragmatism Means” (Chủ nghĩa thực dụng có nghĩa là gì?), James viết:
“Một cái nhìn sơ qua về lịch sử của tư tưởng này sẽ giúp bạn hiẻu tốt hơn thế nào là chủ nghĩa thực dụng. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “pragma”, có nghĩa là hành động, nó là nguồn gốc của các từ “thực tiễn”, “thực tế” của chúng ta. Thuật ngữ này lần đầu tiên được đưa vào triết học bởi ông Charles Peirce năm 1878”. (1)
Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu triết học ra đời nhằm chống lại các hệ thống triết học duy tâm, kinh viện, giáo điều trước đây. Nó nhấn mạnh vai trò của hành động, của thực tiễn, của kinh nghiệm, của hiệu quả thực tế chứ không phải là của lý luận suông, của những cái trừu tượng, không tưởng, xa rời thực tế. William James nói:
“Nhà thực dụng đại diện cho một thái độ hoàn toàn quen thuộc trong triết học, thái độ kinh nghiệm chủ nghĩa, nhưng hình như đối với tôi, nó đại diện cho thái độ này dưới hình thức vừa triệt để hơn, vừa ít bị phản đối hơn. Nhà thực dụng kiên quyết và vĩnh viễn quay lưng lại với một loạt những thói quen thâm căn cố đế của các nhà triết học chuyên nghiệp. Anh ta xa lánh với sự trừu tượng và sự thiếu bằng chứng, với những giải pháp câu chữ, những lý lẽ tiên nghiệm, với những nguyên lý cố định, những hệ thống khép kín, với những cái được cho là tuyệt đối, là bản nguyên. Nó hướng tới tính cụ thể, sự đầy đủ bằng chứng, tới những sự kiện thực tế, tới hành động, tới sức mạnh”. (2)
Ở nước ta, vì không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với lý luận của học thuyết này, chỉ hiểu qua trung gian các từ điển, các sách được viết ra trong thời kỳ bao cấp ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây nên chủ nghĩa thực dụng chỉ được hiểu ở khía cạnh tiêu cực của nó (tất nhiên, chủ nghĩa thực dụng có mặt tiêu cực của nó), như là “chỉ biết có lợi nhuận”, “lợi ích vật chất trước mắt, không quan tâm đến những mặt khác”, v.v., nhưng mặt tích cực của nó là chống lại tư biện, giáo điều, ảo tưởng, xa rời thực tế; đề cao kinh nghiệm, hiệu quả thực tế … thì không được biết đến. Cần nhắc lại rằng khi gọi tên một học thuyết, chúng ta phải trung thành với tên gốc của nó, không được tự tiện đặt ra một tên khác để gọi học thuyết đó theo cách hiểu sai về thực chất của học thuyết đó, thí dụ, pragmatism (chủ nghĩa hành động, triết học thực tiễn) thì gọi là “chủ nghĩa thực dụng”, conservatism (chủ nghĩa bảo tồn) thì gọi là “chủ nghĩa bảo thủ”, communism (chủ nghĩa cộng đồng) thì gọi là “chủ nghĩa cộng sản”, v.v..
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” bắt nguồn từ tiếng latin “existentia” do chính ông tổ của trào lưu triết học này (nhà triết học Đan Mạnh Søren Kierkegaard (1813- 1855) sử dụng lần đầu tiên, sau đó được các nhà triết học khác của trường phái này tiếp tục sử dụng. Thuật ngữ “existentia” (latin), “existence” (Pháp, Anh) phản ánh quan điểm cơ bản của trào lưu triết học này, được dịch ra tiếng Việt là “hiện sinh” thì không thoả đáng về ngữ nghĩa, nhưng rất tiếc chưa có nhà nghiên cứu nào đặt vấn đề phải xem xét lại cách dịch thuật ngữ này trong tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi cho rằng tuy tên gọi này trong tiếng Việt đã dùng quen rồi khó thay đổi, nhưng cần phải được giải thích thêm mới giúp tránh được cách hiểu lệch lạc về tư tưởng cơ bản của trào lưu triết học này.
Từ “hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa là là “cuộc sống hiện tại”, vì người ta hiểu sai là các nhà triết học trường phái này chỉ biết có cuộc sống trước mắt, không cần quan tâm đến tương lai (Người ta thường hiểu cuộc sống hiện sinh là “sống gấp”). Thực ra, những nhà hiện sinh Pháp như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir không chỉ biết sống cho hiện tại. Họ là những người tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống phát xit ở Pháp, ủng hộ phong trào đấu tranh vì tự do của các dân tộc khác trên thế giới. Sartre và Camus là những người được tặng giải thưởng Nobel. Sartre tích cực tham gia và chủ trì phiên tòa thứ hai của Tòa án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam; còn Beauvoir là người tích cực đấu tranh trong phong trào đòi quyền bình đẳng phụ nữ.
Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh không phải là cổ vũ cho sự “sống gấp” mà là nhấn mạnh tính chủ quan. Đây là đóng góp quan trọng nhất và cũng là sai lầm lớn nhất của trào lưu triết học này. Thuật ngữ “existence” (Anh, Pháp) hay “Dasein” (Đức) là khái niệm nói lên sự tồn tại cá nhân cụ thể, là tồn tại có ý thức , là “tồn tại cho nó” chứ không phải là “tồn tại tự nó”. Ý thức mà chủ nghĩa hiện sinh đề cao là những cảm xúc chủ quan của cá nhân, sự tự do lựa chọn không bị quy định bởi bất cứ cái gì khác ngoài trách nhiệm mà cá nhân tự ý thức được. Luận điểm cơ bản của nó “Hiện sinh có trước bản chất” nói lên đầy đủ quan niệm đó. Chủ nghĩa hiện sinh đề cao sự tự do lựa chọn và trách nhiệm cá nhân, về một phương diện nhất định có thể coi đây là một đóng góp quan trọng, nhưng đồng thời vì nó phủ nhận tính tất yếu và quy luật khách quan nên sự tự do lựa chọn của cá nhân có thể dẫn đến những sai lầm không thể cứu vãn nổi
  1. Về một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Trung quốc nhưng được hiểu sai trong tiếng Việt
Muốn hiểu được tiếng Việt thì phải có một kiến thức nhất định về thuật ngữ Hán-Việt, cũng giống như muốn đọc tiếng Anh, pháp, Nga … thì phải hiểu nguồn gốc Hy Lạp, Latin của nhiều thuật ngữ trong các thứ tiếng này. Nhiều khi nếu có nghi ngờ về cách hiểu quen thuộc đối với một số thuật ngữ Hán-Việt thì cần tham khảo cách dịch các thuật ngữ này trong các thứ tiếng phương Tây như tiếng Anh. Thí dụ, “tính” là gì trong câu nói của Khổng Tử “Tính tương cận, tập tương viễn”. Nhiều người thường hiểu “tính” là ý thức, là nhân cách, nhưng nếu tham khảo các sách phương Tây thì thấy rằng “tính” tức là bản tính tự nhiên của con người (human nature), mầm mống của nó đã có sẵn khi con người sinh ra không đợi đến giáo dục, học tập mới có. Cách hiểu này không có gì mới lạ nếu ta đọc đoạn trích sau đây từ Tuân Tử: “Phàm là người thì đều giống nhau: đói thì muốn ăn, lạnh thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, thích điều có lợi mà không thích điều có hại cho mình. Đấy là cái con người sinh ra vốn đã có, không đợi đến khi học hành mới có”.
“Nho” trong Nho gia có nghĩa là là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau ở Việt Nam, Trung Quốc khó có thể khẳng định cách hiểu nào là chính xác. Ở phương Tây “nho” được dịch là scholar có nghĩa là là “học giả”. Nho gia 儒 家 được dịch là trường phái các học giả (school of the scholars). Từ “giáo” trong “Nho giáo”, “Khổng giáo”, “tam giáo” có nghĩa là gì? Nhiều người thường hiểu “giáo” là tôn giáo. Ở phương Tây, các từ như Nho giáo 儒 教 được dịch là “Study of the Scholars”; Khổng giáo 孔 教 “Teaching of Confucius”; “giáo” là giáo dục, học thuyết, chứ không phải là tôn giáo. Phương Tây thường lấy tên của Khổng Tử (được một nhà truyền giáo phương Tây dịch ra tiếng latin là Confucius) để đặt tên cho trường phái này là Confucianism (chủ nghĩa Khổng Tử, Khổng giáo) (3)
Trước đây ở nước ta đã từng có thời kỳ “tam giáo” được các nhà nước phong kiến lấy làm nội dung học tập, thi cử. Tam giáo (Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo) không có nghĩa là “ba tôn giáo”, mà chỉ là ba học thuyết. Tam giáo được nghiên cứu với tư cách là những học thuyết triết học, đạo đức, chứ không phải ở khía cạnh tôn giáo. Hồ Chí Minh trong khi trả lời một nhà báo Liên Xô đã nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà Nho An Nam… Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí biết chắc Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử”. (4)
Trong bài thơ “Dạ bán”(5) của Hồ Chí Minh có những khái niệm như “thiện”, “ác” là những thuật ngữ có liên quan đến ngôn ngữ triết học Trung Quốc. Để hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh trong bài thơ này, cần phải nhắc lại cuộc tranh luận trong phái Nho gia về bản tính của con người. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là “thiện”. Sách Tam Tự Kinh ra đời thời Nhà Tống đã đứng trên quan điểm của Mạnh Tử khi cho rằng “Nhân chi sơ, tính bổn thiện. Tính tương cận, tập tương viễn”. Tuy nhiên, một nhà Nho khác là Tuân Tử lại có quan điểm ngược lại, cho rằng bản tính con người là “ác”. Ông nói “Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả nguỵ giả”, nghĩa là “Bản tính con người là ác, còn thiện là nguỵ” (do con người làm ra). Ông lập luận: “Tính người ngày nay, trời sinh có kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh ra vấn đề tranh đoạt mà mất đi đức tính khiêm nhường… Trời sinh người ta có thứ dục vọng bởi tai mắt, thích nghe cái hay, nhìn cái đẹp do đó. mới sinh ra vấn đề dâm loạn, mà mất đi lễ nghĩa, đạo lý văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo tính và thuận theo tình của con người, thì sẽ diễn ra cảnh tranh giành, phạm tội loạn ly, rồi quy hết về bạo lực… Cứ nhìn theo đó thì đã quá rõ ràng, tính người là ác vậy”.
Hồ Chí Minh có một cách nhìn khác với hai quan điểm trên của Mạnh Tử và Tuân Tử. Con người không có bản tính cố hữu là thiện hay ác. Đứa trẻ khi chưa được giáo dục nó có bản tính tham ăn, ích kỷ, dưới con mắt của người lớn không ai cho đó là “ác” cả. Bản tính tự nhiên của đứa trẻ có thể trở thành thiện hay ác khi đứa trẻ lớn lên đến một độ tuổi nhất định và phải thông qua giáo dục xã hội cùng với sự rèn luyện của bản thân đứa trẻ đó. Hồ Chí Minh cho rằng nhân cách con người phần nhiều do giáo dục, rèn luyện mà có và chỉ biểu hiện ra trong quan hệ và hoạt động xã hội. Khi ngủ thì ai cũng như nhau. Đến khi thức dậy (nghĩa là khi hành động) mới phân ra người thiện, kẻ ác. Ngục trung Nhật Ký viết bằng chữ Hán là một tác phẩm của Hồ Chí Minh, nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nhiều học giả Trung Quốc, trong đó có nhà thơ nổi tiếng Quách Mạt Nhược khi đọc xong tập thơ này đã nhận xét là trong tập thơ này có nhiều bài thơ có trình độ sánh ngang hàng với thơ Đường, thơ Tống là những thời kỳ đỉnh cao của thơ Trung Quốc. Đã có nhiều bản dịch ra tiếng Việt, nhưng chưa có bản nào phản ánh một cách trung thực được giá trị của tác phẩm. Bài thơ Dạ bán thể hiện một tư tưởng triết học sâu sắc của Hồ Chí Minh về nguồn gốc, phương thức biểu hiện nhân cách, đạo đức của con người. Tuy nhiên, Nam Trân mặc dù hiểu đúng (thể hiện trong cách giải thích), nhưng khi dịch ra thơ thì lại xuyên tạc tư tưởng triết lý của bài thơ. Thiện được dịch là “hiền”, ác là “dữ” thì không chính xác, vì thiện, ác là những phạm trù đạo đức, thuộc cấp độ ý thức xã hội; còn hiền, dữ chỉ là cá tính, thuộc cấp độ tâm lý cá nhân. Hiền chưa hẳn là thiện, dữ chưa hẳn là ác. Sự khác nhau về nhân cách (thiện, ác) mới là cái không có sẵn, phần nhiều do giáo dục mới có. Còn sự khác nhau về cá tính, như hiền lành (điềm tính, dễ tính, nhu mì) hay hung dữ (hung hăng, nóng nảy, dễ bị kích động), hoạt bát hay trầm tính, v.v.. không phải chủ yếu là do giáo dục; chúng một phần có liên quan đến cấu trúc thần kinh, nhiễm sắc thể, hooc-môn, hóa chất, v.v., trong cơ thể của mỗi người. Điều này đã được khoa học và tâm lý học hiện đại nghiên cứu.
Hơn nữa, trong tiếng Việt, nói thiện, ác thì ai cũng hiểu được, cần gì phải dịch ra hiền, dữ làm sai nghĩa đi.
Tài liệu tham khảo
(1)(2) William James, What Pragmatism Means, có thể đọc bài này ở địa chỉ: http://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/us/james.htm hoặc ở nhiều trang web khác.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t. 1, tr. 477
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.283
Nguồn:Tạp chí Triết học số 01 tháng 01 -2010

Thursday 27 February 2014

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (Nguyễn Tấn Hùng - Tạp Chí Triết Học)

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Nguyễn Tấn Hùng - Phó giáo sư, tiến sĩ, Đại học Đà Nẵng.10:20' AM-Thứ ba, 27/08/2013
Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.
Các thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội trong tiếng Việt tuyệt đại đa số có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chủ yếu được dịch trực tiếp từ các thứ tiếng: Hy Lạp (H), Latinh (L), Anh (A), Pháp (P), Đức (Đ), Nga (N), hoặc gián tiếp thông qua tiếng Trung Quốc (TQ). Tuy nhiên, việc dịch các thuật ngữ này nhiều khi không chính xác, cách phiên âm không thống nhất, do đó dẫn đến những hiểu lầm hoặc giải thích không đúng. Mặt khác, đa số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận triết học, chính trị, xã hội của chúng ta, do ít am hiểu ngoại ngữ nên không thấy có vấn đề gì trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của mình và cũng không có thói quen tìm hiểu kỹ nguồn gốc của chúng trước khi sử dụng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ ra một số trường hợp không thống nhất và bất cập về cách phiên âm, dịch nghĩa các thuật ngữ.
1. Cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất
Tên các quốc gia, địa phương trên thế giới mà chúng ta hiện đang sử dụng được phiên âm bằng hai cách: 1) đọc theo phiên âm Hán - Việt từ cách phiên âm của người Trung Quốc; và 2) phiên âm trực tiếp từ tiếng nước ngoài. Nhiều thuật ngữ trước đây được phiên âm theo cách thứ nhất nay đã chuyển sang cách thứ hai. Thí dụ: Mã Khắc Tư nay là Các Mác (Karl Marx), Mã Lai - Malayxia (Malaysia), Phi Luật Tân - Philippin (Philippines), Gia Nã Đại - Canađa (Canada:), Mễ Tây Cơ - Mêhicô (Mexico), v.v.. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thuật ngữ đã dùng quen nên khó thay đổi, chẳng hạn: nước Anh (A: England) (thật ra, tên gọi chính thức của quốc gia này là United Kingdom (Vương quốc thống nhất) gồm 4 nước, trong đó có nước Anh) ; Luân Đôn (L: London); Đức (Đ: Deutschland); Tây Ban Nha (TBN: Espana); Bồ Đào Nha (B: Portuguesa), v.v.. Cách gọi này tuy quen thuộc nhưng lại gây không ít khó khăn cho những người đi học tập, tham quan ở những nơi nói trên.
Có một số tên người có nguồn gốc từ hai cách phiên âm khác nhau. Thí dụ “Bụt” và “Phật” trong tiếng Việt tuy cùng một nghĩa nhưng có hai nguồn gốc phiên âm khác nhau. “Bụt” được phiêm âm trực tiếp từ tiếng Ấn Độ “Buddha”; còn “Phật” cũng từ “Buddha” nhưng được phiên âm sang tiếng Trung Quốc và đọc theo ngữ âm Hán - Việt là “Phật Đà” rồi sau đó được rút gọn thành “Phật”. Các từ “Kitô” và “Cơ Đốc” cũng có nguồn gốc tương tự như vậy. “Kitô” được phiên âm trực tiếp từ tiếng Hy Lạp "Χριστός” (đọc là Khristós, tiếng Latinh là Christus, tiếng Pháp, Anh là Christ). Kitô là tước hiệu, không phải là họ, Giêxu (Jesus) mới là tên. “Cơ Đốc” cũng từ nguồn gốc đó, nhưng được phiên âm sang tiếng TQ rồi được đọc theo âm Hán - Việt. Rất tiếc là nhiều người đã nghĩ Cơ Đốc giáo và Kitô giáo là hai tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, “Thiên Chúa giáo”, “Hồi giáo” là những cách gọi sai của chúng ta. Kitô giáo, Cơ Đốc giáo là tên gọi chung (có thể là Công giáo hay Tin Lành); còn Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo là tên những giáo phái của Kitô giáo, sau đã tách ra thành những tôn giáo độc lập. “Hồi giáo” (tôn giáo của người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc, gọi theo tên một bộ tộc theo tôn giáo này; thật ra, tôn giáo này có tên là Islam.
Cũng do việc phiên âm từ các thứ tiếng khác nhau, nên đã xảy ra trường hợp nhầm lẫn, một tác giả được biên soạn thành hai mục từ khác nhau, với hai tên khác nhau. Chẳng hạn, Tômát Aquin trong “Từ điển Triết học” của Cung Kim Tiến. Để hiểu nguồn gốc của sai lầm này, chúng ta hãy trở lại với cách gọi tên các danh nhân phương Tây. Từ Hy Lạp Cổ đại đến thời Trung cổ, các danh nhân chỉ được gọi trực tiếp bằng tên (không có họ), để tránh sự nhầm lẫn giữa nhiều người có cùng tên, người ta thêm địa danh quê hương, chẳng hạn Talet ở Milê (Thales of Miletus), Hêraclit ở Êphesơ (Heraclitus of Ephesus), Zênôn ở Elê (Zeno of Elea) để phân biệt với Zênôn ở Xiti (Zeno of Citium), Điôgien ở Laect (Diogenes Laertius) để phân biệt với Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope). Tômát - nhà triết học kinh viện Kitô giáo Trung cổ, sinh ở Aquino, Italia nên gọi là Tômat Aquin hay Tômat Aquinô; trong tiếng Anh, tên nhà thần học này là Thomas Aquinas (hayThomas of Aquin, Thomas of Aquino). Trong phần lớn các tài liệu tiếng Việt hiện nay, tên của nhà thần học này được phiên âm từ tiếng Pháp: Thomas d'Aquin (cũng có nghĩa là Tômat ở Aquin) đọc là Tôma Đacanh. Trong tiếng Nga, nhà triết học này được phiên âm là Фома Акви́нский (đọc là Phôma Akvinski, cũng có nghĩa là Tômát ở Aquin), có lẽ vì thế mà Từ điển Triết học Cung Kim Tiến đã nhầm và biên soạn thành hai tác giả (hai mục từ) khác nhau là “Tôma ở Ácvinô” (từ tiếng Nga Фома Акви́нский) và “Tômat Đacanh” (từ tiếng Pháp Thomas d'Aquin) (1).
2. Về việc phiên dịch các thuật ngữ: một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu thì mới sử dụng đúng được.
- Một số thuật ngữ dịch tuy phản ánh được nội hàm của khái niệm gốc, nhưng không sát với thuật ngữ gốc của nó. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi dịch một khái niệm, người ta chỉ cố gắng đảm bảo nội hàm, còn về tên thuật ngữ thì lại đi tìm một tên khác, miễn là diễn đạt được nội hàm đó. Thí dụ:
Thuyết “Tam quyền phân lập” là một học thuyết chính trị do nhà triết học chính trị Pháp Saclơ Môngtexkiơ (Charles Montesquieu, 1689 - 1755) đưa ra. Trong tiếng Pháp, thuyết này có tên “Séparation des pouvoirs” (A: Separation of powers), nếu dịch sát về thuật ngữ thì phải là “sự chia tách các quyền lực” chứ không phải là “tam quyền phân lập”. Tuy từ dịch này không sai so với nội hàm của khái niệm, nhưng người sử dụng cũng cần phải biết xuất xứ của nó.
“Chủ nghĩa thực dụng” (Pragmatism) là một trào lưu triết học đã và đang thịnh hành ở Mỹ. Thuật ngữ “pragmatism” (A) hay “pragmatisme (P) xuất phát từ “pragma” (số nhiều: pragmat) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “hành động”. Từ “pragma” là nguồn gốc của các từ practice (A), pratique (P), практика (N) dịch ra tiếng Việt là “thực hành” hay “thực tiễn”. Như vậy, “pragmatism” nếu dịch sát nghĩa phải là “chủ nghĩa hành động”, “triết học thực tiễn” chứ không phải là “chủ nghĩa thực dụng” như cách nói hiện nay. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dụng” trong tiếng Việt tuy cách dịch không sai so với thực chất của trào lưu triết học này (lấy công dụng, lợi ích, hiệu quả thực tế làm thước đo cho tất cả), nhưng nó lại được hiểu lệch theo một nghĩa xấu vốn không có trong thuật ngữ gốc của nó.
- Một số thuật ngữ dịch sai cả về tên và nội hàm của khái niệm.
Không chỉ có thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm”, “chủ nghĩa duy vật”, mà có nhiều thuật ngữ khác cũng được thêm từ “duy” vốn không có trong tiếng nước ngoài, thí dụ “chủ nghĩa duy thực”, “chủ nghĩa duy danh”, “chủ nghĩa duy năng”, “chủ nghĩa duy linh”, “chủ nghĩa duy ý chí”,… Chữ “duy” ở đây làm cho người ta hiểu sai là “chỉ có”, thí dụ, hiểu nhầm chủ nghĩa duy vật cho rằng “chỉ có vật chất”, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “chỉ có ý thức”… Thực ra, các trào lưu này không tuyệt đối hóa sự tồn tại của một trong hai nhân tố, mà chỉ nhấn mạnh vai trò quyết định của một trong hai nhân tố đó mà thôi.
Thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm” còn sai cả từ và nghĩa nữa. Các từ idealism (A), idéalisme (P), idealismus (Đ) xuất phát từ tiếng Hy Lạp “ιδεα” được dịch sang tiếng Anh là “idea”, “form”; tiếng Việt là “ý niệm”. Platôn - nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” là một thực thể tinh thần có trước, độc lập với sự vật cảm tính. Hêghen cũng kế thừa tư tưởng đó. Còn những nhà duy tâm chủ quan, như Đêvit Hium (David Hume, 1711 - 1776), thì lại cho rằng sự vật chỉ là “tập hợp các cảm giác” hay “tập hợp các ý niệm” (collection of ideas) của con người. Đáng lẽ “idealism” phải được dịch là “chủ nghĩa ý niệm”. Thuật ngữ Hán - Việt, “tâm” tuy cũng có nghĩa là ý thức, tư duy, nhưng chỉ nói về tư duy của con người mà thôi (chỉ có thể áp dụng cho chủ nghĩa duy tâm chủ quan); trái lại, thuật ngữ “ý niệm” (idea) trong từ “idealism” theo quan niệm của các nhà triết học duy tâm khách quan thì lại tồn tại độc lập, ngoài con người.
“Chủ nghĩa kinh nghiệm” (empiricism) là khuynh hướng triết học thịnh hành ở nước Anh với Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume trong thế kỷ XVII đến các nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực chứng trong các thế kỷ XIX và XX. Thuật ngữ này tuy rất quen thuộc, song thế nào là “kinh nghiệm” thì ít người hiểu đúng, vì từ “kinh nghiệm” trong tiếng Việt và tiếng nước ngoài (εμπειρισμός (H) experientia (L), experience (A, P) không đồng nghĩa với nhau. “Kinh nghiệm” trong tiếng Việt thường được hiểu là những tri thức thu được trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chủ nghĩa kinh nghiệm được người Việt hiểu như là khuynh hướng tư tưởng coi kinh nghiệm thực tiễn là tất cả, coi thường lý luận. Tuy nhiên, trong triết học phương Tây, “εμπειρισμός”, “experience” trước hết được hiểu là tất cả những tri thức cảm tính, tức tất cả những gì do quan sát được bằng giác quan đem lại. Như vậy, “chủ nghĩa kinh nghiệm” ở phương Tây là trào lưu triết học chỉ thừa nhận những tri thức có nguồn gốc từ cảm tính hoặc có liên hệ trực tiếp với cảm tính; nó phủ nhận những tri thức do suy lý gián tiếp, phản đối phương pháp tư duy tư biện. Chủ nghĩa kinh nghiệm có thể là duy vật hoặc duy tâm. Đối với các nhà triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực chứng và thực dụng thì kinh nghiệm là tất cả, không phân biệt khách quan, chủ quan. Theo họ, vũ trụ, mặt trời, mặt trăng… đều nằm trong kinh nghiệm.
“Chủ nghĩa duy lý” (rationalism có gốc từ tiếng Latinh ratio - lý trí, lý tính, reason (A), raison (P)) là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng triết học coi lý trí là cơ sở của tồn tại, nguồn gốc và tiêu chuẩn kiểm tra chủ yếu của tri thức; đồng thời cho rằng, bằng lý trí và phương pháp suy luận diễn dịch, con người có thể nhận thức được tất cả, không cần đến kinh nghiệm. Đối lập với trào lưu chủ nghĩa duy lý còn có trào lưu “chủ nghĩa phi lý” (phi lý tính hay phi duy lý - irrationalism) phủ nhận vai trò của lý trí, lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh là một điển hình. Nó cho rằng tất cả đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, quy luật, nguyên nhân, quan hệ… và do vậy, không thể dùng lý trí để nhận thức, mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, cảm xúc mà thôi. Đừng nhầm lẫn “phi lý” (absurd) với “vô lý” (illogical). Cái vô lý là cái không hợp lôgíc, nghĩa là có thể nhận thức được bằng lý trí, nên mới biết được nó không hợp với lôgíc khách quan. Còn cái phi lý là cái không thể nhận thức được bằng lý trí, nên không thể nói gì về nó cả. Theo nhà triết học hiện sinh Pháp - Albert Camus, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống… là những cái phi lý, chúng ta chỉ có thể cảm nhận chúng mà không thể giải thích được chúng.
“Chủ nghĩa thực chứng” là gì? Nó là trào lưu triết học thịnh hành ở các nước, như Anh, Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” (Positivsm, Positivisme trong tiếng Anh, Pháp) xuất phát từ positivus (L) (positivepositif trong tiếng A,P) có nghĩa là xác thực, rõ ràng.Positive - negative là một cặp từ được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn như dương - âm (cực dương hay cực âm của một nguồn điện). Cặp từ này cũng có nghĩa là khẳng định (nói có) - phủ định (nói không) trong các phán đoán. Thí dụ, trong kết quả xét nghiệm một loại vi rút nếu được ghi là negative (dịch là âm tính) có nghĩa là không có virút đó. Cặp từ này còn có nghĩa là tích cực - tiêu cực. Riêng từ “positive” trong khoa học, triết học, thí dụ “positive knowledge”, “positive thinking”, có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positivism được dịch là “chủ nghĩa thực chứng” vì đây là một trào lưu triết học không thừa nhận lối tư duy tư biện và những tư tưởng tư biện; nó chỉ thừa nhận những tri thức thực chứng, tức là những tri thức xác thực, đã được chứng thực. Tuy nhiên, hạn chế của trào lưu này là chỉ giới hạn việc chứng thực các mệnh đề lý luận bằng kinh nghiệm cảm tính (quan sát, thực nghiệm).
“Chủ nghĩa hiện sinh” là gì? Thuật ngữ này rất quen thuộc nhưng ít người hiểu đúng thực chất của nó, ngay cả những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, vì thuật ngữ này trong tiếng Việt không đồng nhất với thuật ngữ gốc. “Hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa là “đang sống”, nhưng thuật ngữ gốc của nó không có nghĩa như vậy. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (Existentialism (A), Existentialisme (P) xuất phát từ gốc từ Latinh “existentia”, nghĩa thông thường là “tồn tại”. Đây là trào lưu triết học phi lý tính, phát triển mạnh ở Đức và Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Thật ra, trong ngôn ngữ thường ngày, being và existence (A) hayêtre và existence (P) đều có chung một nghĩa là “tồn tại”, chẳng hạn, “being and thinking” (tồn tại và tư duy) “the existence of God” (sự tồn tại của Thượng đế). Tuy nhiên, các nhà triết học hiện sinh lại phân biệt hai khái niệm này. Theo họ, être (P); being (A); Sein (Đ) (dịch ra tiếng Việt là “tồn tại”) chỉ đơn giản là “có mặt ở đó”, nhưng không có ý thức nên vô nghĩa, không đáng quan tâm. Chỉ có existence (A&P); Dasein (Đ) (được dịch ra tiếng Việt là “hiện sinh” hay “hiện hữu”) là một thứ tồn tại đặc biệt - tồn tại có ý thức, mới là cái đáng quan tâm. Tuy nhiên, ý thức mà họ nói ở đây không phải là lý trí hay ý thức khoa học, mà là một thứxúc cảm chủ quan (sự lo âu, trăn trở, đau khổ, tự do, nổi loạn…) ở cá nhân riêng lẻ của con người “hiện sinh” và cảm nhận chủ quan mà con người hiện sinh gán cho đồ vật mà thôi. Nhà hiện sinh Pháp - Jean Paul Sartre (1905 - 1980) đưa ra luận điểm nổi tiếng “L'existence précède l'essence” (“hiện sinh có trước bản chất”, nhưng nhiều tài liệu nhầm là “tồn tại có trước bản chất”) nghĩa là con người sinh ra không có một bản chất vốn có nào cả; chỉ khi nào con người “hiện sinh”, tức là có ý thức về bản thân mình, tự do lựa chọn cho mình trở thành một cái gì thì anh ta mới có được một bản chất nào đó. Đồ vật chỉ đơn giản là tồn tại, nó chỉ “hiện sinh” khi con người hiện sinh đem lại cho nó một ý nghĩa nào đó. Nhà hiện sinh Pháp - Simone de Beauvoir (1908 - 1986) có câu nói nổi tiếng “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ) cũng được hiểu theo cách tương tự như vậy. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học chỉ quan tâm đến sự “hiện sinh”, một thứ tồn tại đặc biệt, chứ không phải là tồn tại nói chung.
Thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản” được dịch từ các thứ tiếng phương Tây (communism (A), communisme (P), Kommunismus (Đ), коммунизм (N). Các thuật ngữ này không hề có từ “sản” mà chỉ gần gũi với từ “chung” (common), “cộng đồng” (community). Không phải ngẫu nhiên mà một tác giả đã giải thích: “communism = common + ism”. Việc dịch thuật ngữ này thành “chủ nghĩa cộng sản” là sai cả về ngữ nghĩa và thực chất của khái niệm. Communism nếu dịch chính xác phải là “chủ nghĩa cộng đồng”, chứ không thể là “chủ nghĩa cộng sản” được. Từ “chủ nghĩa cộng sản” tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng xã hội tương lai mà chúng ta phấn đấu xây dựng phải là một xã hội mà mọi tài sản đều là của chung. Mặc dù, sau này, người ta đã cải chính rằng không phải mọi tài sản mà chỉ có tư liệu sản xuất là của chung, nhưng như vậy cũng không phản ánh được thực chất của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm “communism” phản ánh mục đích phấn đấu là cộng đồng xã hội, ưu tiên của cộng đồng xã hội so với cá nhân; còn tư liệu sản xuất chung chỉ là con đường để thực hiện mục đích, chứ không phải là mục đích.
Các thuật ngữ “conservatism”, “conservative party” được dịch sang tiếng Việt là “chủ nghĩa bảo thủ”, “đảng bảo thủ”. Các thuật ngữ này xuất phát từ động từ “conserve” (A) hay conserver (P) có nghĩa là giữ gìn, bảo tồn, bảo toàn. Cách dịch này sang tiếng Việt tuy không sai (“bảo thủ” có nghĩa là “bảo vệ, giữ gìn”), nhưng vì trong tiếng Việt, từ “bảo thủ” thường được dùng với một nghĩa xấu, do đó người ta thường hiểu sai khuynh hướng chính trị này. Thực ra, đây là một khuynh hướng triết học chính trị chủ trương giữ gìn, bảo tồn những giá trị, những thể chế (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, v.v.) đã qua thử thách trong lịch sử. Khi sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa bảo thủ”, vì không hiểu nguồn gốc của nó, nên nhiều người thắc mắc tại sao trong nhiều nước tiên tiến, đảng “bảo thủ” lại có thể được quần chúng ủng hộ, như Đảng Bảo thủ Anh đã nhiều lần nắm được ghế thủ tướng; Đảng Bảo thủ Canađa hiện nay đang nắm chính quyền ở nước này từ năm 2006 đến nay.
Không chỉ các thuật ngữ được dịch từ các tiếng phương Tây, mà ngay cả một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nga, tiếng Trung Quốc cũng không phải đã được hiểu đúng.
Tác phẩm của V.I.Lênin “Империализм, как высшая стадия капитализма” được dịch ra tiếng Việt là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Đúng ra phải dịch là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản”. Cần lưu ý, hai thuật ngữ “tột cùng” và “cao nhất” không hoàn toàn trùng khớp với nhau về ngữ nghĩa. “Tột cùng” còn có nghĩa là cuối cùng; còn “cao nhất” chưa hẳn là cuối cùng (vì còn có quá trình đi xuống, suy vong nữa rồi mới chấm dứt). Thuật ngữ “умирающий капитализм” được dịch ra tiếng Việt là “chủ nghĩa tư bản giẫy chết” cũng không hoàn toàn sát nghĩa. умирающий (động tính từ của động từ умирать) có nghĩa là đang chết. “Đang chết” diễn đạt một quá trình lâu dài, chết dần dần; còn “giẫy chết” cho ta ý niệm về một cái chết diễn ra rất nhanh chóng.
Câu nói của Khổng Tử: “Tính tương cận, tập tương viễn” thường được giải thích là: Tính người vốn sinh ra là gần nhau nhưng do nhiễm những thói quen, tập quán xấu ngoài xã hội, nên vì thế mà tính người trở nên xa nhau. Ta thử đối chiếu với cách dịch câu nói này trong một giáo trình triết học ở Mỹ: “By nature, men are nearly alike; by practice, they get to be wide apart" (Về bản tính, con người gần giống nhau; bằng sự rèn luyện mà họ trở nên xa nhau) (2). Tính người (human nature) phải được hiểu là bản tính tự nhiên của con người, chứ không phải là ý thức hay nhân cách, vì khi mới sinh ra, con người chưa có được những yếu tố này. “Nature” là tự nhiên khác với “culture” (văn hóa, giáo dục). Bản tính tự nhiên của con người xuất phát từ bản năng động vật, tức yếu tố “con” ở trong con người (bản năng ăn uống, tự vệ, sinh dục …) đòi hỏi phải được thỏa mãn cho cá nhân một cách tối đa, bất chấp lợi ích của người khác (từ đó sinh ra tính tham lam, ích kỷ, lánh nặng tìm nhẹ, v.v.). Tuy nhiên, nhờ lớn lên và rèn luyện trong môi trường văn hóa mà con người kìm chế được những bản năng này và phát triển những phẩm chất xã hội. Nhưng, những phẩm chất xã hội ở mỗi người là không giống nhau vì việc rèn luyện của mỗi người là khác nhau.
Bài thơ “Dạ bán” (Nửa đêm) trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh có hai câu: “Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân”,được Nam Trân giải thích: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Cách giải thích này đúng, nhưng khi dịch ra thơ, để đảm bảo vần điệu, Nam Trân dịch: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (3). Thật ra, thiện, ác dịch là hiền, dữ thì không chuẩn. Vì thiện, ác là thuộc về đạo đức; còn hiền, dữ là thuộc về cá tính; “hiền” chưa hẳn là “thiện”, “dữ” chưa hẳn là ác.
Qua một số ví dụ nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hiểu được thực chất và vận dụng đúng các thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chúng ta không có cách nào khác là phải truy tìm ngôn ngữ gốc của chúng. Mặt khác, chúng tôi đề nghị Nhà nước nên có những quy định thống nhất về cách phiên âm tên người, tên địa phương và cách dịch các thuật ngữ triết học, chính trị, xã hội tương đối thông dụng.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Cung Kim Tiến. Từ điển triết học. Nxb Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1200 -1201.
(2) Douglas J. Soccio, Archetypes of Wisdom: An Introduction to Philosophy, Wadsworth Publishing, Ohio, 2006. Giáo trình này cũng được Trường Đại học Towson sử dụng trong chương trình đào tạo quốc tế ở Việt Nam.
(3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.283.