PHẦN VII
TRẬN ÐÁNH TẾT KỶ DẬU
1. NGUYỄN HUỆ LÊN NGÔI HOÀNG ÐẾ
Ðối chiếu nhiều tài liệu chúng ta có
nhiều thời điểm khác nhau về việc đăng quang của Nguyễn Huệ. Hiện tại có
ba tài liệu với ba nhật kỳ: chính sử triều Nguyễn (LT, Nguỵ Tây), Hoàng
Lê Nhất Thống Chí (HLNTC), và chi tiết trong thư của Hội Truyền Giáo
Bắc Hà. Ngoài ra còn một ngày tháng hơi chênh lệch một chút với sử triều
Nguyễn là bài Chiếu Lên Ngôi (Tức Vị Chiếu) [222] của Ngô Thì Nhậm chép trong Hàn Các Anh Hoa.
Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 32 (Nguỵ Tây, Nguyễn Văn Huệ) chép là “ngày 25 tháng Một” [22-12-1788],[223] Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Gia Văn Phái) thì viết “ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân” [20-1-1789][224] còn theo thư “đề ngày 20 tháng 9 của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton” còn
lưu lại trong Nhật Ký Về Những Sự Kiện Ðáng Ghi Nhớ, Nha Văn Khố Quốc
Gia Paris (Paris, Archives Nationales số F5; A 22) thì “… Bắc vương đã ấn định ngày 11 tháng Mười (âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng 11 là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh hiệu “Quang Trung”[225]
Ngoài ra trong Hàn Các Anh Hoa còn chép một bài Chiếu Lên Ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, trong đó có đoạn như sau:
… Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời. Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng lo không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Ðó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng Một [19-12-1788] năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên.[226]
Bài chiếu này nếu xét trong hoàn cảnh
xuất hiện của nó, nếu thực do Ngô Thì Nhậm soạn, thì hoặc ông đang ở Phú
Xuân, hoặc đã soạn sẵn theo lệnh của Nguyễn Huệ, chờ đúng dịp là đem ra
sử dụng. Phân tích một số chi tiết trong bài Chiếu Lên Ngôi chúng ta
ngờ rằng bài này được soạn trước khi nghe tin quân Thanh sang chiếm nước ta, nếu không đồng thời với tờ biểu “suy tôn” lần thứ ba (Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời.) thì cũng chỉ sau đó một thời gian ngắn.
Văn trong bài chiếu tức vị này hoàn toàn là văn chương thời bình,
không phải thời chiến, không nhắc đến xa gần gì về việc quân Thanh xâm
chiếm nước ta và lên ngôiđể thu phục nhân tâm (để chiến đấu) như
sử đã chép. Chính vì thế, một số câu văn sáo mòn đầy giả tạo, chẳng hạn:
“Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Ðại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện.” hay “Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởiđến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng đẹp đẽ sao?” vẫn còn hiện diện trong bài chiếu.
Sắp xếp lại những sự kiện nêu trên, việc Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ít nhất cũng đã được dự tính từ tháng Tám năm Mậu Thân khi ông phong vương cho Nguyễn Quang Toản theo tin tức của những giáo sĩ[227] nghĩa
là tách riêng ra thành một vương triều mới không còn lệ thuộc vào vua
Thái Ðức ở Qui Nhơn. Việc phong cho con lên tước vương đồng nghĩa với
việc xác định người cha lên ngôi hoàng đế nên lễ đăng quang của vua
Quang Trung chỉ là hợp thức hóa một sự việc đã công khai. Chi tiết này
phủ nhận việc ông lên ngôi để đánh quân Thanh cho chính vị [hàm ý ông
không muốn nhưng vì tình thế đòi hỏi] như ghi trong LT hay HLNTC.
Cũng theo nhật ký của các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Bắc Hà thì Nguyễn Huệ định ngày đăng quang là ngày 11 tháng Mười năm Mậu Thân [8-11-1788], tính ra trước cả khi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Nam Quan (28 tháng Mười năm Mậu Thân [25-11-1788]) .[228] Cho
nên, khi quân Thanh vào Thăng Long (cuối tháng Một), Nguyễn Huệ đã là
hoàng đế Quang Trung rồi, không còn phải bận bịu gì về việc lên ngôi hay
sắp đặt triều chính trong ngoài nữa.
Chúng ta cũng có thể tin rằng trong
khoảng bốn tháng [từ tháng Bảy đến tháng Mười năm Mậu Thân] tin tức
về việc quân Thanh sang đánh nước ta được loan truyền rộng rãi tại Bắc
Hà và Nguyễn Huệ muốn sớm lên ngôi để ông còn có thì giờ chuẩn bị chiến
tranh, đúng như bản hịch văn kêu gọi tướng sĩ mà các nhà truyền
giáo đãdịch sang tiếng Pháp (đề ngày 3 tháng Mười, Thái Ðức 11
[31-10-1788]) 8 ngày trước khi lên ngôi theo tin tức của các nhà truyền
giáo.[229]
Trong ba nhật kỳ, của các giáo sĩ, trong
tờ chiếu lên ngôi và trong HLNTC thì nhật kỳ 25 tháng Chạp trong HLNTC
phải loại ra vì xem ra quá xít xao, không thể thực hiện được [25 tháng
Chạp lên ngôi ở Phú Xuân, 30 tháng Chạp đã kéo quân ra đến Nghệ An].
nhật kỳ trong chiếu lên ngôi và trong Liệt Truyện khá gần [25 tháng Một
và 22 tháng Một], tuy khác nhau nhưng cũng có cơ sở. Có thể ông đã đăng
quang ngày 11 tháng Mười [theo báo cáo của các giáo sĩ] nhưng khi nghe
tin quân Thanh sang đánh, vua Quang Trung đã tổ chức một đại lễ ở núi
Bân mà sách vở gọi là đại sư (大師) hay thân chinh để đích thân nhà vua đem quân đi vào ngày 22 tháng Một như Liệt Truyện ghi nhận.
Với những mốc nhật kỳ tương đối chính
xác theo ghi nhận của những nhà truyền giáo thì sau khi lên ngôi, vua
Quang Trung còn mất một thời gian tuyển mộ binh lính, thu góp lương
thực để chuẩn bị cho một đại chiến dịch đối phó với quân Thanh. Khi đến
Thanh Hóa, vua Quang Trung lại tổ chức một đại lễ xuất quân [hay đại duyệt]
cuối tháng Chạp để cho quân ăn Tết trước mà tin loan truyền qua lại
khiến dân chúng Bắc Hà nhầm rằng đây là lễ đăng quang. Ðại lễ xuất quân
này còn được ghi chép trong nhiều sách vở điển hình là Lịch Triều Tạp Kỷ
của Ngô Cao Lãng:
… Huệ không nghe, liền chỉnh đốn binh tượng, làm lễ ra quân ở Thọ Hạc. Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng:
“Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết cho hết lũ chó Ngô. Nếu không muốn đánh, hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy vạn mạng người cho coi, không phải là nói khoác đâu”.
Nói xong các quân đều dạ ran như sấm, núi rừng rung động, chiêng trống vang rền, hành quân tiến gấp.[230]
Xét như thế, chúng ta thấy rằng trong
khoảng thời gian từ tháng Mười đến tháng Chạp năm Mậu Thân, không phải
chỉ có một lễ đăng quang của vua Quang Trung mà có tới ba lễ khác nhau, lễ đăng quang tháng Mười ở trong cung (theo đúng thủ tục mà bên ngoài ghi nhận), lễ thân chinh tháng Một ở núi Bân để cho quân sĩ biết rằngông sẽ đích thân cầm quân ra Bắc (như sử triều Nguyễn ghi nhận), và sau cùng là lễ đại duyệt ở Thanh Hóa tháng Chạp (như dân Bắc Hà ghi nhận) để khẳng định rằngông sẽ đánh cho địch “chích luân bất phản, phiến giáp bất hoàn”.Về diễn
tiến trận chiến Việt – Thanh đầu năm Kỷ Dậu (1789), sử nước ta chép chủ
yếu tại hai tài liệu, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục (CM),
quyển XLVII [40-42] và Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (LT), quyển XXX,
Nguỵ Tây, phần viết vềNguyễn Huệ [32-35].
Cương Mục chép:
[Tôn] Sĩ Nghị từ lúc ra khỏi Nam Quan đến nay đều thắng cả nên có bụng khinh địch, thấy việc chiếm lại Thăng Long chẳng có gì khó. Hào kiệt ứng nghĩa[theo việc nghĩa mà dấy lên, ý nói các đạo cần vương nhà Lê] ở các trấn tranh nhau đến yết kiến ở quân môn xin tiến binh đều không được đoái hoài đến. Mãiđến khi nhận được thủ chiếu của Thanh đế ra lệnh khi nào thu phục lại toàn bộ đất đai cho vua Lê mới được rút quân về, Sĩ Nghị bắt đầu tính kế.
Ðến lúc binh của [Nguyễn] Văn Huệ đã đến núi Ba Dội [Tam Ðiệp sơn], vua [Lê] biết được lấy làm lo sợ vội hỏi kế Sĩ Nghị. Sĩ Nghị đáp:
– Ta “dĩ dật đãi lao” [lấy nhàn nhã chống với mệt nhọc], chẳng việc gì phải gấp gáp.
Thế là cứ dương dương chẳng lý gì đến cả. Quân giặc đánh thẳng lên phía bắc mà không gặp sự kháng cự của một người một ngựa nào. Khi tới Sơn Nam, SĩNghị mới ra lệnh cho đề đốc Hứa Thế Hanh đem bốn cánh quân tiến lên chia ra đóng trại ở Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống lại. Ngày mồng 4 tháng đó [tháng Giêng năm Kỷ Dậu] du binh của giặc đến trước, đụng độ mấy lần đều thảm bại nên Sĩ Nghị cũng hơi coi thường. Canh năm hôm sau [tức mồng 5], Văn Huệ xăn tay áođứng dậy, đốc thúc bộ thuộc xua binh ào ạt tiến lên, đích thân đốc chiến, đưa hơn một trăm con voi đực đi đầu.
Tờ mờ sáng, kỵ binh tinh nhuệ của quân Thanh hùng hổ xông ra, thấy voi ngựa liền hí vang chồm lên quay trở đầu chạy về. [Thế là] giặc liền thúc voi tràn tới, các cánh quân không kịp cứu ứng cho nhau chỉ quay về đồn tự thủ, rải chông sắt bốn bề, súng lớn và cung nỏ bắn ra như mưa. Quân giặc dùng rơm bện thành bó lớn lăn lên để chắn đạn, binh lính theo sau, lớp trước ngã xuống lớp sau tiến lên, hết sức tử chiến, tất cả các đồn luỹ đều tan vỡ bỏ chạy. Giặc đuổi tới đồn Nam Ðồng, thừa thắng chém giết thoả thuê, quân bắc chết đến quá nửa. Thế Hanh cùng tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng chết tại trận. Sầm Nghi Ðống đóng quân ở Loa Sơn [tục gọi là Ðống Ða] bị một cánh quân của giặc tấn công, không có cứu viện, Nghi Ðống tự ải. Thân binh cũng treo cổ chết theo đến vài trăm. Khi ấy Sĩ Nghị đang ở trong trướng bỗng nghe quân giặc đã đến sát Thăng Long, không biết làm sao chỉ vội nhổ trại vượt sông bỏ chạy. Cầu gãy, chết đuối không biết bao nhiêu mà kể. (NDC)
Liệt Truyện viết:
… Nguyễn Huệ chia thân binh thành tiền, hậu, tả, hữu bốn doanh còn lính mới tuyển ở Nghệ An thì giữ lại trung quân. Khi đại duyệt binh ở trấn doanh [chỗđóng quân ở Nghệ An] quân tinh nhuệ tính ra hơn mười vạn, voi chiến cũng vài trăm, đại duyệt ở trấn doanh.
Huệ đích thân cưỡi voi ra ngoài doanh khao quân, sau đó hạ lệnh tiến phát. Ngày 20 tháng Chạp, quân đến núi Tam Ðiệp. Sở [Ngô Văn] và Lân [Phan Văn] lạy phục ở bên đường chịu tội. Huệ nói:
– Các ngươi tội quả đáng chết muôn lần. Cô nghĩ đất bắc mới bình định, lòng người chưa theo. Các ngươi có thể giữ được quân cho toàn vẹn [trở về] để tránh mũi nhọn của địch, trong thì khích tướng sĩ thêm tức, ngoài thì khiến kẻ địch thêm kiêu, ấy là kế dụ địch vậy. Nay cô cho các ngươi đái tội lập công để xem hiệu lực thế nào.
Sau đó mở tiệc khao tướng sĩ rồi nói:
– Nay hãy ăn tết trước, đợi đến mồng bảy tháng Giêng vào thành Thăng Long khi đó lại mở đại tiệc ăn mừng. Các ngươi rồi xem lời nói của ta liệu có khoác lác hay chăng?
Huệ truyền cho tam quân đợi lệnh.
Sai đại tư mã Sở, nội hầu Lân đem tiền quân đi tiên phong. Hô hổ hầu chỉ huy hậu quân.
Ðại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết coi tả quân kiêm luôn cả thuỷ quân, tiến theo đường biển vào sông Lục Ðầu, Tuyết đem quân dàn ngang vùng Hải Dương để tiếp ứng cho mặt đông còn Lộc thì xua binh chiếm gấp các vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế … để chặn đường về của địch.
Ðại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu coi hữu quân luôn cả tượng binh, mã binh. Mưu đi xuyên qua Chương Ðức để thẳng tới Nhân Mục thuộc huyện Thanh Trì đánh ngang hông vào đồn quân Ðiền Châu ở đó. Bảo thống lĩnh tượng binh theo Sơn Minh đi ra Ðại Áng thuộc Thanh Trì lo việc tiếp ứng cánh phải.
Năm quân cùng phục lạy nhận lệnh.
Ngày 30 tết quân vượt sông Giản Thuỷ. Quân của trấn thủ Sơn Nam nhà Lê là Hoàng Phùng Nghĩa tan vỡ trước. Quân do thám của nhà Thanh đều bị bắt giết sạch cả nên không thể báo tin.
Từ Ổ Môn ở Thăng Long đến Hà Hồi thuộc Thượng Phúc, quân Thanh xây đồn luỹ, bố trí đại pháo, bên ngoài lại ngầm chôn địa lôi phòng bị thật chắc chắn. Nửa đêm ngày mồng ba tháng Giêng năm Kỷ Dậu, binh của Huệ đến Hà Hồi, bí mật vây quanh đồn rồi dùng loa, kẻ hô người ứng tiếng vang vọng như đến mấy vạn người, khiến cho trong đồn hoảng sợ không đánh cũng tan, quân Nam thu hết quân tư khí giới.
Ngày mồng năm khi trời mờ sáng, quân Nam tiến đánh Ngọc Hồi, trên luỹ quân Thanh bắn ra như mưa. Huệ ra lệnh cho chiến sĩ dùng ván gỗ để chắn xông vào trận, còn mình đích thân thúc voi từ phía sau lên. Khi phá được cửa luỹ vào trong rồi, quân Nam liền vứt ván gỗ xuống, dùng dao ngắn xông vào đâm chém loạn xạ. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tứ tán, dẫm phải bẫy chôn từ trước nên bị địa lôi nổ tung chết hại rất nhiều. Quân Tây Sơn ầm ầm xông lên phá luôn các đồn Văn Ðiển, Yên Quyết.
Ðề đốc nhà Thanh Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, tri phủ Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống đều tử trận. Nghị [Tôn Sĩ] đang ở trên cồn cát [đại bản doanh quân Thanh ở trên cồng cát giữa sông Nhị Hà, hai bên bắc cầu phao[231]để đi lại] nghe báo một mình một ngựa chạy về bắc, tướng sĩ cũng tranh nhau qua cầu. Cầu đứt cả bọn ngã xuống sông chết đến hàng vạn. Sông Nhĩ Hà vì thế không chảy được.
Hôm đó Huệ xua binh vào thành [Thăng Long], áo chiến mặc trên người ngả màu đen cũng do ám khói thuốc súng mà ra. Vua Chiêu Thống cũng vội vã qua sông chạy theo Tôn Sĩ Nghị về bắc. Thế là nhà Lê mất …(NDC)
Các nhà nghiên cứu gần đây thấy các tài
liệu của triều Nguyễn quá đơn sơ nên thường sử dụng một số chi tiết
ngoại sử. Trong những tài liệu cuối đời Lê, tác phẩmđáng tin cậy hơn cả
có lẽ là Lịch Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lãng, tiếc
rằng trong toàn bộ 6 quyển thì quyển V [chép từ khi vua Hiển Tông
qua đời đến khi Tôn SĩNghị chiếm được Thăng Long] lại thất tung nên vì
thế các sự kiện trở thành rời rạc, thiếu liên tục.[232]
Ðể dựng lại trận đánh, chúng ta hoàn
toàn thiếu những tài liệu cung cấp trực tiếp từ chính người tham gia
trong bộ chỉ huy Tây Sơn. Nhiều người vẫn cho rằng NgôThì Nhậm là một
trong các bộ óc chiến lược của Nguyễn Huệ trong bộ chỉ huy chiến dịch
thời ấy [theo tường thuật trong HLNTC] nhưng thực ra chi tiết này không
có những cơ sở chắc chắn. Những di văn của ông chỉ nhắc đến những sự
việc sau khi quân Thanh đã rút chạy [kể cả một bài biểu đại diện cựu
thần nhà Lê tạ ơn vua Quang Trung đã thu nạp] nên chúng ta có thể tin
rằng chi tiết viết trong Lịch Triều Tạp Kỷ không sai. Ngô Thì Nhậm và nhiều người khác chỉ “ra hàng” để trở thành thư lại sau khi vua Quang Trung thắng trận.[233] Trước đó,
trên danh nghĩa, tuy cộng tác với Tây Sơn nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn là một
viên quan nhà Lê đóng vai con thoi giữa triều đình Lê Duy Cẩn và bộ chỉ
huy của Ngô Văn Sở [tương tự vai trò của nhiều văn quan khác dưới thời
vua Lê chúa Trịnh] nên khi Lê Duy Kỳ trở về ông cũng bị trừng phạt nhẹ
[cách chức đuổi về làm dân thường].
Trong chiến dịch Việt –Thanh, hầu như
không có cơ hội nào cho các văn thần tham gia nên họ hoàn toàn là những
người ngoại cuộc, có chăng là một số tin đồn ngheđược và những sinh hoạt
không có tính quyết định. Do đó, nhiều suy đoán được trám vào những sự
việc mà họ không nắm vững:
1. Trước hết, tài liệu do chính
người Việt ở trong cuộc mà chúng ta còn có được là tường thuật của Lê
Quýnh và của Lê Duy Ðản. Lê Quýnh chỉ ở Thăng Long một thời gian ngắn
rồi vì bị sốt rét phải về quê chữa bệnh nên ông không biết gì
về trận đánh quyết định này, chỉ nghe tin sau khi quân Thanh đã thua
chạy và vua Lê đã sang Trung Hoa. Lê Duy Ðản là người đi sát với chiến
cuộc nhất, tuy ông không biết gì về các giao tranh nhưng lại nói
về nguyên nhân của bại trận:
…Kinh thành thu phục xong, tổng đốc thì bị người dưới dẫn dắt, lại thêm tướng giặc là Phan Khải Ðức trá hàng, ngày ngày gièm pha li gián nước ta, thần dân nói gì cũng không nghe. Các tướng đánh trận ngày nào cũng thắng nên khi Nguyễn Huệ tập trung binh đến đánh thì toàn quân đều thua chạy.
2. Về phía quân Thanh, theo những
qua lại giữa vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị, ngay khi chiếm được Thăng
Long, họ Tôn tính chuyện đánh vào Thuận Hóa nên yêu cầu vua Chiêu Thống
sắm sửa vật liệu và nhân công để đóng thuyền. Ðây là một việc ngoài tầm
tay của triều đình miền Bắc vì việc kiến tạo tàu bè không phải là việc
có thể thực hiện trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, đó chỉ là mặt ngoài vì bên
trong vua Càn Long thấy rằng việc đem quân vào Quảng Nam rất phức tạp,
hầu như không thể nào có đủ nhân công và phương tiện thiết lập một hệ
thống đài trạm gần 3000 dặm để yểm trợ cho đại quân nên ông ra lệnh rút
về càng sớm càng tốt.
Chính vì chuẩn bị triệt binh, Tôn
Sĩ Nghị không chấp thuận những yêu cầu tiến quân mà vua tôi nhà
Lê đề nghị. Việc thiếu thông tin đã khiến cho người Bắc Hà cho rằng vua
Lê bạc nhược, lệ thuộc, Tôn Sĩ Nghị khinh địch, ham vui, thiếu cảnh giác
là nguyên nhân chính khiến quân Thanh đại bại.
2. DIỄN TIẾN MẶT TRẬN
Trong một báo cáo lên vua Càn Long Tôn Sĩ Nghị đã nhắc lại lời tường thuật của Phan Khải Ðức khi về hàng là “Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh kéo sang đã bỏ trốn về Thuận Hoá nhưng hẹn sẽ đem binh quay lại tái chiếm Lê thành” để
ngầm nhắc triều đình rằng việc triệt binh một cách vội vã sẽ đưa mọi
việc trở lại tình trạng cũ. Chúng ta không xác định được những lời đó có
thực hay chỉ là bịa đặt của tổng đốc Lưỡng Quảng để dễ bề xin vua Càn
Long thực hiện kế hoạch tiến đánh Phú Xuân và tìm cách chiếm nước ta làm
quận huyện.
Tuy nhiên, thắng lợi quá nhanh chóng và
dễ dàng của Tôn Sĩ Nghị khiến cho người khác muốn tranh công. Phú Cương,
tổng đốc Vân – Quí vốn người Mãn Châu, trước đây được lệnh sai Ô Ðại
Kinh đem 5,000 quân đến đóng ở Bạch Mã để “thanh viện”, vội vàng xin vua vua Càn Long cho mình chỉ huy một cánh quân tiến sang bắt sống Nguyễn Huệ [hoặc đóng vai “ông Thiện” để
Nguyễn Huệ có thể đến đầu hàng]. Cánh quân Vân – Quí tiến xuống Tuyên
Quang rồi thuận đường đi thẳng xuống Bạch Hạc, trên danh nghĩa là tạo
thành thế “ỷ dốc” để đánh ngang hông nếu Nguyễn Huệ ra Bắc nhưng thực ra có ý tranh tiên, phỗng tay trên cơ hội của Tôn SĩNghị.
Chính vì e ngại Phú Cương làm hỏng việc
của mình, Tôn Sĩ Nghị [với sự phụ hoạ của tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh
Thanh] đã nêu lên những khó khăn trong việc thiết lập thêm 50 đài trạm
xuống Thuận Hoá cùng việc tuyển mộ thêm hơn 100,000 dân phu làm công tác
chuyên chở binh lương để xin vua Càn Long chuyển gánh nặng sang cho
cánh quân Vân – Quí.
Ðể khỏi sa lầy một lần nữa tại Ðông
Nam Á [trước đây quân Thanh đã từng sa lầy tại Miến Ðiện trong bốn lần
xâm lăng từ 1765 đến 1776], vua Cao Tông ra lệnh triệt binh, lấy cớ công
tác cơ bản là lấy lại nước cho nhà Lê đã hoàn thành, phần đất phía Nam
vốn thuộc Chiêm Thành, không phải thuộc An Nam, chẳng việc gì phải “hao tốn lương tiền thêm nữa”.
Tuy nhiên, Tôn Sĩ Nghị đối diện với một thực tế khó xử là vua Lê chỉ là
tầm gửi, một khi không còn sự bảo hộ của quân Thanh, triềuđình nhà Lê
không thể nào tự tồn được.[234]
Vả lại, theo suy nghĩ chủ quan, ông ta
tin rằng chỉ cần áp lực thêm một chút là Nguyễn Huệ sẽ đầu hàng và Thanh
triều sẽ có thể khống chế cả hai bên khứng hợp với ước vọng của vua Càn
Long là tương lai sẽ có hai thuộc quốc, trên là An Nam, dưới là Quảng
Nam [tức Chiêm Thành cũ]. Chính phân vân và dự tính đó đã khiến Tôn
Sĩ Nghị chần chừ không muốn rút quân, mặc dù chưa đưa ra một chương
trình rõ rệt.
Trong hơn một tháng đóng quân tại Thăng
Long, Tôn Sĩ Nghị không những không bố trí tiến sâu hơn mà còn ngăn cản
quân nhà Lê muốn giao tranh với nhóm Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đang đóng ở
Tam Ðiệp. Như bất cứ một thất bại nào, người đời sau thường chê trách
những người mà họ biết nên phần lớn chỉ chép về sự nhu nhược, lệ thuộc,
bất tài của vua Lê và những cận thần qua hành vi đến chầu Tôn Sĩ Nghị để
nhận lệnh như một kẻ bù nhìn. Lịch Triều Tạp Kỷ chép:
… Khi ấy, tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã thu được đô thành Thăng Long, tự cho là xong xuôi mọi việc, giữ quân ở Tây Long không có ý ngó ngàng gì tới phương Nam nữa. Các thần dân ứng nghĩa của 4 trấn Thanh Nghệ hàng ngày tới trước cửa quân doanh xin cho tiến quân vào Nam, đều bị Nghị bỏ qua không đếm xỉa tới. Vua Chiêu Thống ngày đêm van xin, Nghị cũng nói khéo để thoái thác. Vừa lúc ấy, có chiếu của vua Thanh đưa đến, ra lệnh cho Nghị phải tiến hành, và thu phục toàn bộ đất đai của vua Lê mới được đưa quân về, nhưng Nghị vẫn cứ ở lại Thăng Long để chỉ huy điều động.[235]
Thực tế lúc đó cho thấy chính Lê Duy
Kỳ và những người theo ông đều không biết nhà Thanh đang mưu định gì. Họ
lại càng không biết gì về phía “địch” [nghĩa là phía Tây
Sơn] khi tin tức từ hai miền bị ngăn cách nên hoàn toàn thụ động với
tình thế. Trong khi triều đình vua Lê đinh ninh quân Thanh sẽ tiếp tục
tiến lên thu phục các vùng đất ở phía nam, nhưng Tôn Sĩ Nghị lại tính
một sách lược mềm mỏng hơn để thu phục Nguyễn Huệ ngõ hầu có thể rút
quân về cho êm thắm.
2.1. Tình Hình quân Thanh
Theo những miêu tả ghi nhận trong các
tấu triệp, quân Thanh đóng tập trung ngay tại ngoại ô Thăng Long, gần bờ
sông cho tiện việc sinh hoạt, thiết lập cầu phao làm phương tiện giao
thông. Ðể bảo vệ cho đại quân, Tôn Sĩ Nghị sai các tướng đem
quân đóng đồn ở phía nam kéo dài đến mấy chục dặm. Vì chưa có
những đụng độ lớn nên quân Thanh lại quay về với lối sống của một
quân đội thời bình, nặng hình thức, ít thực dụng. Ðám Hoa kiều sống nhờ
trên đất nước ta lập tức tổ chức những sinh hoạt vui chơi, hưởng lạc để
phục vụ đoàn quân từ chính quốc.
Thời gian chờ đợi đó lại đúng dịp giáp
Tết nên không khí khá nhộn nhịp, nhất là có thêm hàng vạn phu phen di
chuyển ngày đêm trên trục lộ tiếp vận từ Quảng Tây xuống Thăng Long.
Thành phần ngoại nhập đó cũng mang theo những thói quen mất vệ sinh,
tranh giành, thô tục, nhất là cướp bóc, o ép làm gia tăng ác cảm của dân
chúng. Tôn Sĩ Nghĩ lại muốn tâng công với Thanh triều nên tìm đủ
cách để tàn sát người Việt, cắt tai báo thưởng.[236] Trần Nguyên Nhiếp, một đô ti trong quân Tôn SĩNghị ghi lại:
Ngày 25 tháng Một,[237] đại binh chiếm lại kinh đô nhà Lê. Sắp xếp triều đình an dân.[238] Vì nghịch Nguyễn[239] đã chạy đi ẩn náu ở nước Thanh Hoa rồi nên tađóng quân ngay tại Lê thành, ngày ngày thao luyện để tăng quân uy. Từ kinh đô nhà Lê về phía nam, quân ta đóng trại liên tiếp bốn mươi dặm, tính kế chiêu phục Nguyễn nghịch xong sẽ lập tức rút về Nam Quan.
Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp nơi, lẻn vào đại doanh thám thính hư thực. Các doanh tra xét bên ngoài, hỏi dò bên trong, bắtđược những kẻ vào buôn bán, cắt tóc hay bán thuốc hút đều đem ra chém. Những nơi chứa lương hướng, hoả khí của ta đều có tai mắt của giặc, tuy đã tra xét nghiêm nhặt và bêu đầu nhưng từ trong núi non rừng rậm, dư đảng của giặc vẫn vào ra vô thường. Quân ta ở nơi yên chướng mưa gió xứ man, ngày đêm tuần tra qua lại liên tục như mắc cửi. Có điều vào sâu trọng địa, đại công đã xong, ngày ngày chỉ có việc duyệt binh còn việc rút quân chưa nghe gì cả.
Tôn Sĩ Nghị cho rằng Nguyễn Huệ sợ mình nên tung ra nhiều tờ hịch kêu gọi đầu hàng, còn lính tráng thì lấy cớ đã “giải phóng” cho dân miền Bắc khỏi tai hoạ của Tây Sơn nên chỉ lo “hội hè, chè chén, ăn uống thô tục”.
Vì những thắng lợi từ Lạng Sơn xuống Thăng Long quá dễ dàng nên tướng
lãnh nhà Thanh đều cho rằng Nguyễn Huệ sẽ chỉ cố thủ ở phần đất hiện có
mà không đủ khả năng đánh ra Bắc, nhất là những thế lực thù nghịch
của ông hiện đang đe doạ ở phía Nam.[240]
Nguyễn Huệ cũng tương kế tựu kế “gửi thư cho Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, giả vờ nhún mình nhận tội, và nói rằng không biết thiên triều có chịu xá tội cho không, nên chưa dám sai sứ đi xin tha tội”.
Không biết đây có phải là một kế hoạch để cho Tôn Sĩ Nghị thêm tin
tưởng vào kế hoạch tái lập nước Chiêm Thành của vua Cao Tông, trong thư
gửi nhà Thanh Nguyễn Huệ lại viết rằng “… thần vốn là dòng dõi của quốc vương Chiêm Thành, cha ông bị mất nước nên phải trốn đến đất Tây Sơn, ấn bạc của triều trước sách phong cho vẫn còn đoù”. Tôn Sĩ Nghị lại ra chiều kẻ cả, gửi thư ra lệnh cho vua Quang Trung “… phải rút quân về Thuận Hoá để chờ nghe xét xử, không được liều lĩnh làm càn, mà chuốc lấy tội.”[241]
2.2. Từ Ninh Bình Ðến Thăng Long
Trước khi tiến ra Bắc, vua Quang Trung
tập hợp đại binh tại châu Thọ Hạc [thuộc Ðông Sơn, Thanh Hoá] để
tỏ ý chí sắt đá quyết tâm đánh bại quân Thanh. Lịch Triều Tạp Kỷ chép:
… Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng:
– Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết hết lũ chó Ngô. Nếu không muốn đánh, hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy vạn mạng người cho coi, chứ không phải là nói khoác đâu!
Nói xong các quân đều dạ ran như sấm, núi rừng rung động, chiêng trống vang rền, hành quân tiến gấp.[242]
Cuộc duyệt binh vĩ đại và hùng tráng này được nhiều nguồn ghi lại, nhiều tài liệu còn ghi những lời nói hùng hồn như một dạng “hịch tướng sĩ” nhưng rất tiếc chúng ta không có được những tài liệu khả tín nên không biết chính xác đến mức độ nào.[243]
2.2.1. Ðụng độ với quân nhà Lê
Theo những tường thuật của các giáo
sĩ tại Ninh Bình, Nam Ðịnh, quân Tây Sơn tuy đã rút về Tam Ðiệp nhưng
vẫn cố thủ ở nhiều nơi mặc dù chưa đụng độ trực tiếp với quân Thanh.
Ngoài bộ chỉ huy của Ngô Văn Sở bí mật rút đi trước, các toán quân đóng
rải rác tiếp tục giao tranh với quân nhà Lê [nổi lên khi nghe tin quân
Thanh sang] trong khoảng một tháng từ khi Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long (20
tháng Một năm Mậu Thân) cho đến cuối năm. Những trận chiến đó tuy lẻ tẻ
nhưng không phải là không khốc liệt và cả hai bên đều thiệt hại.
Ngô Huy Dao, một nho sĩ thần tử nhà Lê đã viết trong một khúc ngâm
của ông như sau:
… Lại phân sai sắp bày tiến thảo,
Hội giáp công các đạo tranh tiên.
Mặt Nam thời chú Hàm Xuyên,
Vi thần đại thảo hịch truyền một chương…[244]
Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (nhằm
ngày 20 tháng 1 năm 1789), khi nghe tin đại quân của vua Quang Trung
sắp đến, binh lính của Ngô Văn Sở cảm thấy lên tinh thần và bắt đầu các
chiến dịch phản công. Một đạo quân Tây Sơn giao tranh với quân nhà Lê
gần Kẻ Vinh,[245] thắng trận rồi đảm trách nhiệm vụ tiên phong tiến lên trước.[246] Những giáo sĩ đã viết như sau:
… Ngày nào cũng vậy, người ta chỉ thấy các sứ giả đem hung tín về tới thủ đô. Trong khi đó, các sĩ quan Trung Hoa, bỏ qua tai những lời kêu than và vô tình trước những đại bại [của quân nhà Lê], chỉ biết kêu gọi Tư Mã [Ngô Văn Sở] và quân Nam kỳ đầu hàng hay ra giao chiến thử tài...[247]
Ngày 29 tháng Chạp [24-1-1789], quân Tây
Sơn bắt đầu tấn công. Ngày 30 tháng Chạp [25-1-1789] vượt sông Gián
[Giản Thuỷ] đánh vào lực lượng của Hoàng Phùng Nghĩa. Quân nhà Lê tan
vỡ, Nguyễn Huệ thừa thắng tiến theo đường Thanh Quyết tiêu diệt một
số đồn trại lẻ tẻ ở Nguyệt Quyết, Nhật Tảo.
2.2.2. Ðụng độ với quân Thanh
Theo tấu thư của Ô Ðại Kinh nhà Thanh
nhận được ngày 20 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [14-2-1789] thì ngày 25 tháng
Chạp năm Mậu Thân [20-1-1789], y tiến quân ra khỏi Tuyên Quang, ngày
29 đến Bạch Hà, chỉ còn cách Thăng Long 120 dặm. Y bèn đem toàn bộ lực
lượng giao lại cho phó tướng Ðịnh Trụ đóng lại đây rồi lênđường đi gặp
Tôn Sĩ Nghị.[248]
Ðúng ngày tết Nguyên Ðán, Ô Ðại Kinh hội
kiến với Tôn Sĩ Nghị tại bờ sông Phú Lương [tức Nhĩ Hà] để bàn thảo
tình hình và theo lệnh vua Càn Long soạn thảo hịch văn để gửi cho Nguyễn
Huệ. Trong hịch văn này, họ Ô ra lệnh cho Nguyễn Huệ phải “lập tức chạy đến quân doanh của y để tâu xin đại hoàng đế thi ân, mở cho một đường sống”.[249]
Tôn Sĩ Nghị cũng viết giùm cho Ô Ðại
Kinh hai bản hịch văn gửi cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cho người chia
hai đường mang đi, sau đó họ Ô quay về Bạch Hà. Những chi tiết mà các
giáo sĩ ghi lại có lẽ là nội dung của các bản hịch dụ này. Như thế, ngay trong ngày đầu năm Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị và các tướng nhà Thanh vẫn còn khệnh khạng, tưởng chừng như có thể tự tung tự tác và hoàn toàn không e ngại gì về lực lượng của Nguyễn Huệ đang tiến tới gần.
Theo những miêu tả của tàn quân Thanh
sau khi thua chạy, quân Nam đa diện giáp công để quân giặc không cứu
ứng được nhau. Nhiều đồn luỹ của quân Thanh cũng khá kiên cố và quân Nam
phải thay đổi chiến thuật liên tục cho phù hợp với tình thế. Các sử gia
Trung Hoa khi đề cập đến trận đánh đầu năm Kỷ Dậu dùng những câu như “Nguyễn Văn Huệ tam hãm Lê Thành” (Nguyễn Văn Huệ ba lần đánh Thăng Long) để nhấn mạnh là quân Nam không phải chỉ tấn công một lần là xong.
Một cách tổng quát, Nguyễn Huệ điều động
nhiều binh đội tấn công đồng loạt vào nhiều vị trí khác nhau dọc từ
Nam Ðịnh lên Hà Ðông. Quân nhà Lê tan vỡ đã đành mà các toán tiên phong
của Hứa Thế Hanh (許世亨) cũng không chống cự nổi. Trong khi địch còn hoang
mang cố thủ để chờ tiếp viện thì trung quân của Nguyễn Huệ tiến lên,
dùng chiến thuật biển người tràn vào. Những đoàn quân tinh nhuệ
nhất, được trang bị hỏa lực tối tân nhất, kể cả hỏa hổ, hỏa long trùng
trùng lớp lớp, tràn lên như những đợt sóng triều cuốn hết những chướng
ngại ngăn trở đường ra kinh đô.
Theo tài liệu của Trung Hoa thì sau một
ngày yến ẩm, sáng mồng 2 Tết [27-1-1789] [giờ Mão, khoảng 6-8 giờ], Lê
Chiêu Thống chạy đến báo cho Tôn Sĩ Nghị rằng thám thính cho hay Nguyễn
Huệ đã đem quân vượt sông kéo đến rồi, lại phao lên rằng vì mẹ con họ Lê
cầu cứu quân Thanh khiến cho đại binh tiến sang giết mất mấy nghìn binh
sĩ của họ, nên quân Tây Sơn nhất quyết báo thù. Tôn Sĩ Nghị ghi trong
tấu chương của y rằng “Lê Duy Kỳ khẩn thiết kêu xin với hạ thần, chỉ mong hai mẹ con được đưa về nội địa (tức Trung Hoa), xin Ðại Hoàng Ðế cho cơm ăn, mong toàn tính mạng, không còn thiết gì đến chức An Nam quốc vương nữa”. Thấy vậy Tôn Sĩ Nghị nghĩ đến nghĩa lớn nên vỗ về an ủi khiến họ Lê “gạt nước mắt mà đi”.[250] Tuy nhiên, nhiều lời khai của những người tham dự có khác biệt mà chúng ta cần tìm lại sự thật.[251]
Tôn Sĩ Nghị liền cùng Hứa Thế Hanh liền truyền lệnh cho chư tướng sĩ rằng “cứ xem như thế này thì quân giặc đã đang trên đường tới đây, chẳng mấy chốc sẽ chiếm cứ An Nam, giết hại mẹ con Lê Duy Kỳ, trước đây quân ta không tấn công chúng ngay được, chỉ vì đường sá xa xôi, lương thực khó khăn không dễ mà làm. Ðến nay Nguyễn Văn Huệ muốn chiếm An Nam ắt sẽ tự mình đem quân đến, chẳng qua cũng vì ta vướng mắc nên đã không phụng thánh chỉ triệt binh, bỏ mặc y không lo tới”.[252]
Tôn Sĩ Nghị thấy tình hình nguy cấp vội
sai tổng binh Trương Triều Long tuyển 3000 quân tinh nhuệ chia ra đóng ở
Hà Hồi, Ngọc Hồi cự địch. Thế nhưng Nguyễn Huệ quân đông thế mạnh nên
họ Tôn lại phải sai Hứa Thế Hanh dẫn 1500 binh, còn y đích thân dẫn 1200
binh đi theo tiếp ứng. Tôn Sĩ Nghị cũng phi hịch điều động cánh quân
Vân – Quí [đang ở Sơn Tây] ứng chiến để chia lực lượng quân Tây Sơn. Các
cánh quân nhà Lê của Lê Duy Chỉ, Phan Khải Ðức, Trần Quang Châu cũng
vội vàng tiếp cứu tuy có thắng được vài trận nhỏ nhưng về sau đều
bị đánh bại phải chạy về.
2.2.3.Trận Hà Hồi
Theo sử nước ta, ngày mồng 3 tháng Giêng
năm Kỷ Dậu [28-1-1789], ngay từ tờ mờ sáng quân ta đã kéo đến, đốt sạch
quân lương của địch. Vua Quang Trung đích thân chỉ huy, buộc khăn vàng
vào cổ để tỏ cho quân sĩ biết phải liều chết chứ nhất định không chịu
lùi. Suốt ngày mồng 3 tháng Giêng [28-1-1789], Trương Triều Long mấy
lần đẩy lui được đạo tiền đội của Nguyễn Huệ nhưng đến tối hôm đó thì
quân Nam lại tấn công. Cũng theo tài liệu của nhà Thanh, sang ngày mồng
bốn [29-1-1789], quân Tây Sơn kéo đến như đàn ong, vây kín chung quanh
doanh trại của Trương Triều Long.
Buổi sáng, lực lượng công hãm chủ yếu là
bộ binh và các đơn vị cơ giới, đến trưa có thêm một số voi. Quân Nam
dùng nhiều loại hoả khí như hoả hổ, hoả cầu, hoả long … là các tên lửa
thông dụng vùng Ðông Nam Á [được dùng rộng rãi từ Miến Ðiện đến Xiêm La,
Nam Chưởng] để đốt cháy các công sự và thành luỹ củađịch.[253] Trương
Triều Long và phó tướng là Dương Hưng Long hết sức chống giữ, cầm cự
liên tục một ngày một đêm để chờ viện binh, sau cùng đành phá được vòng
vây bỏ chạy, quân ta lập tức đuổi theo.
Lực lượng của Hứa Thế Hanh mới được điều
lên lập tức bố trí chặn hậu hợp lực với tàn quân Thanh vừa chạy về vừa
chống đỡ vừa cho kỵ binh dàn thành thế trận ngăn chặn quân Nam. Kỵ binh
nhà Thanh tuy vẫn nổi tiếng là tinh nhuệ nhưng vẫn còn trang bị cung
tên, gươm giáo (súng chỉ bộ binh mới có vì chưa tiện cho việc nạpđạn khi
ngồi trên lưng ngựa, không tiện lợi bằng cung nỏ).[254]
2.2.4. Trận Ngọc Hồi
Sáng sớm ngày mồng năm tháng Giêng, vua Quang Trung “tự mình đốc chiến” tập trung toàn bộ chiến tượng xua đi đầu, các cánh quân khác ùn ùn từ các nơi đổ xuống.[255] Lịch Triều Tạp Kỷ chép:
…Không ngờ, hôm ấy, khi trời chưa sáng, Văn Huệ tự mình đốc chiến, dùng hơn 100 thớt voi hùng dũng đi đầu, quân tinh nhuệ tiến theo sau, đánh nhau to hồi lâu. Những con ngựa của quân kỵ và tướng soái nhà Thanh, trông thấy voi thì đều hí vang rồi quay đầu chạy lui. Lính bộ quân Thanh bị voi dầy xéo liền chạy cả vào trong hàng rào, bắn súng lớn liều chết cố thủ. Huệ và các thuộc tướng gấp rút xua voi xông pha tên đạn, nhổ rào luỹ mà tiến vào …[256]
Theo tài liệu của Hội Truyền Giáo Bắc
Hà, quân Thanh chống trả rất kịch liệt khiến quân ta bị chết mất khá
nhiều voi, Nguyễn Huệ phải bỏ voi cưỡi ngựa, xông lênđầu chỉ huy sĩ tốt.
… Ngày 30-1 [mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu] Quang Trung rời Kẻ Vôi trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo 2 cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính TH [Trung Hoa] làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu ...[257]
Thủ bị Lao Hiển (勞顯) bị bắt làm tù binh, khi được trao trả đã khai rằng:
Y theo Thượng tổng binh (tức Thượng Duy Thăng) và tham tướng Vương Tuyên đem quân đóng ở đường nhỏ phía nam Lê Thành (tức Thăng Long). Ngày mồng bốn tháng Giêng, quân giặc kéo đến, Lao Hiển đi theo tham tướng đem quân tiếp ứng, đến sáng sớm ngày mồng năm, mấy nghìn quân giặc vây kín doanh trại mà binh còn trong trại không bao nhiêu, Lao Hiển ra lệnh cho lính dùng súng bắn ra, đến trưa thì quân địch càng lúc càng đông, voi cũng đã đến, bắn hỏa tiễn, hỏa cầu như mưa khiến quan quân tán loạn. Sức thấy không giữ nổi nên Lao Hiển vội đem quân phá vòng vây chạy ra khỏi doanh, bị quân giặc dùng giáo đâm vào bụng ngựa, ngã vật xuống, chân bên phải lại trúng thương, không chạy được nữa, nên bị quân giặc bắt đưa vào một căn nhà trống trong thành… Mỗi ngày họ có cho người đem cơm đến, đến ngày 16 tháng 2 (tức bị giam 40 ngày), quân giặc cho ngựa, cùng tất cả các binh sĩ (cùng bị giam) được thả ra. Y nói chưa từng gặp Nguyễn Huệ, chỉ nghe nói Thượng tổng binh, Vương tham tướng bị quân giặc vây đã chết rồi nhưng không chính mắt trông thấy chuyện đó.[258]
Theo miêu tả của Trần Nguyên Nhiếp, một tướng lãnh cấp nhỏ [du kích đề tiêu] của nhà Thanh tham dự trực tiếp mặt trận này thi:
Ngày mồng 1 tháng Giêng năm Càn Long 54 [26-1-1789], quân giặc thừa lúc quân ta ăn Tết từ trong núi đột nhiên đổ ra khắp nơi, phất cờ la hét, tư thế cực kỳhung mãnh. Quân ta vội vàng kết trận nghinh địch. Lại phái binh ra bốn ngả sắp xếp phòng ngự và tiếp ứng lẫn nhau.
Từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4, liên tục chiến đấu suốt bốn ngày đêm. Người bị trúng đạn và bị thương vì gươm đao không biết bao nhiêu mà kể.
Sáng sớm ngày mồng 5, voi từ phía sau núi kéo ra. Ta vội vàng dùng đại pháo oanh kích tượng trận. Voi liền chia thành hai cánh vòng ra đằng trước xông thẳng vào đại doanh, Khi đó thế địch đông, ta phải phân ra chống giữ. Quân giặc tập trung như kiến, mạnh như sóng biển ập vào. Nghe nói đại doanh đã bị trận voi xông vào đốt cháy vì chưng mỗi con voi trên lưng đủ chỗ cho ba bốn tên giặc đầu quấn khăn đỏ ngồi ném các loại lưu hoàng, hoả cầu vào mọi nơi đểđốt người.
Tuy nhiên, đội tượng binh cũng chỉ có
tác dụng giới hạn và không thể vượt qua được hoả lực của quân Thanh,
chưa kể gần đồn còn những chướng ngại vật và hào nước. Sau khi bị thiệt
hại khá nặng, Nguyễn Huệ phải cho voi thoái lui đưa khinh binh trang bị
dao ngắn và hoả hổ, đẩy các loại xe chắn lót rơm tiến lên. Trong
thànhđịch bắn ra như mưa nên quân ta không vượt qua được hào sâu, địa
lôi và chông sắt của địch.[259] Quân
Thanh đốt thuốc súng để làm màn khói nhưng một lát sau gióđổi chiều,
quân ta liền nhất loạt xông lên, cuối cùng cũng vào được trong đồn.[260]
Ở đây chúng ta có thể mở một dấu
ngoặc để đưa ra một số chi tiết về kỹ thuật công đồn (siege techniques)
của vùng Ðông Nam Á mà Nguyễn Huệ đã áp dụng hay ít ra cũng rút kinh
nghiệm khi ông đem quân vây thành Qui Nhơn nhiều tháng liền. Chính thất
bại này đã khiến ông nhìn ra được sự bất lợi về hao tổn lực lượng và
tiếp vận nếu đối phương cố thủ trong một thời gian dài nên ông luôn luôn
khai thác ưu điểm về nhân lực, vũ khí trong một cuộc chiến chớp nhoáng.[261]
Những miêu tả là dùng ván [Liệt Truyện] hay các cuộn rơm [Cương Mục] trong sử triều Nguyễn có lẽ là một số lá chắn bằng gỗ bọc rơm có bánh xe để tiến đến gầnđồn, sau đó dùng ngay những lá chắn đó làm cầu để vượt qua hào chông của địch. Phương thức công thành đó tương đối thông dụng, đã từng được sử dụng tại MiếnÐiện, Xiêm La và nhiều nơi khác.[262] Những
loại xe khổng lồ do người đẩy hay dùng dây thừng kéo khi vào được trong
thành lại dùng như vật liệu dẫn hoả để đốt doanh trại địch và là một
loại chiến xa công thành khá độc đáo của vùng Nam Á. Loại lá chắn này
cũng giúp cho bộ binh không bị chôn chân tại một điểm cố định và thừa
thế núp đàng sau tiến vào công thành.[263]
Trước kia, khi binh sĩ chỉ cận chiến
bằng các loại võ khí thô sơ như gươm giáo, cung tên việc che chắn khó
thực hiện và nhiều khi không cần thiết. Áo giáp là hình thức bảo vệ
thông dụng hơn cả. Ðây là lần đầu mà cả hai bên, ta cũng
như địch, đã dùng hoả khí [súng ống, đại pháo] trong một qui mô lớn để
chiếm ưu thắng, chiến thuật công đồn đã thay đổi. Cải tiến kỹ thuật này
là lần đầu tiên được áp dụng nên người dân Bắc Hà chưa từng chứng kiến,
việc tường thuật không khỏi pha chút hư cấu, miêu tả thành ván bọc rơm
mà nhiều tác giả tỏ ý nghi ngờ về phương pháp và hiệu quả của nó. Con
rồng lửa nhắc đến có lẽ là những loại phi pháo của các nhóm hải phỉ
thường dùng để đốt tàu địch chứ không phải là những bùi nhùi bằng rơm
như một số sách vở chép. Tài liệu người Thanh cũng chép là quân Nam bắn
rất nhiều hoả cầu, hoả hổ, hoả long. Nói tóm lại, chiến thắng Kỷ Dậu nhờ
vào quân số áp đảo cộng với hoả lực mạnh của quân Nam.
Theo lời khai và tấu chương của Tôn
Sĩ Nghị thì họ Tôn thấy tình hình nguy cấp, quân Nam đã vây bốn bề nên
ra lệnh cho tướng sĩ phải tử chiến một trận để báo hoàng ân, bọn Hứa
Thế Hanh đáp lời xông lên trước, sau khi bắn hết đạn rồi dùng đoản binh
(tức dùng gươm giáo) đánh cận chiến.[264] Quân
Thanh càng đánh thì quân ta càng kéo đến đông hơn. Trong hai ngày huyết
chiến, những đại tướng như như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng
Duy Thăng … đều tử trận.[265] Ðây
là trận đánh kinh hoàng nhất và quân Nam cũng bị thiệt hại nhiều tuy sử
sách không ghi chép rõ rệt. Riêng các giáo sĩ ghi nhận rằng bên ta
thiệt hại ít nhất là 8000 người trong đó có cả một tướng lãnh cao cấp
là Ðô Ðốc Lân.[266]
Khí thế dũng mãnh đó khiến quân Thanh
hoảng hốt bỏ chạy bị quân Nam tàn sát, chết và bị thương đến quá nửa.
Hứa Thế Hanh thấy tình hình không cự nổi, đành gọi gia nhân đem ấn
tín đề đốc vượt sông đem về Trung Hoa như một quyết định sẽ đánh đến
chết mới thôi.[267]
2.2.5. Trận Ðống Ða
Quân Nam không dừng lại lập tức tiến
lên đánh vào Khương Thượng (Ðống Ða), phía tây nam ngoại thành Thăng
Long. Ðồn này do Sầm Nghi Ðống và toán quân Miêu, rất thiện chiến trấn
giữ.[268] Sầm Nghi Ðống chỉ huy độ 1,000 binh chống giữ rất hăng, một số lớn bị giết số còn lại đến ngày hôm sau mới ra hàng.[269] Các
tài liệu của Việt Nam viết rằng Sâm Nghi Ðống thắt cổ tự tử nhưng theo
các quân sĩ chạy về được thì Sầm Nghi Ðống bị chém đứt một cánh tay,
ngã ngựa rồi bị giết. Hài cốt của y sau được con cháu sang nhận đem
về và người Trung Hoa có xây cho y một ngôi miếu ở Hà Nội, sau này gọi
là ngõ Sầm công. Nhiều người nhận lầm ngôi miếu này là ngôi đền Nguyễn
Huệ dựng cho các tướng nhà Thanh ở phía nam Thăng Long[270] theo yêu cầu của vua Càn Long.[271]
3. QUÂN THANH RÚT CHẠY
3.1. Vượt sông Nhị Hà
Sáng ngày mồng 5 Tết [30-1-1789], các
cánh kỵ binh, tượng binh và thủy binh của Nam quân từ ba mặt cùng
kéo đến vây Thăng Long. Trong khi các tướng liều chết chống cự, Tôn
Sĩ Nghị vội vàng đem mấy trăm thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà chạy
về bắc khiến binh lính, dân phu hoảng hốt chạy tán loạn. Các tướng lãnh
thấy thế cũng không còn lòng dạ nào chiến đấu nên cũng lật đật tháo
chạy. Ngay sau khi qua sông, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt cầu khiến một
số đang đi trên cầu rơi xuống sông chết đuối.[272] Trong số người nịch tử có một số tướng lãnh nhà Thanh, những người chưa qua được đành quay lại huyết chiến cho đến chết.[273]
Theo đúng kế hoạch của vua Quang Trung,
các toán thuỷ, hải quân đã bố trí sẵn trong vịnh Bắc Việt đi theo đường
sông đánh vào các lực lượng quân Thanh canh giữ các đài trạm chứa lương
thực dọc từ Thăng Long lên đến Lạng Sơn.
Ðể biện minh cho việc bỏ chạy thoát thân lấy một mình, Tôn Sĩ Nghị khai rằng “tuy giết được nhiều quân giặc nhưng phải đối phó với cả hai mặt, không biết hay dở sống chết thế nào. Nếu như thần chẳng may trúng phải mũi tên hòn đạn thì e rằng sẽ nhục đến quốc thể nên phải dẫn bọn phó tướng Khánh Thành (慶成),Ðức Khắc Tinh Ngạch (德克精額), tham tướng Hải Khánh (海慶) dẫn hơn ba trăm quân phá vòng vây mà chạy”.[274]
Ðến ngày mồng 6 tháng 2 năm đó [2-3-1789], trong thượng dụ xin vua Càn Long thu hồi tước công của Tôn Sĩ Nghị, lại viết:
Thần Tôn Sĩ Nghị thấy Lê Duy Kỳ bỏ chạy trước, biết rằng chẳng nên ở lại Lê thành làm gì, cũng lập tức triệt binh, đem quân đến bờ phía bắc sông Thị Cầuđứng chờ đại quân.[275]
Những lời tâu của Tôn Sĩ Nghị xem ra
không đúng sự thật và mâu thuẫn với các lời tường thuật của những người
khác. Ngay những lời khai của quân Thanh cũng đãkhông giống nhau.
Trong Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược (欽定安南紀略) để tránh cái tiếng “chưa đánh đã chạy” Tôn Sĩ Nghị đem bản văn đó tô vẽ lại:
Nào hay càng giết địch càng đông, vây đại binh cả bốn bề. Thần cùng với đề trấn [đề đốc, tổng binh] dẫn các tướng xông thẳng vào trước địch quân. Hứa ThếHanh nghĩ rằng thần là tổng đốc đại thần, không thể so với các trấn tướng được, nếu có điều gì sơ sẩy thì quan hệ đến quốc thể, hết sức ngăn trở. Sau đó sai phó tướng Khánh Thành hộ tống. Lại ra lệnh cho thiên tổng Tiết Trung cầm cương ngựa của thần gò lại. Thần vung roi vừa đánh vừa quát mắng, ra lệnh cho y buông ra, Tiết Trung nhất quyết không bỏ.
Thần nghĩ lại lời của Hứa Thế Hanh, quả quan hệ đến đại thể, nên dẫn bọn Khánh Thành, theo phía sau điện mà ra.[276]
Theo tài liệu của Trung Hoa thì số quân
Thanh đóng ở bờ phía nam sông Phú Lương gồm ba ngàn người do tổng binh
Thượng Duy Thăng (尚維昇), phó tướng HìnhÐôn Hành (邢敦行), tham tướng Vương
Tuyên (王宣), thổ quan Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống (岑宜棟) được lệnh rút về tiếp
cứu đề đốc Hứa Thế Hanh. Tuy nhiên những cánh quân đó cũng đang bị
vây đánh, không thể tăng viện cho nhau được. Tôn Sĩ Nghị và bọn Khánh
Thành thì dẫn hơn ba trăm quân định qua cầu nổi, nhưng bị ba, bốn nghìn
quân Tây Sơn truy kích, vừa lúc tổng binh Lý Hóa Long dẫn hơn hai trăm
quân chạy theo đến. Tôn Sĩ Nghị liền sai y đi qua bờ bên kia đóng lại
tại phía bắc để hộ vệ cho ông ta qua sông. Lý Hóa Long chạy được tới
giữa cầu, quính quáng trượt chân ngã xuống sông chết đuối, bọn tuỳ tùng
thấy tổng binh chết rồi càng thêm hoảng loạn. Tôn Sĩ Nghị vội vàng sai
bọn Khánh Thành bảo vệ phía sau, dùng súng bắn chặn, dẫn binh theo phiệt
kiều chạy qua bắc ngạn trước, sau đó chặt đứt cầu nổi khiến cho quân sĩ, phu tướng còn ở phía nam không ai qua sông được nữa, đành phải quay lại tử chiến.[277]
Một tướng nhỏ là Trương Hội Nguyên (張會元) bị bắt làm tù binh khi được trả về cung khai như sau:
Lần này phụng lệnh đóng quân tại phía nam Lê thành cách chừng mười dặm, ngày mồng 5 tháng Giêng, giờ Dần đánh nhau với giặc, giết được rất nhiều tặc phỉ, cho đến giờ Mùi, quân giặc càng giết càng đông, cùng xông cả lên khiến quan binh tán loạn. Hội Nguyên đem quân xung sát đến bờ sông, thấy phù kiều đứt mất rồi, không qua sông được nữa, bên mình chỉ còn độ hơn trăm binh. Hội Nguyên kêu lên rằng không lẽ bó tay chịu chết, chi bằng liều mạng đánh về phía Lê thành, giết được thêm vài đứa giặc thì có chết cũng nhắm mắt. Bọn lính nghe nói thế, ai nấy cố hết sức, theo đường cũ xung sát về hướng Lê thành, bị quân giặc vây bốn bề. Hội Nguyên bị quân giặc dùng giáo đâm trúng bên yết hầu và mạng sườn, mê man ngã xuống ngựa, lại bị chém một đao ở cổ, bất tỉnh nhân sự.[278]
Ðấy là nói về những người không qua được, còn người liều mạng vượt qua thì thế nào. Theo lời Trần Nguyên Nhiếp thì:
Ðến được bờ sông, đại binh tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia. Quần áo giày dép đều ướt sũng, yên cương, ngựa cưỡi cũng mất cả trên cầu.
Cũng ngày hôm đó, cánh quân Vân – Quí
[chỉ có hơn 3000 người] đóng ở Sơn Tây của Ô Ðại Kinh kéo đến sông Phú
Lương để tiếp cứu thì thấy “cầu nổi đã đứt chìm mất rồi, phía bên kia sông lửa cháy rực trời”.
Tuy nhiên tiếng súng đã dứt chứng tỏ quân Thanh nếu không chết thì
cũng đầu hàng. Họ Ô biết rằng đại binh đãthua không dám tham chiến vội
vàng theo đường cũ chạy về nước.[279]
Việc Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy mà chưa từng
chạm mặt với quân Tây Sơn là chuyện do chính y thú nhận, và chính những
nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng ý về điềuđó. Ngoài ra còn những chi
tiết tuy nhỏ bé nhưng lại đóng một vai trò quan trọng khi chúng ta tìm
hiểu về bang giao Thanh – Việt thời hậu chiến. Theo lời tâu của Tôn
Sĩ Nghị, thì “Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn tặc (tức Nguyễn Huệ) đích thân đến đánh, kinh hồn táng đởm, tay bồng con thơ, vội vàng dẫn mẹ vượt sông Phú Lương, chẳng kịp đem theo vợ, dân chúng trông thấy tình cảnh đó, cũng hoảng hốt chạy tán loạn, tin đồn lan đến quân doanh, bọn giặc cũng đã hay biết, nên chúng càng hăng tiết”. Ý của họ Tôn muốn đổ tội cho Lê Chiêu Thống chưa đánh đã chạy làm loạn nhân tâm khiến cho bị đại bại.
Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên – Quyển XLVII thì:
Bấy giờ, đương ở nơi màn tướng, thình lình được tin quân giặc (quân Tây Sơn) đã tiến sát Thăng Long, Sĩ Nghị không biết xoay trở ra sao, bèn nhổ đồn lũy, vượt qua sông chạy. Cầu gãy người chết vô số kể.
Bấy giờ nhà vua (tức Lê Chiêu Thống) đang hội kiến với Tôn Sĩ Nghị ở nơi màn tướng, có tám người theo hầu là Hoàng Ích Hiểu (黃益曉), Nguyễn Quốc Ðống (阮國棟), Lê Hân (黎昕), Phạm Như Tùng (范如松), Nguyễn Viết Triệu (阮曰肇), Phạm Ðình Thiện (范廷僐), Lê Văn Trương (黎文張) và Lê Quí Thích (黎貴適) thì chợt được tin bại trận đưa đến. Sĩ Nghị rút chạy. Nhà vua cũng cưỡi ngựa cùng đi với Sĩ Nghị lên phía Bắc. Riêng Viết Triệu cầm cương ngựa đi theo nhà vua. Nhà vua sai bọn Hoàng Ích Hiểu gấp về nội điện, hộ vệ thái hậu và nguyên tử vượt qua sông. Hoàng đệ Duy Chi (維祗) hộ vệ bọn hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu gãy, không qua sông được, phải hướng về phía tây mà chạy trốn.[280]
Ngày mồng 9 tháng Giêng năm Kỷ Dậu
[3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về đến Lạng Sơn qua Nam Quan trở
về Quảng Tây. Suốt một tháng sau đó, quân Thanh thoát chết chạy được
về theo báo cáo của quan nhà Thanh vào khoảng 8000 người, còn số tử trận
và mất tích khoảng hơn 5000 tên.[281] Trong
khi giao tranh, số lượng dân phu chết không phải là ít nhưng vì họ chỉ
là thành phần được sử dụng tạm thời nên sinh mạng của họ không ai tính
tới. Thanh triều chỉ ghi số binh sĩ chính qui bị giết, còn những giáo
sĩ và sử sách của ta thì ghi cả dân phu.[282]
3.2. Tổn Thất Của Quân Thanh
Tôn Sĩ Nghị khi về đến Quảng Tây, tự
nhận mình đã không điều binh đúng phép khiến cho chiến dịch thất bại nên
xin vua Càn Long cách chức trị tội nhưng chính vua Cao Tông đã phê trên
tấu thư là “sao lại nói thế?” (何出此言 – hà xuất thử ngôn).
Tôn Sĩ Nghị cũng xin một mình được bồi thường tất cả mấy chục vạn lượng
bạc chi phí trong chiến dịch,[283] vua Thanh cũng lại phê “việc gì đến nỗi thế?”.
Tôn Sĩ Nghị trong dạ bất an nên tự ý giao lại bốn vạn lượng bạc cho
Lưỡng Quảng quân doanh để đền bù phần nào tốn phí, quân trang, quân
dụng,[284] vua Cao Tông tuy bất đắc dĩ chấp thuận nhưng cũng phê rằng “việc này thôi cũng được để cho khanhđỡ mất mặt và cho được thoả lòng”.[285]
Vua Thanh chỉ thu hồi lại tước công và
chiếc mũ có gắn hồng bảo thạch đã ban cho Tôn Sĩ Nghị nhưng vì uy tín họ
Tôn đã bị suy sụp nên không thể nào tiếp tục để cho giữ chức vụ bèn ra
lệnh triệu hồi về kinh, đặt dưới quyền điều động của bộ Binh, rồi cử
Phúc Khang An làm tổng đốc Lưỡng Quảng đến Nam Quan tiếp tục giải quyết
công việc.
Tổng số chi phí mà triều đình nhà
Thanh đã tiêu vào cuộc chiến ở Việt Nam là 1,346,508 lượng bạc bao gồm
tỉnh Quảng Tây chi ra 1,057,322 lượng và tỉnh Vân Nam chi ra 289,186
lượng.[286] Trong những chiến dịch lớn mà vua Cao Tông tự hào, chiến dịch này là chiến dịch ít tốn phí hơn cả.
Theo tài liệu chính thức, đề đốc Hứa
Thế Hanh (許世亨), tổng binh Thượng Duy Thăng (尚維昇), Trương Triều Long
(張朝龍), tham tướng Dương Hưng Long (楊興龍), Vương Tuyên (王宣), Anh Lâm (英林),
phó tướng Hình Ðôn Hành (邢敦行), du kích Minh Trụ (明柱), Trương Thuần
(張純), Vương Ðàn (王檀), Lưu Việt (劉越), đô ti Ðặng Vĩnh Lượng (鄧永亮), thủ bị
Lê Chí Minh (黎致明) đều tử trận.[287] Còn đạo quân Vân Nam bố trí từ biên giới đến Thăng Long hơn 30 trạm,[288]Ô Ðại Kinh rút về đến Tuyên Quang ngày mồng 9 tháng Giêng, sau đó theo cửa quan triệt hồi.
Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh
sau khi nghe tin báo đại binh thất trận liền sai tham tướng Vương Lập
Công (王立功) đem 300 quân chạy xuống Lạng Sơn tiếp cứu những người chạy
về, rồi trong hai ngày 10, 11 tháng Giêng [4/5-2-1789] chuyên chở số
binh lương, thuốc súng còn để tại Lạng Sơn về nước.
Quân Thanh trước đây đã thiết lập 17 kho
lương thực dọc theo đường từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, bố trí 5,000
quân chia thành ba toán, 2,000 người ở lại phòng thủ Lạng Sơn, 1300
người chia ra canh gác 17 kho lương thực được thành lập dọc theo
tuyến đường từ Lạng Sơn đến kinh đô, 1700 người khác chia ra canh phòng
các nơi hiểm yếu.[289]
Tuy nhiên, các đài trạm dọc theo đường
từ Lạng Sơn đến Thăng Long quân Thanh không di tản được. Hai viên quan
phụ trách đài trạm là tri huyện Lăng Vân (凌雲) Viên Thiên Quì (袁天逵) và
kinh lịch Trương Thành (張誠) đều tử trận.[290] Theo
báo cáo của quan nhà Thanh thì chính họ đã đốt các kho lương thực và
quân cụ nhưng chỉ là ngoa ngôn để che dấu việc bị quân Nam chiếm đoạt.
Theo các giáo sĩ phương Tây, số lượng “chiến lợi phẩm” quân Tây Sơn thu được rất lớn.
Theo Lại Phúc Thuận thì:
Ngày mồng 5 tháng Giêng năm Càn Long thứ 54 [30-1-1789] Lê thành bị thất hãm, Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt bỏ chạy, dẫn theo 500 quân qua sông, còn bao nhiêu bỏ lại bờ phía nam sông Phú Lương cho địch giết. Ngày mồng 9 tháng Giêng [3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về Lạng Sơn, thu hồi tàn binh. Ngày 11 lui vềđến Trấn Nam Quan. Khi trước Tôn Sĩ Nghị ở Lê thành quân số tổng cộng 5,700 người, thêm tổng binh Thượng Duy Thăng chỉ huy 3,000 người đóng ở bờ sông, tổng cộng 8,700 người, chạy về được đến Trấn Nam Quan hơn 3,000 người. Còn lại hơn 5,000, kể cả những người tử trận ở sông Thị Cầu và bệnh hoạn mà chết, thêm một số về sau chạy được trở về cửa ải. Cuối tháng Ba, tân nhiệm Lưỡng Quảng tổng đốc
là Phúc Khang An báo cáo là ở Trấn Nam Quan mỗi ngày vẫn còn 3, 4 có
khi 7, 8 người qua ải, phần lớn bệnh hoạn hoặc bị trọng thương.[291]
Số quân về được Trung Hoa không phải
là đi cùng Tôn Sĩ Nghị mà là quân Thanh đóng dọc theo trục lộ và nhất là
2000 quân đóng ở Lạng Sơn. Tuy về sau có nhiềuđoàn quân lẻ tẻ chạy
theo đường mòn, băng rừng vượt suối về lại Trung Hoa nhưng không phải đi
theo Tôn Sĩ Nghị như ông ta đã báo cáo.
Cuộc chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu
không phải là không đem đến những tổn thất cho quân ta. Tuy vua Quang
Trung hết sức dấu kín tổn thất của bên mình nhưng quân ta cũng phải
chết đến hàng vạn người và một số tướng lãnh tử trận, trong đó có cả
một đô đốc được an táng rất trọng thể. Riêng trận Ngọc Hồi, theo sự ghi
nhận của các giáo sĩ Tây phương đang ở Bắc Hà, bên ta thiệt hại ít ra
cũng phải 8000 người.[292] Nguyễn Huệ sau khi đánh thắng quân Thanh, ông lập tức xúc tiến việc phòng thủ bằng cách bắt tất cả binh lính và dân chúng “xây một lũy đất dầy 6.6 m (20 feet), cao 3.6 m (12 feet) chung quanh điện của Chiêu Thống”,[293] đồng
thời sai Ngô Văn Sở đem truy binh đuổi theo nhưng bị địch đẩy lui. Ðây
cũng là một câu hỏi cần được đặt ra vì theo các chi tiết từ sử liệu
Trung Hoa, không có một trậnđánh lớn nào xảy ra sau khi quân
Thanh đã thua chạy và họ cũng không có đủ thời giờ hay phương tiện để
ngăn chặn quân Nam. Số lượng quân Thanh đóng giữ tại cácđài trạm cũng
không nhiều, làm nhiệm vụ canh gác hơn là chiến đấu nên hầu như không
nơi nào có điều kiện để chiến đấu mà chỉ mạnh ai nấy chạy khi nghe
tin đại binh đã thua.
Nhiều chi tiết cho chúng ta một kết luận
là chính vua Quang Trung không muốn đuổi tận giết tuyệt vì còn để một
khoảng trống ngõ hầu tiến hành việc bang giao với nhà Thanh, một sứ mạng
mà ông cho rằng quan trọng hơn một thắng lợi quân sự. Nguyễn Huệ đã có
một kế hoạch “giữ thể diện” cho nhà Thanh trước khi ông tấn công
nên hết sức tránh những động thái nào có vẻ như khiêu khích đối phương,
và sau khi lấy lại Thăng Long rồi ông cũng cố gắng giảm thiểu việc truy
sát. Theo những lời khai của tù binh và quân sĩ chạy về được, thái độ
của quân Nam xem ra rất độ lượng trong việc đối xử cũng như tạo cơ hội
cho họ khỏi mất mặt. Xem như thế, vua Quang Trung đã có một chính sách
cụ thể và minh bạch ngay từ đầu về mục tiêu tái lập bang giao với Trung
Hoa.
Dân chúng sống trong vùng biên giới ở
nam Trung Hoa khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại, e ngại một cuộc tập kích
tiếp theo nên cũng hoảng vía thu dọn tài sản chạy loạn. Về việc này, sử
nước ta có phóng đại ít nhiều nhưng không phải là không có. Chính trong
một mật chỉ của vua Càn Long gửi Phúc Khang An cũng có đề cập đến việc
cử ông ta tới làm tổng đốc Lưỡng Quảng nhằm mục đích “trấn định nội địa nhất đái nhân tâm” [để làm yên lòng người một dải biên giới].[294]
Trong thời gian mấy tháng liền, vua
Quang Trung đã phòng ngự cẩn mật đề phòng một cuộc đại chiến thứ hai
và đến khi thấy việc thông hiếu với nhà Thanh đã hình thành, ông mới đem
chiến lợi phẩm về Phú Xuân.
Theo Thanh Cao Tông thực lục thì trong bản văn tế “Xuất Sư An Nam Trận Vong Tướng Sĩ” (出師安南陣亡將士), liệt kê rõ như sau:
Nguyên văn
乾隆五十五年十二月,是年,追予出師安南陣亡游擊蕭應得一員,都司虛文魁等六員,守備馮天輿等九員,千總楊赴龍等十四員,把總李世俊等十員,外委謝廷超等九十一員,額外外委關秀芳等十四員,漢士馬步兵丁李上通等六千八百七十六名,祭葬恤賞如例,俱入祀昭忠祠。[295]
Dịch âm
Càn Long ngũ thập ngũ niên thập nhị
nguyệt, thị niên, truy dư xuất sư An Nam trận vong: du kích Tiêu Ứng Ðắc
nhất viên, đô ti Hư Văn Khôi đẳng lục viên, thủ bị Phùng Thiên Dư đẳng
cửu viên, thiên tổng Dương Phó Long đẳng thập tứ viên, bả tổng
Lý Thế Tuấn đẳng thập viên, ngoại uỷ Tạ Ðình Siêu đẳng cửu thập nhất
viên, ngạch ngoại ngoại uỷ Quan Tú Phương đẳng thập tứ viên, Hán
sĩ mã bộ binh đinh Lý Thượng Thông đẳng lục thiên bát bách thất thập lục
danh, tế táng tuất thưởng như lệ, câu nhập tự Chiêu Trung Từ.
Dịch nghĩa
Tháng Chạp năm Càn Long thứ 55 (1790) truy cứu những người chết trận trong chuyến đánh An Nam gồm có: một du kích là Tiêu Ứng Ðắc, sáu đô ti là bọn Hư Văn Khôi, 9 thủ bị là bọn Phùng Thiên Dư, 14 thiên tổng là bọn Dương Phó Long, 10 bả tổng là bọn Lý Thế Tuấn, 91 ngoại uỷ là bọn Tạ Ðình Siêu, 14 ngoại uỷ ngoại ngạch là bọn Quan Tú Phương, còn lại mã binh, bộ binh, quân sĩ là 6876 người, theo lệ tế và chôn cất, thưởng tuất, tất cả đều được thờ trong Chiêu Trung Từ.
Xem như thế chúng ta thấy theo danh sách
chính thức của nhà Thanh, số binh sĩ tử trận, ngoài những võ quan cao
cấp như đề đốc, tổng binh ra, số quan binh trung cấp và lính thường gồm
có:
– du kích 1
– đô ti 6
– thủ bị 9
– thiên tổng 14
– bả tổng 10
– ngoại uỷ 91
– ngoại uỷ [ngoài ngạch] 14
– mã bộ, binh đinh 6876
Tổng cộng 7021
Theo qui chế nhà Thanh, gia đình những
người tử trận được hưởng tiền tử tuất tính bằng ngân lượng [bạc tính
theo lạng] như sau: đề đốc (800), tổng binh (700), phó tướng (600), tham
tướng (500), du kích (400), đô ti (350), thủ bị (300), thủ ngự sở thiên
tổng (250), vệ thiên tổng (200), doanh thiên tổng (150), bả tổng, ngoại
uỷ (100), mã binh (70), bộ binh (50), hương dũng, thổ binh (25).[296]
Ngoài ra còn khoảng gần 800 người bị bắt, tính ra quân Thanh (chính qui) tổn hại tổng số độ 8000 người. Những con số trên đây không tính tới những thành phần tham chiến khác như quân Cần Vương của nhà Lê, các thổ binh, thổ hào, dân phu, và một số đông phu mỏ, Hoa kiều …
có thể cũng bị giết trong khi giao chiến hay bị trả thù. Theo cách tổ
chức quân đội và điều động nhân sự của nhà Thanh, trong những lần viễn
chinh, số lượng dân phu sử dụng thường từ 3 đến 5 lần số quân hiện dịch.
Riêng cánh quân Lưỡng Quảng, số dân phu điều động lên đến khoảng một
chục vạn người nhưng có mặt tại trận địa lúc đó chắc ít hơn. Nếu cho rằng số dân phu bị chết ít ra cũng phải tương đương với số quân lính thì dân phu người Thanh thiệt hại khoảng một tới hai vạn. Con
số dân phu tử thương này [phần lớn là các dân tộc thiểu số sống ở nam
Trung Hoa và rừng núi biên giới Hoa – Việt] nhà Thanh bỏ lơ không
nhắc đến mà bên nước ta thì cũng không muốn khơi ra nên số người Trung
Hoa bỏ xác lại trên đất Việt vẫn chỉ là những ước đoán.[297]
Ðáng kể nhất phải là toán thổ binh Ðiền
Châu của Sầm Nghi Ðống từ Quảng Tây và quân của châu Bảo Lạc là người
thiểu số của nước ta từ biên giới xuống. Theo sử nhà Thanh thì một
số đông dân phu mỏ (mà họ gọi là xưởng binh) là dân Trung Hoa lén trốn
sang làm việc ở nước ta đã tự nguyện đi theo đoàn quân Thanh và thành
phần này bị thiệt hại khá nặng. Theo các văn thư của nhà Thanh, số xưởng
dân đi theo quân Thanh có đến mấy vạn người. Thành phần này vốn dĩ sống
ngoài vòng pháp luật nên khi xuống Thăng Long quen thói cường đạo,
nhũng nhiễu nên khi thua trận bị dân chúng tìm giết rất nhiều. Vì
quen địa thế những người sống sót đã chạyđược về Tàu và được đặc ân
không bị bắt tội và cho hồi tịch (theo luật nhà Thanh, những ai bỏ nước
ra đi đều mang tội phản quốc và vì thế Thanh triều không can thiệp vào
những vụ tàn sát Hoa kiều ở các nước Ðông Nam Á như trường hợp Phi Luật
Tân, Gia Ðịnh …).
Nếu ước đoán như thế, tổng cộng số quân
Thanh và đồng bọn chết trong chiến dịch này có thể lên đến trên dưới hai
vạn người, mặc dù nhà Thanh chỉ đề cập đến thành phần chính qui của họ
bị tổn thất [tức thành phần được hưởng tử tuất] vào khoảng trên dưới một
vạn người mà thôi.
Một nhân vật hoàn toàn không còn được
nhắc đến sau trận đánh đầu năm Kỷ Dậu là Lê Duy Cẩn, có lẽ cũng là một
nạn nhân của trận chiến. Chúng ta chỉ biết rằng trước đây vua Cao
Tông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị “truyền dụ cho Lê Duy Kỳ đem Lê Duy Cẩn giải sang nội địa [Trung Hoa] để an tháp”. Tuy nhiên Lê Duy Kỳ– có lẽ một phần vì tình đồng tộc [Lê Duy Cẩn là chú Lê Duy Kỳ] đã chống chế rằng “Lê Duy Cẩn là kẻ ngu si, dễ dàng quản thúc, hiện đã bị giám sát mọi cử động không thấy có điều gì khác lạ, trong tương lai nếu có chuyện gì đáng ngờ, lúc đó giam cấm nghiêm trị cũng còn kịp”.[298] Như
vậy, Lê Duy Cẩn đã cùng với một số đông tôn thất nhà Lê ra hàng khi
quân Thanh tiến vào Thăng Long và sử sách chỉ thấy chép một số ít sau
này nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn ở các vùng rừng núi phía tây và
thượng Lào nên có lẽ đã bị thất tung trong cơn binh lửa.
Về phần quân Nam, trong vai tấn
công, đánh biển người, đánh thí mạng chắc chắn thiệt hại cũng không ít
nhưng con số không được tính toán chính xác nên không rõ là bao nhiêu.
Thành phần tân tuyển từ Thanh – Nghệ hẳn là đông hơn cả. Số binh lính đó
về sau không biết ra sao, phần lớn phải tự tìm đường trở về nhà nhưng
không ít người hoà nhập với dân ở ngoài bắc hoặc lần mò tới một số
vùng đất tân bồi vùng duyên hải lập nghiệp, kiến tạo một số làng xã mới
vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
TỔNG KẾT THIỆT HẠI NHÂN MẠNG CỦA QUÂN THANH
Họ và Tên
|
Chức vụ – Cấp bậc
|
Số lượng
|
Tình trạng
|
Chú thích
|
Tôn SĩNghịPhú Cương |
Tổngđốc |
2 người |
Vềnước an toàn |
Quanđứngđầu trông coi một, hai hay ba tỉnh |
Ô Ðại Kinh |
Ðềđốc |
1 người |
“
|
Chỉ huy trưởng quân sự của một, hai hay ba tỉnh |
Ðịnh TrụTôn Khởi Giao |
Tổng binh |
2 người |
“
|
Chỉ huy quân sự của một tỉnh |
Khánh Thành |
Phó tướng |
1 người |
“
|
|
|
|
|
|
|
Họ và Tên
|
Chức vụ – Cấp bậc
|
Số lượng
|
Tình trạng
|
Chú thích
|
Hứa ThếHanh (許世亨) |
Ðềđốc |
1 người |
Tử trận |
|
Thượng Duy Thăng (尚維昇)Trương Triều Long (張朝龍) |
Tổng binh |
2 người |
“
|
|
Lý Hoá Long (李化龍) HìnhÐôn Hành (邢敦行) |
Phó tướng |
2 người |
“
|
|
Dương Hưng Long (楊興龍)Vương Tuyên (王宣)Anh Lâm (英林) |
Tham tướng |
3 người |
“
|
|
Tiêu ỨngÐắc (蕭應得) Minh Trụ (明柱) Trương Thuần (張純) VươngÐàn (王檀) Lưu Việt (劉越)
Vu Tông Phạm (于宗範) |
Du kích |
6 người |
“
|
Chết tại Thăng Long“““ “
Chết trong trận Thị Cầu |
Hư Văn Khôi (虛文魁)Ðặng Vĩnh Lượng (鄧永亮) |
Ðô ti |
6 người |
“
|
4 người không rõ tên họ |
Phùng Thiên Dư (馮天輿)Lê Chí Minh (黎致明) |
Thủ bị |
9 người |
“
|
7 người không rõ tên họ |
Dương Phó Long (楊赴龍) |
Thiên tổng |
14 người |
“
|
13 người không rõ tên họ |
Lý ThếTuấn (李世俊) |
Bả tổng |
10 người |
“
|
9 người không rõ tên họ |
TạÐình Siêu (謝廷超) |
Ngoại uỷ |
91 người |
“
|
90 người không rõ tên họ |
Quan Tú Phương (關秀芳) |
Ngoại uỷ (ngoại ngạch) |
14 người |
“
|
13 người không rõ tên họ |
Viên Thiên Quì (袁天逵) |
Tri huyện |
1 người |
“
|
|
Trương Thành (張誠) |
Kinh lịch |
1 người |
“
|
|
|
Binh sĩ |
6876 người |
“
|
mã bộ, binhđinh |
Sầm NghiÐống (岑宜棟) |
Thổ quan |
1 người |
“
|
Thổ tiÐiền Châu |
Xưởng dân |
|
Không có số liệu |
“
|
Là dân phu mỏ lậu ở biên giớiKhoảng chừng 20000 người đi theo quân Thanh |
Thổ binh |
|
Không có số liệu |
“
|
Là dân binh thiểu sốđượcđiềuđộng khoảng 2000đến 3000 người |
Dân phu từ Trung Hoa sang |
|
Không có số liệu |
“
|
Không có số liệu [ước chừng 100,000 người] luân chuyển lẫn nhau |
Hoa kiều |
|
Không có số liệu |
“
|
Không có số liệu |
Quân nhà Lê |
|
Không có số liệu |
“
|
Không có số liệu [có thể lênđến 30,000 người] |
PHẦN VIII
KẾT LUẬN
Trong các tài liệu cũ, việc miêu tả tổ
chức và sinh hoạt quân sự của nhà Thanh không chính xác đưa đến những hư
cấu và tưởng tượng. Ðến đời Càn Long, quân đội Trung Hoa đã được chính
qui hóa và tổ chức rất chặt chẽ, các luật lệ về điều động, thăng thưởng,
tiếp vận, trang bị, tử tuất, qui chế sinh hoạt … đều chi ly phức
tạp.Ðối chiếu tổ chức chính qui của nhà Thanh với tổ chức theo kiểu dân
quân [militia] nặng phần tự phát của Tây Sơn có những khác biệt một trời
một vực không phải trên hình thức mà về hoạt tính của quân đội.
Quân Thanh di chuyển cồng kềnh và lỉnh
kỉnh đủ mọi loại quân trang, vật dụng trong khi quân Ðàng Trong vì trang
bị và sinh hoạt đơn giản, quen với đời sống di động nên có thể đóng
quân và nhổ trại rất nhanh. Chính vì quân Thanh vốn dĩ thuộc loại đồn
binh [binh đóng quân tại một chỗ để phòng thủ, canh tác sinh hoạt như
một tập thể định cư], việc điều binh trở nên phức tạp phù hợp với
nhận định của John Keegan là “chiến tranh nào cũng cần di chuyển nhưng đối với những dân tộc định cư thì chỉ đi một đoạn ngắn cũng gặp nhiều khó khăn”.[299]
Quân đội của nhà Thanh điều động
sang đánh nước ta cũng chỉ gồm Lục Doanh, là quân đội người Hán, khác
hẳn với các kỳ binh ở miền bắc và chung quanh hoàng thành. Chúng ta có
thể tham khảo những phân tích cụ thể về sức mạnh của Thanh triều
tương đối chính xác khi phái đoàn Anh Macartney sang Trung Hoa năm 1793,
ngoài công tác ngoại giao còn đưa ra những nghiên cứu nhằm đánh giá sức
mạnh của đế quốc Trung Hoa để phác họa một chính sách đối phó. Bên cạnh
những số liệu, người Anh còn cất công vẽ hàng trăm bức về cảnh quan,
về sinh hoạt thực tế thời đó. Tài liệu của phái bộ Anh có thể giúp chúng
ta thấu đáo hơn về đoàn quân sang cứu viện cho vua Lê.
Một điểm cần nhấn mạnh là y phục của họ
rất lụng thụng, vướng víu vốn dĩ dùng trong lễ lạc và trình diễn. Áo
giáp của binh lính làm bằng da và các mảnh kim loại, bên trong lót bằng
nhiều lớp giấy bản trông bề ngoài rất oai vệ, tuy phần nào hộ thân khi
chiến đấu và phòng thủ nhưng rất bất lợi khi cần di động nhanh. Miền bắc
nước ta trong mùa đông, mưa phùn gió bấc, nhiều hồ ao, đầm chằm nên khi
quân Thanh bị sa lầy đều không gượng được.[300] Theo quan sát của nhiều tác giả ngoại quốc đã tìm hiểu thì thực lực của nhà Thanh không hùng mạnh như người ta tưởng.[301]
Dưới mắt người nước ngoài,[302] quân Thanh sang nước ta được miêu tả như “một đoàn quân vừa yếu vừa quá mê tín dị đoan … lính Trung Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ khác, đeo lủng lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính vừa là lái buôn bồi bếp …” [303] nhưng lại bị “… những kẻ man rợ từ cao nguyên miền Nam … trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh”[304] đánh cho thảm bại.
Hai trở ngại lớn của quân Thanh
khi điều động ra khỏi biên giới là tổ chức các đài trạm [lán lương thực]
và dịch trạm [trạm truyền tin]. Theo qui định của Thanh triều, ngoài
việc tính toán cho các trạm này theo khoảng cách để lương thực có thể
vận chuyển liên tục tiếp tế cho tiền tuyến – quân đến đâu, lương thực
tới đó. Vì tình hình đường sá nước ta khó khăn, Tôn Sĩ Nghị không thể sử
dụng các loại phương tiện hữu hiệu hơn như thuyền bè, xe ngựa, trâu bò …
mà hoàn toàn phải dựa vào sức người để mang vác. Nhân phu khi đó chỉ có
thể điều động dân chúng sống ở các tỉnh giáp biên giới nhưng Quảng
Tây đất rộng người thưa, việc trưng dụng rất khó khăn và chậm chạp, gây
phiền toái cho quần chúng. Vùng biên giới lại nhiều bộ lạc, nhiều nhóm
thổ dân khác nhau về phong tục, về tiếng nói nên cũng khó đôn đốc,điều
hợp.
Nhà Thanh cũng tính đến việc sử dụng,
thuê mướn dân phu An Nam nhưng lại e ngại việc dò thám hư thực, bất lợi
cho quân cơ. Vả lại những năm trước đó, tình hìnhđói kém, chiến tranh,
bên nào cũng bắt lính, mộ phu nên làng xóm tiêu điều, dân chúng thưa
thớt nhiều nơi xương trắng còn nằm dọc bên đường, di thể không ai chôn
cất.
Nói chung, tuy bề ngoài diệu võ dương
oai nhưng thực ra quân Thanh không có khả năng thực hiện những chiến
dịch ngoại biên, điển hình là các lần chinh phạt MiếnÐiện đều thảm bại.
Ngoài ra, khí hậu thất thường, muỗi mòng rắn rết, thời tiết phương Nam
không hợp nên nếu ở lâu chắc chắn quân Thanh và phu phen của họ sẽ bị
những trâän đại dịch. Dịch tả, sốt rét, thương hàn … là kẻ thù còn nguy
hiểm hơn đối phương nhiều. Chính Tôn Sĩ Nghị khi trở về cũng bị phong
thấp nặng, phải điều dưỡng lâu ngày, Tôn Vĩnh Thanh thì cũng chết vì
bệnh mặc dù chỉ trú đóng tại biên giới mà không qua nước ta.
Về quân ta, đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến ưu điểm và khả năng của Nguyễn Huệ trong chiến thắng Kỷ Dậu.
1. DI ÐỘNG NHANH
Một trong những yếu tố khiến quân Tây
Sơn có thể tấn công bất ngờ là việc họ có thể tập trung một binh lực
áp đảo về lượng cũng như về phẩm mà địch không tiên liệu được. Không ít
sách vở đề cao về ưu điểm làm tướng của Nguyễn Huệ, đó là kỷ luật nghiêm
minh.
Lẽ dĩ nhiên, kỷ luật thép là một yếu tố
quan trọng khiến binh sĩ chỉ biết tiến chứ không lùi. Trong một mức độ
nào đó, kỷ luật và đè nén rất khó phân biệt. Ðối với các nhà nghiên cứu,
kỷ luật quân đội chỉ có thật khi đời sống của người lính được bảo đảm
mọi mặt, nhất là phần lương thực, trang bị và những nhu cầu cá nhân kể
cả bản thân họ và gia đình.
Vào thời kỳ đó, những cánh dân quân tổ chức còn lệ thuộc nhiều vào tương quan “chủ tướng – thuộc hạ” không có những doanh trại trú đóng những đại đơn vị thường trực trong tư thế “nuôi quân ba năm dùng một giờ”.
Theo nhận xét của giáo sĩ de la Bissachère, quân của Nguyễn Huệ đều là
dân binh được tuyển mộ gấp rút từ các làng xã dọc theo trục lộ tiến
quân, tới đâu bắt lính tới đó và lớn dần theo hiện tượng tuyết lăn.[305]
Trong trận đánh ở Thăng Long, lực lượng chủ yếu của ông là quân bản bộ Ngô Văn Sở đóng tại Tam Ðiệp cộng thêm số quân “vét” được
trên đường ra Bắc, đáng kể nhất tại hai xứ Thanh Nghệ. Danh tiếng của
Ngô Văn Sở đã vang dội tới tận tai vua Càn Long chứng tỏ công lao không
nhỏ trong chiến dịch này.
Thứ hai, quân của ông cũng không tiến
theo hàng dọc theo đường thiên lý. Vào thời kỳ đó, đường cái quan dọc
theo bờ biển chưa được thiết lập, đường thông từ Bắc vào Nam chủ yếu
là đường thủy. Tuy nhiên vì gió bấc, chúng ta không tin rằng ông
dùng đường biển để chuyển quân, mà chú trọng vào đường thượng đạo xuyên
qua khu vực Bắc Lào (khi đó là một vùng hoang sơn trái độn giữa Xiêm La
và Ðại Việt) thuận tiện và quen thuộc hơn với đám thân binh người Thượng
và voi trận củaông. Con đường đó được sử dụng rất thường xuyên cho
tới đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng con đường cái quan và các
dịch trạm từ Nam ra Bắc. Những cánh quân đó được điều động mà điểm tập
kết là Nghệ An qua đèo Qui Hợp.
Chúng ta có thể hình dung được cách chuyển quân của ông tương tự như phương pháp “just-in-time” trong
quản trị, các cánh quân khắp nơi được phối hợp để cùng di chuyển,
mỗi đơn vị chỉ nhận một lệnh rất đơn giản là chuyển người đến điểm tập
trung vào một hạn kỳ đã định trước.
Những đơn vị nhỏ đó không liên lạc với
nhau, cũng không biết mình được điều động để làm gì (rất có thể vì ngôn
ngữ phức tạp, họ cũng không hiểu được nhau nữa).Ðể có thể đem đại quân
ra Bắc đánh một trận hết sức bất ngờ, Nguyễn Huệ có lẽ chỉ tập hợp bộ
tham mưu tại trung quân để ra chỉ thị, khi hành quân chính ông cũng trộn
lẫn vào trong số đông, tránh cảnh bị địch dồn sức đánh vào bản doanh
chỉ huy đưa đến cảnh rắn mất đầu như Chế Bồng Nga thuở trước.
Những việc có tính chất thủ tục như tập
hợp đại binh để cưỡi voi truyền hịch chắc không làm rầm rộ như người ta
phóng đại sau này. Việc hỏi ý kiến các nho sĩ miền Bắc lại càng không
thể làm, vì bí mật quân sự cũng có, vì tình hình thực tế cũng có. Bài
hịch hùng hồn của Nguyễn Huệ chép trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí nếu
không phải là một hư cấu của người kể chuyện thì cũng là một sáng tác
sau này để chính danh hoá việc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, tô điểm cho
chiến dịch sau khiđã thành công. Những tạo dựng như thế không phải là
hiếm trong lịch sử.
2. TRANG BỊ NHẸ
Trang bị là một yếu tố quan trọng trong
di hành. Quân Tây Sơn vào thời đó bao gồm rất nhiều sắc dân, chủ yếu là
các sắc dân thiểu số Ðàng Trong với lối ăn mặc hết sức giản dị thường
chỉ đóng khố, đi chân không. Cánh quân người Kinh của ông thì ăn mặc
giống như người Chàm ngày nay, quần áo thoải mái, không quân phục mà là
quần áo hàng ngày, không cần phải trang bị hay đồng phục [ngoại trừ
những cánh thân binh]. Truyền thống đi chân không của vùng Nam Á trở
thành một yếu tố quyếtđịnh trong chiến thuật gọi là “thần tốc” của vua Quang Trung.[306]
Vấn đề quan trọng nhất của quân đội là
vũ khí và lương thực thì đã có những kho ông để sẵn, không nhiều
nhưng đủ để cho quân của ông ăn từ 5 đến 10 ngày.[307] Ðể
xây dựng một tân đô ở Thanh Nghệ, ông đã tập trung khá nhiều nhân lực,
tài lực, vật liệu về vùng này kể cả những kho lương thực để làm hậu cần
cho quân đội. Một kinh đô hành chánh không thể không có những huyết mạch
kinh tế kèm theo. Ðây cũng là một yếu tố cần nghiên cứu về sự thất bại
quá dễ dàng của quân Thanh khi họ chỉ chiếm được Thăng Long, một
kinh đô “ảo” đã mất hết “vượng khí” như lối tin tưởng của người Nam Á nên cần tìm một vùng đất mới để xây dựng trung đô.[308]
Những cánh quân di chuyển mang một số
lượng lương thực ít ỏi như thế nên họ có thể đi nhanh và chỉ được nghỉ
khi đến trạm kế tiếp để lấy thêm lương thực. Việc tự mang lấy lương thực
cũng là một cách để gia bội lực lượng chiến đấu, giảm thiểu cơ cấu hậu
cần. Trong khi một binh sĩ chiến đấu của quân Thanh cần từ ba [nếu di
hành trong khu vực nội địa] đến năm [nếu chiến dịch bên ngoài biên giới]
phu dịch để phục vụ thì mỗi người lính của vua Quang Trung đều tự
bảo đảm việc cung cấp cho chính mình, cả lương thực tự mang theo lẫn mưu
sinh tự túc. Người nước ngoài khi đến vùng Ðông Nam Á đã ghi nhận khung
cảnh “toàn dân vi binh” từ rất sớm.
Khi tập trung quân ở cứ điểm sau cùng
trước khi bôn tập, Nguyễn Huệ đã hẹn ngày vào Thăng Long không phải như
một lời tiên tri mà người ta thường ca tụng mà là một kỳ hạn tối hậu cho
số lượng lương thực mỗi người có thể mang theo. Với những người dân
Thanh Nghệ đang đói ăn, ăn Tết trước và hẹn vào kinh đô chiếm lấy các
kho đụn của quân Tàu cũng là một hình thức “vọng mai chỉ khát”
[chỉ rừng mơ để cho lính bớt khát] để kích thích lòng quân. Chúng ta
cũng không bỏ qua mối căm phẫn sẵn có của ưu binh Thanh Nghệ khi phải
chạy về quê vì biến động tại kinh đô cuối đời Cảnh Hưng, và trong những
thời kỳ đói kém, việc tòng quân còn là một chọn lựa để mưu sinh bên cạnh
tinh thần vì đại nghĩa.
Chiến thắng của người Việt cũng gần
giống như những trận đánh của người Miến chống quân Thanh hay giao tranh
giữa người Xiêm và người Miến. Những trận đánhđó cũng khốc liệt không
kém và chiến thuật sử dụng voi để làm tiền đạo, kỵ binh và bộ binh tiến
theo chính là một điều hợp quân sự khá thông dụng và phổ biến ở khu vực
Nam Á.
3. CHỦ ÐỘNG TẤN CÔNG
Nhiều sử gia vẫn ngạc nhiên về chiến
thuật bất ngờ và chớp nhoáng mà chúng ta thường gọi là thần tốc. Thực
tế cho thấy, đây là một yếu tố quyết định của những thắng lợi trong suốt
cuộc đời cầm quân của Nguyễn Huệ. Mặc dầu ông không bỏ qua yếu tố địa
hình (advantage of terrain) và tấn công từ nhiều phía, nhiều hướng,
nhiều mặt nhưng nếu không có tính chất đột ngột và quân số áp đảo
(surprise attack with superior numbers), chúng ta khó có thể tin rằng
Nguyễn Huệ đạt được như mong muốn.
Nguyễn Huệ đã khai thác được nhược điểm
cốt lõi của đối phương (crucial errors) và đã lướt thắng được những
ưu điểm của một đoàn quân trú phòng chính vì ông tìm ra được cách tấn
công chí mạng. Rõ ràng ông không dàn trận để đợi địch tới như phương
pháp chúng ta thường thấy của một đội quân yếu và ít đánh với một kẻđịch
mạnh và đông, mà trái lại ông để cho địch đã bố trí đâu ra đấy rồi mới
tìm cách phá giặc. Chiến thuật của ông cho ta thấy một điểm mà ít sử gia
nhắc tới. Ông luôn luôn nghi ngại việc tập trung đóng quân ở những vùng đất lạ –
và cũng là vùng đất thù – như ở Bắc và Nam vì ông biết rằng một
khi đã đồn trú và bảo vệ diệnđịa, ông trở thành bị động, là kẻ bị tấn
công mà không còn thế tiên cơ như khi đem quân tới tấn công địch.
Ông cũng nắm được nhược điểm của
chính ông là không thể duy trì một cuộc chiến kéo dài mà không bị khó
khăn về binh lương, về nhân lực. Cuộc tranh chấp của Nguyễn Huệ và
Nguyễn Nhạc tại Qui Nhơn năm 1788 đã cho thấy ông không có ưu
thế về công kiên khi địch quân cố thủ trong thành. Nguyễn Huệ có nhiều
ưu điểm hơn khi mặt trận xảy ra trên đất “lạ” vì ông không bị ràng buộc với địa phương như tại Qui Nhơn. Các nhà nho thường dùng những từ ngữ mang tính gợi hình như “quyển địa”
[cuốn đất] để miêu tả cách hành binh thần tốc và bất ngờ. Ðoàn quân
ấy đi đến đâu lập tức phân tán lẩn vào thôn ấp, sử dụng những công ốc
như đình chùa, miếu mạo … làm chỗ đóng quân nên không khỏi bị dân địa
phương oán trách vì không tôn trọng tín ngưỡng của họ.
4. HỢP ÐỒNG TÁC CHIẾN
Chúng ta không thể hình dung Nguyễn
Huệ đi đến đâu đều kéo theo toàn bộ quân số dưới quyền như một ông bầu
gánh hát đem theo cả đoàn khi lưu diễn. Trong tình hình cuối năm 1788,
Nguyễn Huệ phải đối phó với nhiều nguy cơ từ nhiều phía trong đó không
thể thờ ơ với đe doạ của Nguyễn Nhạc từ Qui Nhơn kéo ra, và có thể cả
Xiêm La hợp lực với Nguyễn Ánh từ Gia Ðịnh tấn công theo đường thuỷ
và đường núi nhân cơ hội ông bị vướng vào một trận chiến lớn. Vì thế,
Nguyễn Huệ phải giữ lại rất nhiều chủ lực để bảo vệ những trọng điểm
chiến lược ở Ðàng Trong.
Trong chiến dịch đánh quân Thanh, vua
Quang Trung chỉ điều động quân địa phương và các lực lượng phụ thuộc. Ðó
chính là điểm các nhà nghiên cứu không thể xácđịnh được lý lịch của
những toán quân xuất hiện rất bất ngờ và vô danh, sau đó hầu như biến
mất. Cũng như Chế Bồng Nga thuở trước, Nguyễn Huệ đã đạt được một uy tín
lãnh tụ khiến nhiều tiểu quốc, nhiều bộ lạc thần phục ông. Phương thức
hợp đồng tác chiến đó đã khiến nhiều quốc gia tập hợp được một lực lượng
mạnh khi cầnđến, điển hình là Miến Ðiện và Xiêm La khi giao tranh không
phải do lực lượng của chính họ mà do các khu vực thần phục mỗi bên đánh
với nhau. Ngay cả khi “quân Xiêm” sang giúp Nguyễn Ánh, đoàn quân đông đảo đó cũng bao gồm nhiều sắc dân ở Chân Lạp và Nam Lào nên khi bại trận đã “theo đường thượng đạo” chạy về[đất của họ].
Thứ đến, quân sĩ chiến đấu muốn hiệu quả phải có tính chuyên nghiệp, được huấn luyện và quen với khung cảnh máu đổ, đầu rơi. Không
phải cứ đưa dao kiếm cho một người vốn quen nghề ruộng rẫy sẽ biến họ
thành một chiến sĩ, nhất là ở thời kỳ mà chưa có những vũ khí sát thương
ở tầm xa. Việc tập hợp hàng chục vạn nông dân để trở thành một binh đội
thiện chiến không thể chỉ trong đoản kỳ. Riêng việc có đủ binh khí để
trang bị cho họ cũng là một vấn đề lớn khi đoàn ngũ hoá tầng lớp dân
chúng ở nông thôn. Ðó cũng là lý do tại sao các thổ hào không thể
có được những đội quân tinh nhuệ. Cho nên, dù tinh thần cao chăng nữa,
muốn hữu hiệu ba cánh quân của vua Quang Trung trong chiến dịch Bắc Hà
phải là những chiến binh chuyên nghiệp, không phải là những tân binh mới
tuyển mộ. Chỉ có những chiến binh vớiđầy đủ khả năng, Nguyễn Huệ mới
tính toán được một chiến thuật gọi là “thần tốc”.
– Cánh quân thứ nhất do các tiểu
vương và bộ lạc phía tây dãy Trường Sơn mang theo voi trận vốn dĩ là lực
lượng quan trọng nhất của họ. Chắc chắn nếu Nguyễn Huệ mang voi từ Phú
Xuân ra, bên cạnh việc trở ngại trong vấn đề di chuyển, chỉ riêng thời
tiết thay đổi đột ngột và cung ứng lương thực cho đoàn thú to lớn này
cũngđã làm cho vai trò của tượng binh bị hạn chế rất nhiều.
– Cánh thứ hai là hải quân do những
tướng lãnh và lực lượng hải khấu ông thu phục được từ biển theo đường
sông đánh ngang hông và chặn các đường rút quân củađịch.
– Bộ binh do chính ông chỉ huy ngoài
các lực lượng cơ hữu của Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại được bổ sung bởi
một thành phần đã quen với chiến đấu. Ðó chính là ưu binh Thanh Nghệ vốn
dĩ là lực lượng quan trọng nhất của chúa Trịnh bị truy sát đang trở
về trốn tránh tại quê hương, bản quán.[309]
Việc điều động ba lực lượng chủ chốt với
ba đặc tính riêng rẽ vô hình chung phù hợp với lối đánh của Nam Á mà
những nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Rất có thể đây chỉ là một ngẫu nhiên
nhưng chúng ta thấy có nhiều tương đồng khi đối chiếu với binh thư của
những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Ðộ mà không tìm thấy tại
những khu vực vay mượn ở văn minh Trung Hoa. Ông cũng không đánh cầu may
mà thực tế thường chuẩn bị và tính toán kỹ càng, có điều ông dựa vào
tin tức tình báo và sử dụng cái năng khiếu bén nhậy của mình để
quyết định. Tin tức tình báo đó do một mạng lưới thương nhân có những
liên hệ mật thiết với ông, được mua chuộc bằng cả lợi lộc lẫn đe doạ.
Thương nhân nếu ở phe ông được ưu đãi bao nhiêu thì không liên minh
với ông sẽ bị trừng trị thảm khốc bấy nhiêu, điển hình như vụ tàn sát
người Hoa ở Gia Ðịnh năm 1782.[310] Ðể
bảo đảm sự tuân hành tuyệt đối những lệnh lạc của mình, Nguyễn Huệ áp
dụng một thứ kỷ luật sắt, tạo cho binh sĩ thói quen chỉ biết nghe
lệnh ông mà không cần suy nghĩ, không đóng đồn hạ trại, dùng lương
khô khi di hành và ăn uống giản dị tới mức chỉ ăn cơm nhạt với muối.
Chiến thuật của ông cũng khác hẳn cổ
nhân. Trong khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn sử dụng lối đánh dằng
dai để địch tự tiêu hao rồi mai phục tại những địađiểm hiểm yếu phá địch
bằng những trận then chốt khi họ rút lui thì vua Quang Trung lại tấn
công khi địch đang đóng quân một chỗ, lấy ưu thế nhân số và di động để
bao vây áp đảo đối phương.
Hưng Ðạo Vương có thể đánh chặn đường vì ông được lòng dân, có cả một khối quần chúng hậu thuẫn “cả nước đấu sức lại mà đánh”,
trái lại Nguyễn Huệ tuy phải chiến đấu với kẻ thù nguy hiểm và to lớn
trước mặt nhưng vẫn phải đề phòng khối quần chúng bản địa vì trong
số địch quân lại có những người đã từng là vua, là chúa của vùng đó. Ông
chỉ có thể vô hiệu hóa quần chúng chứ khó lòng mà dùng họ như một lực
lượng hậu cần để bổ sung thiệt hại. Nhiều chi tiết rải rác cho thấy quân
Tây Sơn luôn luôn phải dè chừng khi ra Bắc vào Nam, từ việc Nguyễn Nhạc
bị người dân Nghệ An tấn công khi ông ra gặp Nguyễn Huệ, đến việc
Nguyễn Hữu Chỉnh khi bị bỏ rơi đã phải vội vã chạy theo chứng tỏ quân
Tây Sơn dưới mắt người Bắc Hà vẫn chỉ là một đoàn quân ngoại nhập, có
nhiều cách biệt về phong tục, ngôn ngữ, một thứ quân của Quảng Nam quốc
mà các nhà nho đã gọi là “man binh”, không ngang hàng với quân Trịnh, quân Lê vốn dĩ có những liên hệ mật thiết với quần chúng.
Chính vì phải đối phó với một tình
thế khó khăn, Nguyễn Huệ không thể trải rộng mà phải tập trung thanh
toán địch theo lối bẻ đũa, tiêu diệt địch bằng lối hành quân bất ngờ và
một lực lượng đông đảo gấp bội để chiếm tiên cơ. Lối điều binh đó cho ta
thấy ý định giữ đất giành dân, thành lập vương quốc của ông chỉ được hình thành sau khi những thế lực thù nghịch đã hoàn toàn bị thất bại.
Có thể nói, Nguyễn Huệ đã tập hợp được
nhiều ưu điểm mà nhiều người đã đánh giá là tính sáng tạo, khác hẳn với
truyền thống cố hữu. Trong khi có những triều đại luôn luôn coi Trung
Hoa như bậc thầy để bắt chước, Nguyễn Huệ đã chứng tỏ rằng người Việt
Nam có những đặc tính riêng và sự phát huy một bản sắc dân tộc là
mộtđiều cần thiết.
Một yếu tố tinh thần được nhắc đến nhiều
là tinh thần quyết thắng của vua Quang Trung. Không biết chính xác tới
mức nào nhưng được ghi lại trong tài liệu của nhà Thanh [theo lời khai
của Phan Khải Ðức với Tôn Sĩ Nghị] là đích thân ông đã bí mật lên vùng biên giới để thám sát địa hình[311] và ra lệnh cho chư tướng nếu quân Thanh tiến sang thì sẽ rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ ông ra chỉ huy phản công.
Nếu thực như thế, ngay từ đầu Nguyễn
Huệ đã có kế hoạch triệt thoái để bảo tồn lực lượng và tái chiếm Bắc Hà
khi tình hình thuận tiện hơn. Tinh thần quả cảm đó đãkhiến cho binh
sĩ dưới quyền ông hết lòng với chủ tướng và cũng phù hợp với những nhận
xét của người ngoài về con người dũng mãnh của ông.
Trận chiến Việt – Thanh đã được khai
thác rất nhiều trong lịch sử Việt Nam, xoáy mạnh vào thắng lợi ở Thăng
Long đầu xuân năm Kỷ Dậu. Chúng ta cũng nói nhiềuđến thành tựu ngoại
giao và ưu thế của Ðại Việt trong đời Càn Long sau khi hai bên trở lại
hoà hoãn. Từ trước đến nay, những nghiên cứu về trận đánh long trời
lở đất này chỉ được soi xét dưới khía cạnh quân sự, ít khi được quan sát
trong bối cảnh chính trị của Trung Hoa, đặc biệt dưới triều đại Càn
Long sau khi vị hoàng đế đã trị vì hơn nửa thế kỷ.
Với quan niệm ăn sâu trong đầu rằng vai
trò của một thiên tử thay mặt Trời để cai trị thiên hạ, vua Càn Long vẫn
nhân danh một nhiệm vụ rất cao cả là “hưng diệt kếtuyệt, tự tiểu tồn vong”
[dấy lại một dòng đã đứt để nuôi nấng sự mất còn của nước nhỏ] để sai
Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước ta. So sánh những bất đồng qua những sử
liệu của cả hai bên, chúng ta cũng biết được rằng việc Nam chinh có
những âm mưu bất chính của giới quan lại địa phương muốn khai thác cơ
hội để thăng quan tiến chức, nhưng bản thân vua Càn Long lại e ngại một
sa lầy mới có thể làm hỏng đại lễ “Bát Tuần Khánh Thọ” vào năm sau nên
khi thấy rằng nhiệm vụ cơ bảnđã hoàn thành, chữa được nỗi bất bình sau
nhiều lần thất bại ở Miến Ðiện, ông ra lệnh rút quân về.
Chiến lược của nhà Thanh trong
thời điểm đang trên đà thắng lợi vì thế không thống nhất. Vua Cao Tông
tuy ra lệnh triệt binh nhưng cũng chỉ nói nửa chừng, đặc biệt nhất trong
bài thơ liên hoàn ngày mồng Một Tết tại Trùng Hoa Cung không đề cập
gì đến chuyện đó. Những tin tức về diễn tiến mặt trận gửi về Bắc Kinh
vẫn là những tin tức đầy hứa hẹn và triều đình Trung Hoa chưa dứt khoát
sẽ rút quân như thế nào nếu không tiến hành chiến dịch đánh xuống Phú
Xuân.
Ðại thần nhà Thanh cũng biết được tâm
lý của đấng chí tôn. Ở tuổi 80, vua Càn Long mong mỏi một kỳ thịnh
thế bằng sự phô trương tốn kém để đón nhận triều yết của chư phiên hơn
là bày mưu tính kế, lo nghĩ về một chuyện tranh chấp ở biên cương.
Do đó, khi tiếp nhiệm tổng đốc Lưỡng Quảng, Phúc Khang An đã khôn
khéo đề ra chính sách “dưỡng quân uy, tồn quốc thể”
làm cơ sở đối phó với An Nam, một đường lối cương nhu thật thích hợp
với tình thế, vừa chữa một thất bại quân sự, vừa góp phần vào việc nâng
cao uy tín vua Càn Long.
Tuy nhiên cũng còn một chi tiết mà hầu
như không một ai trong chúng ta nhắc đến. Ðó là trọng điểm chiến lược
trong cai trị mà nhà Thanh luôn luôn muốn duy trì: làm thế nào để
tuyệt đại đa số quần chúng người Hán luôn luôn chỉ nghĩ rằng họ chỉ là
một loại “công dân hạng hai” trong xã hội, không thể đòi hỏi những biệt đãi như người Mãn Châu.
Ý thức đó luôn luôn được điều chỉnh để
sao cho người Mãn, tuy chỉ là thiểu số, vẫn nắm giữ tất cả những chức vụ
lớn, được hưởng những đặc quyền đặc lợi một cáchđương nhiên không thể
dị nghị. Chính vì thế, một mặt vua Càn Long rất phấn khởi với những
thắng lợi nhanh chóng ban đầu, một mặt ông lại tìm cách ghìm lại để cho
vai trò của Tôn Sĩ Nghị không vượt qua một giới hạn có thể chấp
nhận được.
Như đã viết, ngoài việc giao cho Phú
Cương (người Mãn) và Ô Ðại Kinh truyền hịch dụ hàng Nguyễn Huệ để cướp
lấy công lao, vua Càn Long cũng hạ lệnh triệt binh khi cánh quân Quảng
Tây chiếm được Thăng Long cốt để tạo cơ hội cho cánh quân Vân-Quí có thể
tiếp tục công tác thời bình là “cải thổ qui lưu”, phương thức
cổđiển mà nhà Thanh thực hiện để bình định và đồng hoá các khu vực ở tây
và tây nam Trung Hoa. Dù không thôn tính một cách lộ liễu, nhà Thanh có
thể cho những người Trung Hoa lén lút qua khai khẩn mỏ ở Tuyên Quang,
Hưng Hóa [xưởng dân] được tách ra thành một khu tự trị [qui chế thổ
ti] để một lúc nào đó sẽ sáp nhập vào nước Tàu. Một người làm quan lâu
năm như Tôn Sĩ Nghị không thể không biết điều đó nên ông miễn cưỡng thi
hành, hẹn đến đầu năm sẽ thực hiện lệnh rút quân.
Chính ở điểm tế nhị này, khi Tôn
Sĩ Nghị đại bại chạy về, vua Càn Long lập tức đưa Phúc Khang An (một
trong bốn người con đại thần Phó Hằng, người Mãn) sang làm tổng đốc
Lưỡng Quảng, vừa lấy binh uy trấn ngự biên giới, vừa bí mật nhận lệnh
chủ hoà để biến một thất bại quân sự (của một đại thần người Hán) thành
một thắng lợi ngoại giao (của một đại thần người Mãn).
Chính sách ức Hán hưng Mãn của Thanh
triều được thi hành tương đối chặt chẽ trong hai trăm năm. Mãi về sau,
khi bị hoạ xâm chiếm của Tây phương và nhà Thanh phải nhượng bộ trong
nhiều hiệp ước bất bình đẳng, dân chúng đói khổ khiến loạn lạc tại nhiều
khu vực, người Hán lúc đó mới có cơ hội vươn lên cao hơn và một số
người được giữ nhiệm vụ hành chánh và quân sự quan trọng (Tăng Quốc
Phiên, Tả Tông Ðường, Lý Hồng Chương, Lâm Tắc Từ, Viên Thế Khải …) Tuy
nhiên, đó là những thay đổi trong chính sách ở thời Thanh mạt chứ không
phải vào thời thịnh trị của Khang Hi, Ung Chính, Càn Long.
Ðể khai thác triệt để lợi điểm chính trị này, vua Càn Long sau đó đã mau chóng chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ và ra lệnh “vô hiệu hoá” những chống đối của vua tôi nhà Lê bằng cách phân tán mỏng, an tháp những người chạy sang Trung Hoa.
Xét riêng một trận đánh trong khoảng
mươi ngày trước và sau Tết Nguyên Ðán, chiến thắng đầu xuân này là
một điểm son trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đặt lên bàn cân
những tương quan rộng lớn trong một thời gian dài, chúng ta có thể phải
cân nhắc kỹ trước khi đi đến một kết luận về hậu quả của nó.
Về phần nhà Thanh, sự thần phục của Ðại
Việt dưới triều đại Quang Trung đã đem lại ít nhiều tiếng vang đối với
phiên thuộc, củng cố thêm uy tín của một triều đình vốn dĩ bị coi là
ngoại tộc vào cai trị Trung Nguyên. Ðại Việt đóng một vai trò phên
giậu đã giải quyết cho nhà Thanh mối lo về một số thổ ti dọc theo biên
giới Hoa – Việt, không còn cơ hội chống lại triều đình và qua lại quấy
phá những tỉnh dọc theo biên cương.
Ðối với nhà Tây Sơn, tuy những biến
chuyển không nằm trong dự tính của Thanh triều nhưng lại đưa tới những
hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều. Vua Quang Trung bị cầm chân vào những
thủ tục và nghi lễ ngoại giao trong suốt hai năm (1789-1790) là thời
kỳ tối quan trọng để xây dựng thực lực nên đã bỏ lửng việc đối phó với
mốiđe doạ từ phía Nam, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh chiếm lấy Gia Ðịnh làm
bàn đạp tiến ra Phú Xuân. Lẽ dĩ nhiên, lịch sử còn nhiều vấn đề được đặt
ra bằng chữ “nếu” vì ví thử Nguyễn Huệ không chết sớm, cục diện không biết rồi sẽ đi về đâu.
Tháng 5, 2011
Nguyễn Duy Chính
CHÚ THÍCH:
[1] Ðặng Phương Nghi, “Triều đại vua
Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương”. Một Nhóm Học Giả,
Một Vài Sử Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ (1992) tr. 234
[2] Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (1998) tr. 171
[3] Cristophoro Borri, Tường Trình Về Khu Truyền Giáo Ðàng Trong 1631 Hồng Nhuệ (dịch), tr. 50
[4] John Crawfurd, một nhà quí tộc Anh
trong chuyến du hành tới Việt Nam năm 1822 (thời Minh Mạng) đã nhận định
rằng gần như toàn bộ những thành phố quan trọng của Việt Nam đều nằm
dọc theo bờ biển ở Ðàng Trong trong đó gồm có Hà Tiên, Saigon, Nha
Trang, Phú Yên, Qui Nhơn, Hội An (Faifo), Ðà Nẵng (Tourane), Huế. John
Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin China
(1967) tr. 510.
[5] He was then pleased to disclose some
of his future designs to me. They were no less than to subdue the
Kingdom of Cambodia with the whole penisula as far as Siam, and the
Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the
Tonquinese. “Charles Chapman’s narrative of his mission to Vietnam”.
Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hue. (1970) tr. 100. Đây là
trích nguyên văn từ lời tường thuật của Chapman, một thương gia người
Anh trong kỳ gặp gỡ với vua Thái Đức [nguyên văn Ignaac tức ông Nhạc] ở
Qui Nhơn năm 1778. Tài liệu này nguyên bản còn lưu trữ tại India Office
Library, London trong China Factory Records series, vol. 18.
[6] Theo một bức vẽ của người Âu Châu
thời đó, “vua xứ Ðàng Trong” cưỡi voi, cởi trần có lính theo hầu trông
hoàn toàn là một tù trưởng thiểu số, không phải nghi vệ quốc vương nước
Nam.
[7] Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Khâm định
Việt sử thông giám cương mục II (bản dịch Viện Sử Học) (1998) [viết tắt
là CM II] q. XLVI, tr. 793
[8] CM II,– XLVI, (1998) tr. 790 chép về việc Nguyễn Huệ ra Bắc vào yết kiến vua Lê Hiển Tông như sau:
Trước đây họ Trịnh chuyên giữ chính
quyền trong nước, một người dân, một tấc đất đều không do quyền triều
đình. Nay Văn Huệ vào triều yết, bèn xin ngày cử hành nghi lễ đại triều,
dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa nhà vua nhất thống và Nguyễn
Huệ tôn phò. Ðến nay, nhà vua cố gượng dậy, ra ngự điện Kính Thiên nhận
lễ, rồi ban hành chiếu thư về việc nhất thống để bá cáo cho trong kinh,
ngoài trấn biết. Lại sách phong Văn Huệ làm Nguyên Soái Phù Chính Dực
Vận Uy Quốc Công. Sau khi Văn Huệ nhận sách phong, bèn nói riêng với Hữu
Chỉnh rằng: “Ta cầm vài vạn quân, đánh một trận mà bình được Bắc Hà,
một tấc đất, một người dân, đều là của ta, nếu muốn xưng đế hay xưng
vương việc gì mà ta không làm được? Còn như sắc mệnh nguyên soái quốc
công đối với ta có hơn kém gì? Bầy tôi Bắc Hà lại muốn dùng danh vị hão
để lung lạc ta hay sao? Ðừng tưởng ta là người mọi rợ được chức tước ấy
bèn lấy làm vinh dự đâu!”. Hữu Chỉnh biết ý Văn Huệ không mãn nguyện,
bèn bí mật khuyên nhà vua đem công chúa Ngọc Hân gả cho, Văn Huệ rất
bằng lòng.
[9] Theo sử nhà Thanh thì việc anh em Nguyễn Nhạc rút về có thêm một số chi tiết:
…五十二年,維端卒,嗣孫維祁立,阮惠盡取象載珍寶歸廣南,使鄭氏之臣貢整留鎮都城。貢整思扶黎拒阮,乃以王命率兵奪回象五十 …
… ngũ thập nhị niên, Duy Ðoan tốt, tự
tôn Duy Kỳ lập, Nguyễn Huệ tận thu tượng tải trân bảo quy Quảng Nam, sử
Trịnh thị chi thần Cống Chỉnh lưu trấn đô thành. Cống Chỉnh tư phù Lê cự
Nguyễn, nãi dĩ vương mệnh suất binh đoạt hồi tượng ngũ thập …
Năm (Càn Long) thứ 52, Duy Ðoan (tức vua
Lê Hiển Tông) chết, tự tôn là Duy Kỳ lên thay, Nguyễn Huệ thu hết châu
báu dùng voi chở về Quảng Nam, để bầy tôi họ Trịnh là Cống Chỉnh trấn
giữ đô thành. Cống Chỉnh tính chuyện phù Lê chống lại họ Nguyễn nên dùng
vương mệnh đem binh đoạt lại năm chục con voi … Thanh Sử Cảo, tập 48
(1996) tr. 14634-5
[10] Xem Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử (1952)
[11] Xem thêm bẩm văn của bọn Tạ Ðình
Thực đề ngày 22 tháng Mười, Càn Long 53 [19-11-1788]. Trang Cát Phát
(莊吉發), Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (清高宗十全武 功研究), (1982)
tr. 366-7 và bẩm văn của Lê Duy Cẩn ngày 22 tháng Mười, Càn Long 53
[19-11-1788], Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 365-6.
[12] Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện (DNLT) tập II (Ngô Hữu Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch) (1997) tr. 531-2
[13] DNLT, tập II, (1997) tr. 532
[14] Hoàng Xuân Hãn, “Thống Nhất Thời Xưa”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998) tr. 1375
[15] Theo lá thư của ông Sérard gửi ông
Letondal đề ngày 17 – 7 – 1791 thì vào khoảng tháng 3 năm 1791, khi vợ
vua Quang Trung mất, Nguyễn Nhạc đã tưởng lầm là Nguyễn Huệ từ trần nên
đem quân ra toan lấy Phú Xuân và phải quay về khi biết em ông còn sống.
Ðặng Phương Nghi, “Triều Ðại Quang Trung …”, Một Vài Sử Liệu … (1992)
tr. 264
[16] Lê Quí Dật Sử (Phạm Văn Thắm dịch) (1987) tr. 80-2
[17] Hoàng Xuân Hãn, “Phe Chống Ðảng Tây
Sơn ở Bắc với tập Lữ Trung Ngâm”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II
(1998), tr. 1245-1332
[18] Ðại đa số các địa phương miền Bắc
lúc đó đều đã qui thuộc nhà Tây Sơn, chỉ riêng một số vùng như châu
Hoan, châu Diễn (tức vùng Thanh Hoá, Nghệ An) và một số trấn Sơn Nam,
Sơn Tây, Hải Dương, Kinh Nam, Kinh Bắc, Tuyên Quang, Hưng Hoá … vẫn còn
một số thổ hào, hưởng ứng cần vương nổi lên chống lại nhưng lực lượng
yếu ớt, không có gì đáng kể. Những tòng vong nhà Lê khai với quan nhà
Thanh như sau:
… đất An Nam trước nay có 52 phủ, trong
đó 12 phủ là do thổ mục, man tù sinh sống (tức người vùng núi), còn thực
quyền là 40 phủ, trong đó đạo Thanh Hoa gồm 4 phủ 15 huyện,đạo Tuyên
Quang 3 châu 1 huyện, đạo Hưng Hóa 10 châu 2 huyện là chưa đầu hàng
Nguyễn Văn Huệ, ngoài ra An đạo 4 phủ 12 huyện của miền trên cũng chưa
hàng, còn miền dưới thì hàng cả rồi. Ðạo Sơn Nam 9 phủ 36 huyện, miền
trên cũng đã hàng, miền dưới chưa hàng (?). Ðạo Sơn Tây gồm 5 phủ 24
huyện, miền trên chưa hàng, miền dưới cũng đãhàng. Ðạo Kinh Bắc gồm 4
phủ 20 huyện, miền trên chưa hàng, miền dưới hàng rồi. Ðạo Hải Dương 4
phủ 19 huyện, miền trên đã hàng, miền dưới chưa hàng (?). Ðạo Thái
Nguyên 8 huyện, 3 châu, miền trên chưa hàng, miền dưới đã hàng. Ðạo Cao
Bằng 1 phủ, 4 châu và Lạng Sơn 1 phủ, 7 châu cũng đã đầu hàng. Nguyễn
Văn Huệ muốn xúi bẩy dân chúng bắt giao Lê Duy Kỳ nên đã hứa miễn giảm
sưu thuế cho dân trong mười năm. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 346 và
tr. 353
[19] lúc này chưa đổi thành Thanh Hoá vì chưa kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng.
[20] Nguyễn Huệ cũng không trải quân lẫn
vào các thôn xóm, phần sợ bị tiêu diệt, phần khác vì phương pháp điều
binh nếu cần có thể di chuyển thật nhanh. Thành thử quân của ông chỉ
đóng ở các đình chùa, miếu mạo … luôn luôn sẵn sàng nhổ trại không xây
dựng hệ thống phòng ngự kiên cố.
[21] Chữ Quýnh nguyên có bộ Nhân đứng ở bên trái.
[22] Nguyên văn trong tài liệu của nhà Thanh là thê cữu (妻舅).
[23] Về độ dài đời Thanh cho đến nay
những số liệu chính thức tìm được không thống nhất (căn cứ vào những
thước mẫu tàng trữ trong Viện Bảo Tàng), 1 thước (xích) thay đổi từ 32
đến 36.7 cm. Theo cách tính của Trung Hoa, 1 lý [里] là 18 dẫn [引], 1 dẫn
là 10 xích [尺], tính ra một lý (dặm) ngắn nhất là 576 mét, dài nhất là
660 mét. Như vậy khoảng cách giữa hai địa điểm theo sách vở ghi lại chỉ
là ước tính không hoàn toàn chính xác như chúng ta ngày nay.
[24] Theo Lê Quýnh trong Bắc Hành Tùng
Ký thì chỗ này có tên là bến Phất Mê. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập
II. (1998) tr. 876
[25] Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Ký”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) tr. 876-7
[26] Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC), (2002) tr. 425-26
[27] Tên thực là Nguyễn thị Kim. GS
Hoàng Xuân Hãn viết là Nguyễn thị Ngọc Thuỵ, theo tờ trình của Nguyễn
Huy Túc thì là Ngọc Ðoan. Hai chữ Thuỵ (瑞) và Ðoan (端) rất giống nhau.
Tờ trình nay còn nguyên bản chắc phải đúng hơn.
[28] Cung Trung Ðáng (The Palace
Records) Cố Cung Bác Vật Viện (National Palace Museum) Ðài Bắc: Tờ trình
của Tôn Vĩnh Thanh đề ngày 1 tháng Sáu năm Càn Long 53 [4-7-1788], tờ
trình của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 4 tháng Sáu năm Càn Long 53 [7-7-1788],
tờ trình của Tôn Vĩnh Thanh ngày 13 tháng Sáu [16-7-1788]. Trang Cát
Phát, TTVC (1982). tr. 359.
[29] Con số có thể lớn hơn nữa vì hơn
200 là tông thất nhà Lê lúc ban đầu, về sau có thêm bọn Nguyễn Huy Túc,
Lê Quýnh … không biết bao nhiêu. Tính theo tỉ lệ số người bị Tây Sơn bắt
giết là đa số, những người còn sống sót chỉ là thành phần quan trọng
nhất được bảo vệ mà thôi.
[30] Quân Cơ Xứ, CCBVV, bản sao tờ trình
của di mục nước An Nam đề ngày 12 tháng Năm năm Càn Long 53
[15-6-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 345-6.
[31] người Vô Tích, tự Hoành Ðộ (宏度), hiệu Xuân Ðài (春臺), đỗ cử nhân đời Càn Long giữ chức tuần phủ Quảng Tây.
[32] Thuộc Nhương Hồng Kỳ, từng đánh
Miến Ðiện, Kim Xuyên, lập nhiều công lao được giữ chức tổng binh Hưng
Hán, Thiểm Tây. Sau làm đề đốc tỉnh Quảng Tây, bệnh chết trước khiđem
quân đánh Ðại Việt.
[33] Chakri nguyên nghĩa là nguyên soái
hay tướng quân vì trước đây ông ta chỉ huy quân đội của Phraya Taksin và
dùng tên này làm tên triều đại.
[34] Ðông Nam Á người Trung Hoa gọi là
Nam Dương (biển phía nam) bao gồm khu vực mà ngày nay chúng ta đặt tên
là Southeast Asia, Mã Lai Á, Indonésia, Philippines.
[35] Năm 1273, khi Nguyên Thế Tổ
(Kubilai) nhà Nguyên đòi vua Miến triều cống và thân hành sang chầu, vua
Miến Ðiện đã xử tử sứ giả. Năm 1277, nhà Nguyên đem quân từ Vân Nam
xuống đánh, thắng được tại vùng lòng chảo Nam Ti nhưng người Miến vẫn
không chịu khuất phục. Năm sau, 1278, nhà Nguyên lại đem quân sang đánh
lần nữa, nhưng vẫn không tiến được đến kinh đô Bhamo. Khí hậu viêm nhiệt
nhất là bệnh dịch đã khiến cho quân Mông Cổ tổn thất nặng nề.
Năm năm sau, 1283, một đạo quân do tướng
Mông Cổ Singtur (thay vì do người Hồi chỉ huy như trước đây) tiến đánh
thung lũng Irrawaddy và ép vào kinh thành khiến vua Miến phải lui vềvùng
đầm lầy để chống trả. Ðến năm 1287, quân Nguyên chiếm được Miến Ðiện
(khi đó có tên là Pagan) và sáp nhập vào đế quốc Mông Cổ. Miến Ðiện chỉ
thu hồi được lãnh thổ khi nhà Nguyên bị diệt vong. C.P. Fitzgerald, The
Southern Expansion of the Chinese People. (1972) tr. 81
[36] Alexander Woodside, “The
Ch’ien-Lung Reign” trong Willard J. Peterson (ed.), The Cambridge
History of China, Vol 9, phần 1: The Ch’ing Dynasty to 1800 (2002) tr.
264-68.
[37] To break the power of Nguyễn Huệ,
Sun (Sun Shih-I tức Tôn Sĩ Nghị) proposed to Ch’ien-lung that Vietnam be
dismembered. Central Vietnam would be awared to Siam, in return for
Thai aid against the Tay-son brothers. It was clear to Sun and his
master that the Le prince whom they were supporting was incompetent,
even as a figurehead. At first Ch’ien-lung thought a military alliance
with the Thai regime “seemed like something that could be done”. He
subsequently rejected the idea, not because it was politically immoral,
but because it would shower disproportionate favor upon the Thai king
and, even worse, damage the reputation he had earned in his Sinkiang
triumphs of using only his own armies and not accepting the assistance
of an “outer region military power”. Alexander Woodside: “The
Ch’ien-Lung Reign” trong Willard J. Peterson (ed.). The Cambridge
History of China, Vol. 9 Part 1 – The Ch’ing Dynasty to 1800 (2002) tr.
277
[38] Tuy nhiên theo một lá thư của giáo
sĩ Le Labousse gửi từ Sài Gòn ngày 15 tháng 6 năm 1789 thì Nguyễn Ánh đã
bắt được một bức thư của vua Càn Long gửi vua Xiêm yêu cầu đánh vào mặt
nam Ðại Việt (Le Roy d’ici (tức Nguyễn Ánh) a intercepté une lettre
écrire au nom de L’empereur de Chinois au Roy de Siam pour lui dire de
venir attaquer les T.S. de coté-ci par la Cochinchine) Nguyễn Nhã, “Một
Thiên Tài Quân Sự”, Một Vài Sử Liệu …(1992) tr.107-8, cước chú 38
[39] Alexander Woodside, “The Ch’ien-Lung Reign” (2002) tr. 277
[40] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362
[41] Ðời Thuận Trị, nhà Thanh phong cho
Ngô Tam Quế (吳三桂) làm Bình Tây Vương trấn đóng ở Vân Nam, Cảnh Trọng
Minh (耿仲明) làm Tĩnh Nam Vương, trấn đóng Phúc Kiến, Thượng Khả Hỉ (尚可喜)
làm Bình Nam Vương, trấn đóng Quảng Ðông. Tam Phiên khi đó được giữ
trọng binh, thế lực càng lúc càng lớn. Tháng Ba năm Khang Hy thứ 12
(1673), Thượng Khả Hỉ dâng sớ xin cáo lão về Liêu Ðông để cho con là
Thượng Chi Tín kế vị, nhân cơ hội đó triều đình xuống chiếu triệt phiên.
Tới tháng Bảy, Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung (con của Cảnh Trọng Minh)
cũng dâng sớ xin triệt binh, vua Khang Hy liền ra lệnh cho cả 3 phiên
di chuyển ra ngoài Sơn Hải Quan. Ngày 21 tháng Một, Ngô Tam Quế khởi
binh chống lại nhà Thanh, tuyên bố ủng lập Chu Tam Thái Tử (tức Chu Từ
Quýnh 朱慈炯, con của Sùng Trinh hoàng đế, khi đó thất tung nhưng người Hán
dùng danh vị để phát động phong trào phản Thanh phục Minh), viết thư
cho Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỉ cùng khởi sự, gây ra cái loạn Tam
Phiên. Năm Khang Hy thứ 17, Ngô Tam Quế xưng đế ở Hành Châu 衡州, quốc
hiệu Ðại Chu nhưng chẳng bao lâu thì từ trần, cháu là Ngô Thế Phan 吳世璠
kế vị. Ngày 19 tháng Mười năm Khang Hy thứ 20, quân Thanh đánh tới Côn
Minh, Ngô Thế Phan tự tử, loạn Tam Phiên chấm dứt, tổng cộng 8 năm.
[42] Mỗi lần nhà Thanh động binh đều
phải tìm một cớ “chính đáng”, không bình định nội loạn thì cũng chinh
phạt ngoại hoạn … Tuỳ trường hợp mà họ dùng một động từ thật kêu chẳng
hạn như bình định (平定) Kim Xuyên, đãng bình (蕩平) Chuẩn Cát Nhĩ, chinh
phục (征服) Hồi bộ, thảo phạt (討伐) Miến Ðiện, tĩnh tuy (靖綏) Ðài Loan, thảo
hàng (討降) An Nam …
[43] Lai Phúc Thuận, Càn Long Trọng Yếu
Chiến Tranh chi Quân Nhu Nghiên Cứu, (1984) tr. 30, trích từ Cung Trung
Ðáng, CCBVV, tấu chương của hai họ Tôn ngày mồng 8 tháng Năm năm Càn
Long thứ 52 [22-6-1787]
Nguyên văn:
然已亡失國之印信,因鄭氏擅權時,曾竊奪國印,謀取簒位。黎維祁乃咨請憑信,兩廣總督孫士毅以其未經具本告哀,尚未奉旨承襲,不便先給印信,拒之。
(Nhiên dĩ vong thất quốc chi ấn tín,
nhân Trịnh thị thiện quyền thời, tằng thiết đoạt quốc ấn, mưu thủ soán
vị. Lê Duy Kỳ nãi tư thỉnh bằng tín, Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị dĩ
kỳ vị kinh cụ bản cáo ai, thượng vị phụng chỉ thừa tập, bất tiện tiên
cấp ấn tín, cự chi.)
[44] Thanh Cao Tông thuần hoàng đế thực
lục [Thanh Thực Lục], q 1307, tr 9, ỷ tín thượng dụ ngày Canh Tuất,
tháng Sáu, Càn Long năm thứ 53. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 348-9.
[45] nguyên văn theo tấu thư là “điếu
phạt chi sư vị động, hưng kế chi nghiệp khả thành” (弔伐之師未 動,興繼之業可成) quân
điếu phạt chưa cần ra tay thì công việc làm cho kẻ mất nghiệp kia được
trở lại đã thành rồi.
[46] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr.
349. Cung Trung Ðáng, CCBVV, tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8
tháng Bảy, Càn Long thứ 53 (1788); Quân Cơ Xứ, CCBVV, bản sao tấu triệp
của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 8 tháng Bảy năm Càn Long 53.
[47] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353
[48] Ngươi Nguyễn Nhạc đuổi chủ làm loạn
cương thường, vọng tưởng việc soán nghịch. Tổng đốc nghe tin đích thân
đến đây, đã tâu lên đại hoàng đế điều động quan binh các tỉnh Vân Quí,
Xuyên Quảng, Phúc Kiến vài mươi vạn, chia đường ra tiến đánh. Nguyễn
Nhạc ngươi nếu không hối tội tự mình đổi mới, nghinh đón chủ cũ trở về,
bảo toàn gia quyến, lại dám quấy nhiễu thiên triều, đem nạp cống vật.
Di mục các ngươi đã từng nhận quan chức
của họ Lê, bỗng dưng trở mặt thờ kẻ thù, thay chúng gõ cửa quan cầu xin,
thực đúng là kẻ vô liêm sỉ. Ðúng ra ta phải bắt các ngươi ngayđể xin
hoàng thượng hạ chỉ đem ra chính pháp. Nhưng nghĩ rằng các ngươi chỉ là
những di quan thấp kém, không đáng để trừng trị, vậy hãy mau mau trở về
nói cho Nguyễn Nhạc biết rằng, hoạ phúc chỉ trong nháy mắt, các ngươi tự
thu lấy.
Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353-4.
Cung Trung Ðáng, CCBVV, bản sao tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8
tháng Bảy năm Càn Long 53 [9-8-1788]. Bản văn này cũng xuất hiện trong
Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược [quyển II] (bản dịch Nguyễn Duy Chính, chưa
xuất bản).
[49] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 350.
[50] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory, Ancient and Modern (1992) tr. 70-1 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
[51] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory … (1992) tr. 70-1
[52] Cố Cung Bác Vật Viện (故宮博物院). Thanh Cung Yến Lạc Tàng Trân (清宮宴樂藏珍) (Qinggong Yanyue Cangzhen). (2002) tr. 29
[53] Frederic Wakeman, Jr., The Fall of Imperial China (1975) tr. 102
[54] Alexander Woodside, “The Ch’ien-Lung Reign” (2002) tr. 270
[55] Có chỗ dịch là Hòa Thân
[56] Ngoại sử bảo là vì tướng mạo gã
giống một người thiếp của vua cha Ung Chính mà vua Càn Long từng tư
thông trước đây, bị hoàng hậu phát giác nên bức tử người quí phi đó.
Cũng có nhiều lời đồn đãi là vua Càn Long có quan hệ đồng tính luyến ái
với gã này vì vua Càn Long cho rằng y là người phi tần cũ đã đầu thai (A
homosexual liason was implied in popular stories, such as one
suggesting Heshen was the reincarnation of one of Emperor Yong-zheng’s
concubines, with whom Qianlong had been infatuated as a youth). Theo
những miêu tả của nhiều người ngoại quốc được gặp Hòa Khôn thì y là
người “thanh tú, đẹp trai, ăn mặc ra chiều thiếu đạo đức” (elegant in
looks, sprucely handsome in a dandified way that suggested a lack of
virtue). Ðó là lý do tại sao vua Càn Long lại sủng hạnh một gã bất học
vô thuật đến 20 năm. Jonathan D. Spencer, In Search for Modern China
(1990) tr. 115.
[57] Lê Kiệt, Thanh Sử (quyển thượng) (1964) tr. 339-340
[58] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory … (1992) tr. 70
[59] Ann Paludan, Chronicle of the Chinese Emperors (1998) tr. 202
[60] Bạch Thọ Di, (Bai Shouyi – 白壽彝) Trung Quốc Thông Sử Cương Yếu (An Outline History of China) (1982) tr. 402
[61] Macartney chỉ bằng lòng khấu đầu
(kowtow) nếu các quan nhà Thanh cũng phải trả lễ khấu đầu trước Anh
Hoàng George III (đại diện bằng một bức tranh sơn dầu lớn bằng người
thật) W. Travis Hanes III and Frank Sanello, The Opium Wars (2002) tr.
18
[62] Thực ra mọi thủ tục ngoại giao chỉ
là nghi lễ vì Thanh triều luôn luôn có những bàn thảo và quyết định
trước khi cho phép sứ bộ ngoại quốc lên kinh đô. Việc cho rằng bất đồng
trong việc ứng xử chỉ là những suy đoán không đúng với cách thức làm
việc của triều đình Trung Hoa. Theo tài liệu của nhà Thanh, lá thư trả
lời đã được soạn từ trước khi phái đoàn Anh tới Bắc Kinh nên những nỗ
lực của Macartney hầu như không có tác dụng gì.
[63] Ann Paludan, Chronicle … (1998) tr. 203.
[64] Truong Buu Lam:, “Intervention
versus tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790”, John K.
Fairbank (ed.), The Chinese World Order 2nd ed. (1970) tr. 168
[65] Tài liệu về Tôn Sĩ Nghị trích từ
các nguồn: Cao Dương. Thanh Triều Ðích Hoàng Ðế, Q. II, (1989) tr.
639-40. Trung Quốc Danh Nhân Tự Ðiển (Tang Lệ Hòa chủ biên), (1979) tr.
750, Arthur W. Hummel. Eminent Chinese of the Ch’ing Period 1644-1912
(1970) tr. 680-2
[66] Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 359-60.
[67] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Tờ bẩm của Lê
Duy Chỉ đề ngày 20 tháng Chín năm Càn Long 53 [18-10-1788]. Trang Cát
Phát, TTVC (1982) tr. 361.
[68] Trịnh Vương nguyên là tên gọi Trịnh
Quốc Anh (Taksin), một người Tàu lai làm vua Xiêm La từ 1767 nhưng đến
năm 1782 đã bị Chaopraya Chakri lật đổ lên ngôi tức vua Rama I
(1782-1809). Theo sử Trung Hoa, khi vua Rama I lên ngôi sai sứ sang Bắc
Kinh nói thác là con của Taksin tên là Trịnh Hoa nối ngôi.
[69] Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tấu triệp
của Tôn Sĩ Nghị, Càn Long năm thứ 53, ngày 26 tháng Chín (1788). Trang
Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362.
[70]… Kế đó là hạ sách, xưa nay cái đạo
vỗ về ngoại vực, bao giờ cũng lấy uy của thiên triều làm trọng, đâu có
phải nhờ ngoại vực đem sức hỗ trợ đâu? Vả lại Xiêm La vốn cùng Nguyễn
Văn Huệ đánh phá lẫn nhau, nếu như bây giờ bảo họ chiếm lấy Quảng Nam,
một mai việc bình định xong xuôi rồi, ắt phải đem Quảng Nam cho không
Xiêm La. Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị, Càn Long 53,
ngày 1 tháng Một [28-11-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362.
[71] Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362-3.
[72] Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Ðế Thực
Lục, quyển 1308, trang 25, dụ của vua Càn Long đề ngày Canh Ngọ, tháng
Bảy, năm thứ 53 [11-8-1788].
[73] đời Thanh, Quảng Ðông còn một phần
tiếp giáp với nước ta (xem bản đồ). Hiện nay chỉ còn hai tỉnh Vân Nam,
Quảng Tây mà thôi.
[74] Bọn Nguyễn Quốc Ðống lên đường ngày
mồng 10 tháng Tám năm Càn Long 53 [9-9-1788], đem theo vài bảng hịch
văn của nhà Thanh. Lương thực, ngựa phu và vật dụng đều được quan nhà
Thanh chu cấp. Tôn Vĩnh Thanh lại trích công khố phủ Nam Ninh 300 lượng
bạc, chia cho mỗi người 100 lượng làm lộ phí nhưng không tìm được vua
Lê.
[75] Cung Trung Ðáng, CCBVV. Giản văn Lê
Duy Kỳ ngày 24 tháng Tám năm Càn Long 53 [23-9-1788]. Trang Cát Phát,
TTVC (1982) tr. 356-7
[76] Sinh năm 1743, người làng Hương La, huyện An Phong, tỉnh Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi (Cảnh Hưng 36, 1775).
[77] Người xã Bảo Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, đỗ nhị giáp tiến sĩ khoa Ðinh Mùi (Chiêu Thống thứ 2, 1787).
[78] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Tờ trình của Lê
Duy Kỳ đề ngày 15 tháng Chín năm Càn Long 53 [13-10-1788] Trang Cát
Phát, TTVC (1982) tr. 352.
[79] Quân Cơ Xứ, CCBVB. Tờ trình của Lê
Quýnh ngày 15 tháng Chín năm Càn Long 53 [13-10-1788]. Trang Cát Phát,
TTVC (1982) tr. 353
[80] Ðối chiếu những bài thơ xướng họa
của vua Chiêu Thống và nhóm tòng vong ở Yên Kinh thì giọng văn của ông
luôn luôn bùi ngùi cảm thán, trái với nhóm bầy tôi thường nhiều hào khí
khuyên ông kiên nhẫn nằm gai nếm mật đễ mưu định đường trở về phục quốc.
[81] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 191
[82] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 195
[83] Chữ Ðiền nguyên có bộ ngọc 玉, chữ
Lạn cũng có bộ ngọc, chữ Lứu bộ kỳ 礻, có sách dịch là Trứu. Chữ Lứu một
bên bộ kỳ (礻), một bên chữ do (由), các sách nhà Thanh như Thánh Vũ Ký,
Thanh Ðại Thông Sử chép nhầm thành tụ 袖 (bộ y nghĩa là tay áo)
[84] CM II, quyển XLVII (1998), tr. 837-8
[85] Chữ này viết bộ nhân đứng, Khang Hi từ điển phiên thiết là lặc một thiết (勒沒切).
[86] Tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày 21
tháng Tám năm Càn Long 53 [20-9-1788]. Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Ðế
thực lục, quyển 1312, trang 25. Những người này sau được trả lại khi vua
Quang Trung traođổi tù binh ngoại trừ Nguyễn Viễn Du chết vì bệnh trong
khi bị giam.
[87] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Nguyên văn tờ
bẩm của bảy châu nước An Nam ngày 29 tháng Bảy năm Càn Long 53
[30-8-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 355
[88] vốn là học trò của Nguyễn Thiếp
[89] Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tờ bẩm này
bên phải có gắn xi đóng dấu vàng, ghi rõ là “kèm theo nguyên văn của
trấn thủ Lạng Sơn nước An Nam để cho hoàng đế ngự lãm, tra xét quả đúng
là di quan nhưng không có đóng dấu, vì chưng con dấu cũ do vua Lê nước
nam cấp cho đã bị họ Nguyễn thu mất rồi, nay chỉ có nguỵ ấn nên không
dám dùng”. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 355-6
[90] Theo tờ trình của Tôn Sĩ Nghị. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356
[91] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 356
[92] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr.
356-7. Tuy nhiên, theo sử nước ta thì Trần Danh Bính chỉ trá hàng, về
sau khi quân Thanh tiến sang, đem binh cự địch bị giặc bắt giết.
[93] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr.
357-9. Cung Trung Ðáng, CCBVV. Bài văn này phải kể là một tuyệt tác,
không biết do danh nho nào [có lẽ là Ngô Thì Nhậm] nhân danh Ðại Tư Mã
Ngô Văn Sở soạn ra.
[94] nghĩa đen vin vào vảy (con rồng),
tựa vào cánh (con phượng), tức là phò tá một bậc minh chủ (còn viết là
phàn long phụ phượng)
[95] trong tấu văn không liệt kê nhưng
trong sách có ghi là của các quan ở Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải
Dương, Thanh Hoa, Nghệ An, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hưng Hoá, An Quảng …
các nơi. Trang Cát Phát,TTVC (1982) tr. 366.
[96] Nguyên văn từ Quân Cơ Xứ, CCBVV,
bẩm văn của bọn Tạ Ðình Thực đề ngày 22 tháng Mười năm Càn Long 53
[19-11-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 366-7.
[97] Tờ bẩm của Lê Duy Cẩn ngày 22,
tháng Mười năm Càn Long 53 [19-11-1788] lưu giữ tại Quân Cơ Xứ, CCBVV.
Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 365-6.
[98] Trong CM, quyển XLVII có chép là
“Văn Huệ sai người lùng hết các bầy tôi văn võ, cưỡng ép họ đến cửa cung
khuyết để cùng đứng tên vào tờ biểu khuyên mời Văn Huệ lên ngôi vua.
Huy Trạc bị bắtđến Ngự sử đài, không chịu ký tên vào tờ biểu ấy, đêm
đến, uống thuốc độc tự tử. Việc này do đó cũng đình chỉ”. Như vậy việc
này có thể là thật.
[99] Chỉ trấn thủ Lạng Sơn Phan Khải Ðức
[100] Tờ biểu trên đây tuy có thể nhiều
phần không đúng sự thật nhưng có một điểm chúng ta có thể cải chính.
Trước đây, sử ta đều dựa theo HLNTC mà chép rằng khi nghe tin Tôn Sĩ
Nghị kéo quân sang, Lê Duy Kỳtheo về đến Thăng Long, lúc đó mới trả ân
báo oán, trong đó có việc chặt chân ba hoàng thúc vứt xuống giếng trong
cung. Nhưng theo lá thư này, việc ba người chú Lê Duy Kỳ bị giết xảy ra
từ khi mới lên nắm quyền trước khi lưu vong. Chúng ta cũng biết được tên
của ba người hoàng thúc đó là Lê Duy Lữ, Lê Duy Lân, Lê Duy Hội. Theo
HLNTC thì những người viết lá thư này là Nguyễn Quí Nhạ, Trần Bá Lãm, Vũ
Huy Tấn cũng bị hạ ngục khi Lê Duy Kỳ trở về, chỉ có Nguyễn Bá Khoan
được miễn vì dốt nát, già cả. Một giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Ba Lê
(Société des Missions Étrangère de Paris) cũng nhắc đến một sắc dụ của
Nguyễn Huệ trong đó kết tội “Chiêu Thống đã phạm trọng tội gian dâm và
loạn luân ghê tởm với em gái ông và sát nhân vì ông đã cho giết một cách
dã man ba người chú ông và một người vợ của Cảnh Hưng, tổ phụ ông …” để
đưa ra một trọng thưởng cho người nào bắt được Lê Duy Kỳ. Ðặng Phương
Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 187
[101] Ðề đốc Quảng Tây là Tam Ðức đã bị
bệnh mất ngày mồng 8 tháng Bảy năm đó [9-8-1788], Hứa Thế Hanh (từ Chiết
Giang được điều động lên thay) đem quân tới Long Châu phòng thủ (theo
Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược, quyển 2 trang 1). Trang Cát Phát, TTVC (1982)
tr. 359.
[102] người Tân Ðô, Tứ Xuyên gốc người
Hồi, tòng quân đánh Kim Xuyên, lập công trạng trong vụ đánh Ðài Loan nên
được làm đề đốc Quảng Tây, khi bị chết ở Thăng Long được thăng Tráng
Liệt Bá, ban tên thuỵ Thiệu Nghị.
[103] Theo Ian Heath trong Armies of the
Nineteenth Century: Asia V. 2: China (Great Britain: Foundry Books,
1998) trang 18-9 thì những cấp bậc đó tương đương với hiện thời như sau:
ÐềÐốc (đại tướng), Tổng Binh (trung tướng), Phó Tướng (thiếu tướng),
Tham Tướng (đại tá), Du Kích (thượng tá), Ðô Ti (trung tá), Thủ Bị
(thiếu tá), Thiên Tổng (đại uý), Bả Tổng (trung uý) … Tuy nhiên nếu là
ngoại vi thiên tổng thì chỉ tương đương trung sĩ còn ngoại vi bả tổng
chỉ tương đương hạ sĩ. Thực ra những danh hiệu này là chức vụ, không
phải cấp bậc nên những phiên dịch không hoàn toàn chính xác nhưng cũng
cho ta một số khái niệm về vai trò quân sự của các tướng lãnh nhà Thanh
thời đó.
[104] thuộc Nhương Lam Kỳ Hán quân, làm tổng binh Hữu Giang trấn Quảng Tây, khi chết tại nước ta được ban thuỵ là Trực Liệt (直烈)
[105] Tôn Khánh Thành (孫慶成) là chắt (great-grandson) của Chấn Võ tướng quân Tôn Tư Khắc, một danh tướng đầu đời Thanh.
[106] Người Ðại Ðồng nhưng sang sống ở
Quí Châu, từng tham dự các trận đánh Miến Ðiện, Kim Xuyên lập nhiều công
lao nên thăng lên đô ti. Sau tham dự đánh Ðài Loan trong chiến dịch
bình Lâm Sảng, Trang Ðại Ðiền nên được lên tổng binh Nam Áo (南澳), Phúc
Kiến. Khi chết ở nước ta được ban tên thuỵ là Tráng Quả (壯果).
[107] Người Trường An, đậu tiến sĩ võ
đời Càn Long, làm tham tướng Ðức Châu. Khi Vương Luân nổi loạn ở Thọ
Trương, ông đem quân đánh dẹp, thăng lên đề đốc Vân Nam và ở đây cho tới
chết.
[108] Thuộc Nhương Hoàng Kỳ Mãn Châu,
từng tham gia các cuộc chiến đánh Miến Ðiện, Kim Xuyên, thăng lên tổng
binh Thọ Xuân. Ðến đời Gia Khánh có công trong việc đánh dẹp các giáo
phái tại Hà Nam, Thiểm Tây. Sau lên làm đề đốc Ô Lỗ Mộc Tề (烏魯木齊)
[109] người Võ Thành, có chiến công nên được làm ngoại uỷ đời Càn Long, tham dự đánh Kim Xuyên, sau lên làm đề đốc Quảng Ðông
[110] Theo hệ thống đo lường của Trung
Hoa thì 10 dược [龠] là 1 hợp [合], 10 hợp là một thăng [升], 10 thăng là 1
đẩu [斗], 10 đẩu là 1 thạch [石]. Theo cách tính đong gạo, đời Thanh một
thạch là 125 cân, thời Dân Quốc lại là 150 cân. Một cân đời Thanh là 596
gram. Như vậy 1 thạch là 74.5 kg, 1 đẩu là 7.45 kg, 1 thăng là .745kg, 1
hợp là 74.5 gram, 1 dược là 7.45 gram. Trung Quốc Lịch Sử Ðại Từ Ðiển,
(Thượng Hải từ thư, 2000)
[111] Mặc dù Tôn Sĩ Nghị giảm lương vì
muốn tiết kiệm ngân sách nhưng cũng vì thế mà quan binh trong lòng bất
mãn nên không có chí chiến đấu, gặp lúc núng thế liền bỏ chạy như khi
tại Thăng Long sau này.
[112] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 360.
[113] Tôn Sĩ Nghị vốn dĩ định sau khi
chiếm được Thăng Long rồi sẽ đem quân đánh vào Quảng Nam nên đã dự bị
thủy lục hai mặt, quân thủy nửa tháng sau sẽ qua nhưng vì thuyền lớn qua
khôngđược mà cửa sông Nhĩ Hà thì quân địch đã chặn rồi nên ra lệnh cho
đóng 40 chiến thuyền, đủ sức chở 2,000 quân, lập thêm 25, 26 trạm trên
bộ cách nhau chừng 8, 90 dặm, ngoài ra còn xây thêm 53 trạm lương thực
nhưng vì sau này bị thua ở Thăng Long nên những công tác này không thực
hiện.
[114] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 363.
[115] Nhiều tài liệu chỉ chép số quân
của Sầm Nghi Ðống là 1500 người nhưng các con số trên đây trích từ chính
tấu thư của Tôn Sĩ Nghị (KDANKL, quyển X, tr. 14)
[116] Trong chiến dịch đánh An Nam, rút
kinh nghiệm các trận đánh ở Miến Ðiện, nhà Thanh đổi chiến lược không
điều động kỵ binh từ miền bắc xuống mà chỉ dùng quân địa phương, thổ
binh và chủ yếu phương tiện của bốn tỉnh miền tây nam giáp với nước ta.
Chính vì thế, công tác chuẩn bị cũng nhanh mà lực lượng điều động cũng
nhỏ (nhỏ nhất trong mười chiến dịch đời Càn Long), không ghê gớm như
chúng ta thường tưởng tượng.
[117] Không riêng gì quân Thanh ở cuối
thế kỷ XVIII, 500 trước quân Mông Cổ cũng lâm vào những khó khăn tương
tự. Ðoàn quân ngoại nhập phải mang theo một số lượng thực phẩm rất lớn
cho cả quân đội lẫn phu phen. Nhà Nguyên cũng phải thiết lập nhiều trạm
tiếp vận, cách nhau 30 dặm (khoảng 15 km) và một dịch trạm mỗi 60 dặm
(30 km). Trong một lá thư của quan chức nhà Nguyên gửi triều đình có đề
cập đến những khó khăn như sau:
Ngay từ thời cổ, khi điều binh thì luôn
luôn phải sao cho hợp với thiên thời. Trung Nguyên đất phẳng, vậy mà ta
cũng vẫn phải tránh cái nóng mùa hè. Còn như Giao Chỉ là nơi oi nồng
(feverish) ôn dịch (pestilential), khí hậu nơi đây khiến cho quan quân
thiệt hại còn nhiều hơn cả đối phương tấn công. Nay ta lại điều binh
xuống vào tháng Bảy, trước khi tới được An Nam đã chết mất khá nhiều,
thế thì khi gặp địch làm sao mà đối phó? Xứ Giao Chỉ lại chẳng có gạo
thóc, thủy đạo bất tiện, không thể không tiếp tế bằng đường bộ nhưng lại
không có ngựa, bò, xe cộ. Mỗi người có thể mang được 5 đấu, nhưng trên
đường đi phu cũng phải ăn, thành thử quân chỉ còn được một nửa. Cho nên
nếu như muốn gửi tới 100,000 thạch gạo thì phải dùng đến 40 vạn phu để
chuyên chở, mà gạo đó cũng chỉ đủ ăn 1 đến 2 tháng mà thôi. Xie Qikun,
Guangxi Tongzhi (Quảng Tây thông sử) bản đời Gia Khánh (1796-1821)
(Quảng Tây Nhân Dân Xb xã tái bản, 1988) Vol VIII, chương 187, trang
5032.
Lấy trong http://mcel.pacificu.edu /as/resources/ zhuang/zhuang11.htm tr. 22-3.
[118] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 363
[119] Nguyễn Anh Huy, Lịch Sử Tiền Tệ
Việt Nam: Sơ Truy và Lược Khảo (2010) tr. 151 Tấm ảnh của đồng tiền này
có in trong trong Phụ Lục Ảnh Màu của tài liệu trên. Xem thêm Annam and
its minor currency (Ed. Toda 1882) phần II, chương XX Chinese
intervention in Tunquin, and the Nguyen Dynasty (http://art-hanoi.com/toda/20.html).
[120] Vào thế kỷ XVII, XVIII tiền tệ có thể dùng lẫn lộn tại nhiều nơi và lưu hành nhiều loại tiền cùng một lượt ở nước ta.
[121] Trong bất cứ lần Nam chinh nào,
Trung Hoa đều gặp phải những khó khăn tương tự và quân đội điều động tuy
có lớn trên số lượng nhưng thành phần binh sĩ chiến đấu chỉ là 1/4, 3/4
còn lại là phu khuân vác thường là các sắc dân thiểu số vùng Vân – Quí
và người dân tại hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây. Nếu với tỉ lệ tương
ứng, quân Thanh tuy tiếng là 20 vạn nhưng thực ra chỉ độ 5 vạn quân
chiến đấu, 15 vạn kia là phu phen. Những số liệu đó phù hợp với con số
mà sổ sách binh nhu, chi phí của nhà Thanh trong chiến dịch và cũng phần
nào giải thích được tại sao Nam sử lại chép một số lượng quá chênh lệch
với số quân nhà Thanh điều động.
[122] Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 314-5
[123] Trang Cát Phát: TTVC (1982) tr. 363.
[124] Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (quyển 9) (1976) ngự chế thi tập V, quyển 43, trang 34.
[125] Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (Quốc
Sử Quán triều Nguyễn) Phạm Trọng Ðiềm dịch (1997) thì cách châu Ôn 11
dặm về phía tây có núi Kháo gồm 2 ngọn, một cao một thấp gọi là “kháo
mẹ, kháo con”, trên đỉnh có đường lớn cho sứ bộ đi, khách buôn bán cũng
qua đường này. Phía nam châu Ôn thì có Quỉ Môn Quan, thuộc xã Chi Lăng,
đường hẹp, khó đi, hiểm trở, nướcđộc, đá hình như đầu ma, đầu quỉ nên
đặt như thế. Khi sứ bộ Trung Hoa sang sách phong cho vua Lê đổi tên
thành Úy Thiên Quan. (quyển 4, tr. 377, 387)
[126] chữ Hộ nguyên có bộ ngôn 言 ở bên trái
[127] theo tờ biểu của vua Quang Trung
gửi lên vua Cao Tông thì bọn tuần dương binh ấy do Hắc Thiệu Tông cầm
đầu, khi trả về cũng bị Tôn Sĩ Nghị giết cả. Hoa Bằng. Quang Trung
Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792. (1958) tr. 214. Thực ra những
người này một số được dùng vào đội thủy quân, một số trả về nguyên quán.
[128] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 364
[129] Vua Càn Long cũng đã đề cập đến
việc ngay từ đầu Tôn Sĩ Nghị đã tâu rằng nhân cơ hội này lấy luôn nước
Nam. (Nguyên văn: 孫士毅初奏安南內訌情形有乘此機會剿平後收其土地之意 … Tôn Sĩ Nghị sơ tấu An Nam
nội hồng tình hình hữu thừa thử cơ hội tiễu bình hậu thu kỳ thổ địa chi ý
…) Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển
43, tr. 26. Chi tiết này hoàn toàn không thấy các sử gia Trung Hoa nhắc
đến và cũng phù hợp với sử nước ta nói rằng khi bắt được một số văn thư
mật, họ Tôn đã đề cập đến việc khai thác tình hình rối loạn của An Nam
để trục lợi. Câu chúng tôi trích dẫn ở trên là chính lời nguyên chú của
vua Cao Tông không phải của sử thần.
[130] Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển 43, tr. 35
[131] Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (1976) Ngự Chế thi V, quyển 43, tr. 36
[132] Theo tấu thư của Tôn Sĩ Nghị khi
còn ở Triều Châu được lệnh đúc ấn có dụ chỉ là ấn mới nên thêm hay bớt
đi một chữ để phân biệt với ấn cũ, ngõ hầu biết cái nào thực, cái nào
không thực. Tôn Sĩ Nghị đề nghị đem mẫu ấn cũ bỏ đi chữ chi (之) chỉ còn
An Nam Quốc Vương Ấn (安南國王印). Ấn cũ dọc 11.6 phân, ngang 11.5 phân, trên
khắc 6 chữ An Nam Quốc Vương Chi Ấnbằng chữ triện bằng cả hai thứ chữ
Mãn Châu và Hán. Tuy nhiên việc này không thực vì theo con dấu mới đóng
trên các tấu biểu của Lê Duy Kỳ vào ngày mồng 2 và 24 tháng Chạp năm đó
(còn lưu tại văn khố Ðài Loan) thì ngang dọc cũng bằng ấn cũ, chỉ có chữ
khắc mảnh mai hơn, và cũng vẫn thấy đủ 6 chữ An Nam Quốc Vương Chi Ấn,
không bỏ chữ chi. Trang Cát Phát, TTVC (1982) chú thích 72 trang 411.
[133] Cung Trung Ðáng, CCBVV, Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 259
[134] CM II (1998) tr. 843-4
[135] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368.
[136] tức sông Thương
[137] Theo tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề
ngày 15 tháng Một năm Mậu Thân (Càn Long 53) [12-12-1788]. Cung Trung
Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368.
[138] đây có lẽ là một cánh quân người Thượng từ trong nam ra
[139] Ðại quân thẳng tới huyện Bảo Lộc,
thuộc Giang Bắc. Ba lần đánh đều được. Bắt đô đốc Trần Danh Hoán, chém
đi. (Có lẽ hai chữ bính 炳 và hoán 煥 vì mặt chữ khá giống nhau nên tam
sao thất bổn) Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Kyù “.La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân
Hãn, tập II (1998) tr. 879.
[140] núi có ba tầng chồng lên nhau, ở xã Nam Ngạn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Ninh, cách huyện Việt Yên 9 dặm về phía đông.
[141] có thể không đến con số này nhưng quân Thanh phao lên để báo tiệp cho thêm vẻ vang.
[142] Minh Thanh sử liệu, thiên Canh,
bản thứ 2, trang 101. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 368-9. Trận Thị
Cầu mỗi sách chép một khác, chẳng hạn trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí:
… Phan Văn Lân nói:
– Quân không cứ nhiều, nước không cứ
lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến, chưa tửng tiếp chiến,
mới nghe thấy tiếng doạ hão đã tự lui nhụt, thì còn dùng tướng làm gì?
Tôi xin tự đem một nghìn tinh binh tiến thẳng lên sông Như Nguyệt, chọi
nhau với nó một trận, xem nó có khí thế gì? Người Nam với người Tầu ai
khoẻ hơn ai? Và cho nó biết mình đây không nhát. Ðó cũng là cách “chặn
trước thì đè được người”.
Sở (Ngô Văn) cho là phải. Lân bèn đốc
quân qua sông Bắc canh ba, tới bờ phía nam sông Nguyệt Ðức, vừa nghe Tôn
Sĩ Nghị đã đóng ở núi Ba Tầng. Lúc ấy tiết trời cực giá rét, Lân cứ dồn
quân sang sông khai chiến. Tướng sĩ sợ oai của Lân, đều phải liều xông
hơi lạnh, lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông nhiều người cóng quá
không thể sang được, đều bị chếtđuối, kẻ nào vào được tới bờ, cũng bị
quân Thanh giết chết. Lân liệu không thể giao chiến, tức thì vẫy quân
chạy lùi. Dư đảng tan vỡ, chạy vào các làng, lại bị dân quê săn bắt đem
nộp cho quân Thanh. Lân phải một mình một ngựa chạy về Thăng Long … Ngô
Thời Chí, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, (1969) tr. 290-1.
Việt Thanh chiến sử của Nguỵ Nguyên thì chép theo Thanh sử, tuy không rõ ràng nhưng cũng đầy vẻ ngoa ngôn:
… Ngày 15, tiến đến Thị Cầu (Nguyệt
Ðức). Sông rộng. Vả bờ nam dựa vào núi, cao hơn bờ bắc. Giặc giữ chỗ
hiểm dàn súng. Quân ta không thể kết bè. Các tướng nghĩ rằng hình
thếsông cong queo, (khiến) giặc trông ra thấy không được xa. Bề ngoài,
bèn chở tre gỗ, làm cầu phao để tỏ rằng thế nào cũng qua sông (chỗ ấy).
Rồi giấu hai nghìn quân ở thượng du (cách đó hai mươi dặm), chỗ nước
chảy chậm, lầy thuyền con đang đêm qua sông.
Ngày 17 (tháng Một) quân ta cưỡi bè áp
bờ. Cầm cự với nhau đang sôi nổi, thì gặp khi quân từ thượng du đả vòng
ra sau lưng giặc, nhân chỗ cao mà hét to, đánh xuống. Tiếng ran các hang
núi. Giặc không biết vương sư từ đâu xuống, bèn tan rã chạy lùi. Nguỵ
Nguyên, “Việt Thanh Chiến Sử”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II
(1998) tr. 1342.
Riêng Lê Quýnh trong Bắc Hành Tùng Ký thì viết là mưu đánh tập hậu là do bồi thần nhà Lê hiến kế như sau:
… Quýnh và Lê Duy Ðản bàn với nhau rằng:
“Từ khi (ta) ra cửa ải đến nay, quân địch thua luôn. Chắc chúng đặt
nhiều quân ở núi Thị Cầu, (mong) có nước chặn, để cự lại. Nhưng chúng nó
dùng binh chỉ biết nhìn phía trước, thường không ngoảnh về phía sau.
Nên dùng kỳ binh chộp phía sau, thì chắc sẽ thắng. Quân ở doanh Thị Cầu
(nếu) đã bại, thì khôi phục cốđô dễ như nhổ nước bọt vào tay”.
Ðến khi đại binh tiến đến núi Tam Tằng,
cách địch con sông. Lê Duy Ðản nói (mưu ấy) với quan lớn Tôn. Quan lớn
bèn nghe kế. Ngày 20, qua sông Thị Cầu, phá doanh giặc, tiến đến bờ bắc
sông Phú Lương (muốn nói sông Nhị). Giặc Tây Sơn bỏ thành Thăng Long
chạy về phương nam. Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Ký”, La Sơn Yên Hồ Hoàng
Xuân Hãn tập II (1998) tr 880.
[143] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu
Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 216. Những ngày tháng mà các giáo
sĩ nêu ra có lệch (trước) với tài liệu của nhà Thanh 3 ngày.
[144] Một thước đời Thanh nếu đo đất thì khoảng 34.5 cm, đo vải thì khoảng 35.5 cm. Bốn thước xem ra chỉ khoảng 1.4 m.
[145] KDANKL, quyển IX, tr. 3
[146] Viên Mai, Tùy Viên Thi Thoại [Trương Ðình Chi dịch] (2002) tr 839-41
[147] Tạ Quang Phát (dịch). Nhà Tây Sơn (1970) tr. 127-9
[148] Các tài liệu do nhiều nguồn khác
nhau viết rất mâu thuẫn về vai trò của một số văn thần nhà Lê. Tây Sơn
thuật lược viết là Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Gia Phiền (Phiên?), Phan Huy
Ích, Ngô Vi Quí, Ðoàn Nguyên Tuấn cùng vào Phú Xuân yết kiến Nguyễn Huệ
(hay bị đưa đi theo?) khi Nguyễn Huệ ra Bắc trừ khử Vũ Văn Nhậm. Hoàng
Lê Nhất Thống Chí cũng có chỗ viết tương tự trong khi KÐVSTGCM thì viết
là Ngô Thì Nhậm còn ở Thăng Long với Ngô Văn Sở. Việc quân Tây Sơn rút
lui các sách vở Việt Nam cho là do mưu của Ngô Thì Nhậm và được Nguyễn
Huệ khen là biết thời thế, trái lại theo tin của các giáo sĩ thì Ngô Văn
Sở bị khiển trách nặng nề. “Mấy giáo đồ Bắc Kỳ là bộ hạ của quan Ðại Tư
Mã mà tôi nhắc tới ở trên, đã quả quyết với tôi rằng Tiếm vương phạt vị
quan này về tội hoảng sợ bằng cách trừ của ông một tháng lương và cấm
ông không được đụng tới thực phẩm của binh lính. Ngoài ra Quang Trung …
mời các võ quan cao cấp dự tiệc, nhân đó ông bắt Ðại Tư Mã quì xuống
cách xa ông trong khi các quan khác ăn uống và dùng lời lẽ gay gắt, dữ
dội nhứt quở trách về tính nhút nhát của ông này. Ít lâu sau muốn làm
ông [Ðại Tư Mã] thất đảm, Quang Trung cho xử trảm viên trấn thủ Than
(Thanh) Hoa và một đại thần khác bị khép tội quấy nhiễu đàn áp dân chúng
… bắt ông ra chỉ huy quân đội (nhưng) bãi chức Tổng Nguyên Soái (tư
lệnh quân đội tại Bắc Kỳ) …” Chú thích số 49, Ðặng Phương Nghi, Vài tài
liệu … (1992) tr. 227-8. Các tướng lãnh Tây Sơn chắc không tin tưởng vào
quan lại nhà Lê và nếu có tính toán gì cũng không bao giờ bàn bạc với
họ để khỏi lộ bí mật quân sự.
[149] Theo lời tâu của Khách Ninh A (喀寧阿). Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập, tập 9, quyển 43 (1976) tr. 25
[150] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 188.
[151] La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập
II (1998) tr. 879-880. Có lẽ Lê Quýnh viết chệch đi một ngày để khỏi
tiết lộ việc hai thầy trò vào gặp Tôn Sĩ Nghị vào đêm hôm trước có vẻ
khôngđược đắc thể.
[152] Hai sứ thần Trần Danh Án và Lê Duy Ðản phải ăn mặc rách rưới để len lỏi núi rừng sang Trung Hoa.
[153] trong sách viết nhầm là Phú Thần, hai chữ thần 辰 và lương 良 hơi giống nhau
[154] Nguyên văn
天兵下寨富辰江北賊渠衆宵遁進復京城奉駕御萬夀殿行册封禮 (thiên binh hạ trại Phú Thần giang bắc, tặc
cừ tất chúng tiêu độn, tiến phục kinh thành, phụng giá ngự Vạn Thọ điện
hành sách phong lễ). Lê Duy Ðản: Sứ Diêu Hành Trạng(YHVH), quyển VI
(2010) tr. 180
[155]KDANKL, quyển IX, tr. 10-11
[156] Thượng Dụ Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC, tr. 370-1
[157]臣親送進城。黎維祁率該國官民。跪伏道旁。迎至該國王正屋。望闕三跪九叩衹領訖。並敬具表文。交到臣處
… (thần thân tống tiến thành. Lê Duy Kỳ suất cai quốc quan dân. Quỵ
phục đạo bàng. Nghinh chí cai quốc vương chính ốc. Vọng khuyết tam quỵ
cửu khấu kỳ lãnh cật. Tịnh kính cụ biểu văn. Giao đáo thần xứ) KDANKL,
quyển 10, tr. 14
[158] Quân Cơ Xứ , CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 371-2.
[159] nhắc lại tích Thân Bao Tư cầu viện
nước Tần đem quân đánh nước Ngô để cứu nước Sở thời Xuân Thu. Tạ Mẫn
Hoa – Uông Hiển Huy (chủ biên), Trung Hoa thành ngữ điển cố đại
toàn.(2003) tr. 930.
[160] ở đây biểu văn dùng rất nhiều điển
như vua Thuấn, nhà Chu, quẻ Càn, Ðại Ðồng, Khôn … đều là nói về thời
thịnh trị nên chúng tôi chỉ dịch thoát.
[161] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 372.
[162] Quân Cơ Xứ, CCBVV, tờ trình của Lê
Duy Kỳ đề ngày 24 tháng Chạp năm Càn Long thứ 53. Trang Cát Phát, TTVC
(1982) tr. 372-3.
[163]KDANKL, quyển 12 tr. 23-4
[164]… Nhà vua đã khôi phục được nước, bèn hạ lệnh thăng chức cho bầy tôi đi hộ giá:
– Phạm Ðình Dữ lên bình chương sự, thượng thư bộ Lại.
– Lê Duy Ðản và Vũ Trinh lên tham tri chính sự.
– Nguyễn Ðình Giản lên thượng thư bộ Binh, tri Xu mật viện sự.
– Trần Danh Án, lên phó đô ngự sử.
– Lê Quýnh lên Trung quân đô đốc, tước Trường phái hầu. Ngoài ra đều được thăng chức có cao thấp khác nhau.
Liền đó nhà vua sai trị tội những người hàng giặc:
– Ngô (Thì) Nhậm và Phan Huy Ích đều truất về làm dân.
– Nguyễn Hoãn bị bãi mất tước Quận công.
– Phan Lê Phiên bị giáng xuống Ðông Các học sĩ.
– Mai Thế Uông bị giáng xuống Tư huấn.
CM II (1998) [quyển XLVII] tr. 839-42
[165] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 202
[166]KDANKL, quyển IX, tr. 6
[167] Trần Nguyên Nhiếp, An NamQuân Doanh Kỷ Lược. Bản chép tay thư viện Harvard-Yenching [Tạp Sử, 2404]
[168]KDANKL, quyển XII, tr. 22-3
[169]KDANKL, quyển XI, tr. 28
[170]KDANKL, quyển XII, tr. 28
[171] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu …(1992) tr. 205.
[172]KDANKL, quyển XI, tr. 25
[173]KDANKL, quyển X, tr. 27
[174]KDANKL, quyển XII, tr. 11-2
[175] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (Hoàng Văn Lâu dịch) (2005) tr. 585
[176]KDANKL, quyển XXVI, tr. 1-3
[177]… Ðinh bạ các làng xã còn lại đến
nay được tìm thấy đều có kê khai số dân đinh tham gia phong trào Tây
Sơn. Chẳng hạn trong số tư liệu Hán Nôm ở làng Xuân Hoà, có tập đinh bạ
nhiều năm liên tiếp thuộc triều Tây Sơn. Ðinh bạ lập ngày 14-3 năm Thái
Ðức thứ 11 (1788) kê khai toàn bộ dân đinh đều tham gia quân đội, giữ
các công việc khác nhau, ngay cả người già trên 60 tuổi và trẻ em dưới
14 tuổi cũng được bố trí công việc ở các bộ, các dinh … UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế, Ðịa Chí Thừa Thiên Huế – Phần Lịch sử (2005) tr. 115
[178] Cũng theo tin của các giáo sĩ thì
sắc thư này ban hành ngày 6 tháng Mười năm Mậu Thân [3-11-1788] và còn
đề niên hiệu Thái Ðức nên việc Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 11 tháng Mười
[8-11-1788] có lẽ chính xác. Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”.
Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 195-8.
[179]Lê Duy Ðản thi tập.Tài liệu chép tay, Viện Hán Nôm Hà Nội, BEFEO A.2821
[180] Hoàng Xuân Hãn: “Phe đảng chống Tây Sơn ở Bắc”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) chú thích 12, tr. 1258
[181]Lê Quí Dật Sử, [Phạm Văn Thắm dịch] (1987) tr. 77
[182] David J. Steinberg (ed.): In Search of Southeast Asia (1987) tr. 52.
[183] Vào thời đó các quốc gia chung
quanh Việt Nam đều thần phục và Nguyễn Huệ tự coi như làm chủ cả Ai Lao,
Chiêm Thành (tức các sắc tộc Tây Nguyên, Nam Lào) và Cao Miên. Trong
một bức thư gửi quan nhà Thanh để nhờ trình lên vua Càn Long lý do tại
sao chưa dùng ấn vàng mới được phong có câu: “Duy Thăng Long tiền đại cố
đô, vượng khí toả yết. Bộc (tiếng khiêm xưng) thuỷ doanh tân ấp vu Nghệ
An, kiến lập miếu triều ư vị, nghĩ tức kỳ địa ưng thụ phi hiển chi
mệnh, dĩ khải vô cùng chi cơ, thả bản quốc phong vực ư yên thủ trung,
tây hữu Ai Lao, Nam hữu Chiêm Thành, Cao Miên chi thuộc …”
(惟昇龍前代故都,旺氣鎖歇。僕始營新邑于乂安,建立廟朝於位,儗卽其地,膺受丕顯之命,以啟無窮之基,且本國封域於焉取中,西有哀牢,南有占城,高綿之屬
…) … Còn như Thăng Long là kinh đô cũ của các triều đại trước, vượng
khí đã tiêu tan hết rồi, kẻ hèn này mới xây một ấp mới ở Nghệ An, kiến
lập triều đình, tông miếu, nơi đó hẳn là lập được cơ nghiệp lớn lao,
tính cái kế mãi mãi, lại là nơi trung tâm của bản quốc, tây có Ai Lao,
nam có Chiêm Thành, Cao Miên đều là thuộc quốc … (Ngô Thì Nhậm tác phẩm,
tập I, tr. 690) Về sau Nguyễn Huệ lại cũng thân chinh đi dẹp dư đảng
nhà Lê tại Ai Lao và có những kế hoạch theo đường núi đi vòng xuống đánh
chặn đường rút lui của Nguyễn Ánh.
[184] Ðiểm đáng chú ý là những đạo quân
này không phải do người Kinh chỉ huy, hoặc có thể là người Thượng, hoặc
người Tàu nên sử ta chỉ chép những tên và chức vụ mà không có họ, ngay
cả tên cũng mỗi chỗ một khác. Ðô đốc Lộc, đô đốc Tuyết trông coi tả quân
đánh từ biển vào sông Lục đầu, đô đốc Bảo và đô đốc Long (hay Mưu?)
trông coi hữu quân cai quản đội voi ngựa từ Lào đánh qua Hà Ðông.
[185] Cristophoro Borri, Tường Trình về Khu Truyền Giáo Ðàng Trong 1631 Hồng Nhuệ (dịch) (không đề năm) tr. 24
[186] hình ảnh con voi mà hoạ viên
William Alexander trong phái bộ Macartney ghé ngang Cửa Hàn năm 1793
(Touron hay Tourane) với người quản tượng bé tí teo nằm trên đầu con vật
cho thấy thời kỳ đó con vật nhà Tây Sơn dùng trong chiến tranh lớn hơn
các loại voi hiện nay. Xem “Elephant, Tourane Bay, 3 June 1973” trong
Susan Legouix, Image of China: William Alexander(1980) tr. 45. Voi Á
châu cao tới 3 thước, nặng từ 3 đến 4 tấn (3-4000 kg),sống thành đàn.
Voi Xiêm La (tức cùng giống dùng trong tượng binh Ðàng Trong) to nổi
tiếng và nhiều cái tên còn lưu lại trong các đoàn xiếc và phim ảnh Tây
phương hồi đầu thế kỷ XX như Queenie, Happy, Sally, Ziggy … Martin
Hintz: Tons of Fun Training Elephants, (1982) tr. 30. Những giống voi
lớn nhất thường tìm thấy ở Lào và Bắc Thái mà người ta miêu tả là cao
đến 12-3 feet (gần 4 thước), có lẽ là voi mà người Âu Châu thấy ở Ðàng
Trong thời Tây Sơn.
[187] Cristophoro Borri, Tường Trình … tr. 26
[188]… an animal trained to be
obediently ferocious, in battle to wield a mightly sword, and, as an
executioner, to kill men by tossing, trampling, and rending them. Such
monsters relished a bran mash flavored with babies … Ping Amranand và
William Warren: The Elephant in Thai Life & Legend (1998) tr. 58
[189] Sun Laichen, “Military Technology
Transfers from Ming China and the Emergence of Northern Mainland
Southeast Asia (c. 1390-1527)” Journal of Southeast Asian Studies, vol.
34, 3 (10-2003) tr. 500
[190]Les Grands Dossiers de
L’Ilustration L’Indochine, Histoire d’un Siècle 1843-1944 (1995) tr. 27.
Tấm hình vẽ một chiếc thuyền mũi cong, có 32 người lính và một khẩu đại
bác, mỗi bên hông có 12 mái chèo, thuyền thân dài và nhọn có chú thích
là Embarcation Annamite Armée en Guerre de l’escorte des ministres
Annamites (tức phái bộ Phan Thanh Giản).
Li Tana trong một bài viết cũng nói là
“tam bản đầu to của An Nam” được bọc vài lớp da bò chưa thuộc với mũi
thuyền cao hơn đuôi nhằm mục đích phòng thủ … Li Tana, ”Thuyền và Kỹ
Thuật đóng thuyền ở Ðàng Trong cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX” – Ðức
Hạnh dịch, Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 4(38). 2002 tr. 79.
[191]… Ngành nghệ thuật độc đáo của
người Ðàng Trong có thể coi là tuyệt vời vào thời buổi hôm nay là kỹ
thuật đóng tàu mà không tuỳ thuộc chút nào vào phẩm chất và tầm cỡ của
loại gỗ dùng trong mục tiêu đó. Những chiếc thuyền chèo tay để đi chơi
quả là khéo léo. Những con tàu đó, dài từ 50 đến 80 feet (15 đến 24
mét), lắm khi chỉ độc có năm mảnh ván ghép lại, mỗi thanh dài suốt từ
đầu nọ đến đầu kia, cạnh ghép bằng mộng, gắn khít khao chặt chợm bằng
chốt gỗ, buộc với nhau bằng lạt tre chứ không cần phải có sườn hay khung
gỗ nào khác. Mũi và đuôi thuyền ngỏng lên khá cao, chạm khắc thành
những thuỷ quái hình rồng, thuồng luồng, trang tri bằng sơn hay thếp
vàng. John Barrow: A Voyage to Cochinchina (1806) bản in lại (1975) tr.
318-9.
[192] Lyda Norene Shaffer, Maritime Southeast Asia to 1500 (1996) tr. 11-2.
[193] Theo Biên Niên nhà Nguyễn, từ 1778
đến 1819, Nguyễn Ánh đóng 235 ghe bầu (kiểu Chăm-Mã Lai prahu), 460 sai
thuyền (thuyền chèo loại lớn hơn), 490 chiến thuyền, 77 đại chiến
thuyền, 60 thuyền lớn nhỏ kiểu phương Tây hay là thuyền buồm dọc, 100 ô
thuyền và 60 lê thuyền (thuyền chèo có chạm khắc và trang trí) tạo nên
tổng số là 1482 chiếc ( Li Tana: “Thuyền và Kỹ Thuật đóng thuyền ở Ðàng
Trong cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX” (Ðức Hạnh dịch). Huế: Tạp Chí
Nghiên Cứu và Phát Triển, số 4(38). 2002 tr. 81.
[194] Robert J. Antony, Like Froth
Floating on the Sea: The World of Pirates and Seafarers in Late Imperial
South China. (2003) tr. 20
[195]To the petty pirates of Kwantung,
Fukien, Chekiang, and Kiangsu, Nguyen Van Hue was the “Big Boss of
Yueh-nan” (Yueh-nan ta-lao-pan 粵南大老板) who sold their booty and gave them
between 20 and 40 percent of the profits. The big pirate gangs also
benefited from the Emperor’s rule, because he not only allowed them to
anchor in the border area to gather recruits and steal food, but also
let them use Vietnam as a “nest” to which they could retreat. These
pirates accepted the Emperor as their master because under his authority
they were able to reap great profits from the sea (Na Ngạn Thành [那彦成]:
The collected memorials of Na-yen-ch’eng 1834, Ðài Bắc 1974) trích lại
theo Dian H. Murray, Pirates of the South China Coast 1790-1810(1987)
tr. 40-41
[196] Quốc Sử Quán triều Nguyễn: Ðại Nam Liệt Truyện, tập II (1997) tr. 524
[197] Dian Murray, Pirates of the South …(1987) tr. 36
[198] Michael W. Charney, Southeast Asian Warfare 1300-1900 (2004) tr. 29
[199]Two-handed swords may have been
especially important for Vietnamese combatants, as Chinese soldiers were
equipped with thick coats that apparently deflected low calibre bullets
as the Burmese dicovered. Michael W. Charney, Southeast Asian Warfare
1300-1900 (2004) tr. 33
[200] Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng, Tìm Hiểu Thiên Tài …(1971) tr. 38
[201] Jeremy Black, War, Past, Present & Future (2000) tr. 96-7
[202] Quân Cơ Xứ, CCBVV, lời khai của
Nguyễn Huy Túc, ngày mồng 4 tháng Sáu Càn Long năm thứ 53 [7-7-1788].
Trang Cát Phát, TTVC tr. 339 [sách viết nhầm là Càn Long 54]
[203] Dian Murray, Pirates of the South …(1987) tr. 97
[204] Thomas J. Barnes: Tay Son,
Rebellion in 18th Century Vietnam (2000) tr. 133 có ghi lại 10 điều quân
lệnh của Tôn Sĩ Nghị trong đó điều 5 và 6 như sau:
… 5. Người An Nam có một loại võ khí đặc
biệt gọi là hỏa tiễn. Họ dùng một loại súng có nòng dài chừng hai tấc
rưỡi. Họ nhồi thuốc súng chia thành ba phần, sau đó dùng cây thụt phần
thứ nhất và phần thứ hai riêng rẽ xuống nòng súng, đóng chặt mỗi phần
vài trăm lần. Phần thuốc nổ còn lại nhét vào đầu bằng sắt của một mũi
tên cắm vào trong nòng súng. Bước kế tiếp là nhét một sợi tre khô vào
trong hộp súng có dây dẫn lửa nối vào. Khi bùi nhùi được đốt lên, mũi
tên bén lửa và bay ra. Mục tiêu của chúng là đốt cháy quần áo các ngươi
để cho quân ta (tức quân Thanh) phải hoảng sợ. Thế nhưng võ khí đó không
bì với võ khí của ta được. Nếu đối phương phóng hỏa tiễn, chỉ cần cầm
trong tay mấy lá trầu không để dập tắt lửa còn tay bên kia vung kiếm
lên, bọn chúng sẽ phải bỏ chạy.
6. Một loại võ khí đặc biệt khác của
người An Nam là hỏa cầu (fireball). Ðó là một khối kim khí rỗng ruột
nhét đầy thuốc súng và miểng sắt cùng lưu hoàng, trên đầu có ngòi truyền
ra. Lính của chúng sẽ đốt ngòi nổ và ném về phía ta, nếu thấy hỏa cầu
thì chỉ cần né tránh là không việc gì cả.
Mặc dầu tác giả có ghi rằng tài liệu
tham khảo chủ yếu căn cứ vào ba tác phẩm Khởi Nghĩa Diệt Nguyễn và Chống
Xiêm (1993), Lật Ðổ Vua Lê – Chúa Trịnh Ðại Phá Mãn Thanh (1994) và Xây
Dựng Ðất Nước (1995) của Ty Văn Hóa Thông Tin tỉnh Bình Ðịnh (theo Ghi
Chú ở trang 202-203) nhưng những điều quân lệnh này lại không thấy ghi
chép trong các sử sách khác và cuốn sách của Barnes là một cuốn tiểu
thuyết lịch sử với nhiều dật sự không chính xác nên chúng tôi chỉ chép
lại để độc giả biết thêm. Một điều hơi vô lý là loại mà gọi là hỏa tiễn
(fiery rocket) kia chế tạo rất phức tạp. Nếu quả thuốc súng nhồi vào
nòng thì như vậy mỗi khẩu súng (musket) chỉ bắn được một lần mà thôi và
hiệu quả cũng không có gì đặc biệt, e rằng bất tiện hơn loại tên lửa bắn
bằng cung. Vì tính chất mơ hồ của tài liệu này, chúng tôi chỉ ghi lại
làm tài liệu tồn nghi.
[205] Bức hình của loại “bom” này có
trong A Journey Into China’s Antiquity (V. 4) của National Museum of
Chinese History (1997) tr. 165 dưới nhan đề 159. Military “national
surname bottle”, Qing Dynasty
[206] China Science and Technology
Palace Preparatory Committee and the Ontario Science Centre, China, 7000
Years of Discovery (1982) tr. 11
[207] Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng. Tìm Hiểu Thiên Tài Quân Sự của Nguyễn Huệ (1971) tr. 33
[208]Cochin-China maintained its
independence by its superior firepower (Donald F Lach & Edwin J. Van
Kley: Asia in the Making of Europe, vol III, book 3 – Southeast Asia,
The University of Chicago Press 1993 tr. 1281). Theo các giáo sĩ và
thương nhân Âu Tây, chúa Trịnh đã được đặt cho cái biệt danh là “thủy
vương” (lord of water) vì có một lực lượng hải quân khá hùng hậu trong
khi Chúa Nguyễn được gọi là “hỏa vương” (lord of fire) vì quân đội miền
nam được trang bị khí giới đầy đủ và tân tiến hơn. Ðó cũng là lý do tại
sao Ðàng Trong tuy kém thế hơn nhưng vẫn cầm cự được mà không bị đánh
bại.
[209] Năm 1792, các giáo sĩ ghi nhận hai
chiếc tàu từ Macao và Manille sang bán cho vua Quang Trung 100,000 cân
(livres) lưu huỳnh (khoảng 50 tấn) để chế tạo thuốc súng. Ðặng Phương
Nghi, “Triều Ðại Vua Quang Trung …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 241-2
[210] Nicholas Tarling (ed.), The
Cambridge History of Southeast Asia, tập I, phần 2: từ 1500 đến 1800
(1999) tr. 47 (trích lại của C.R. Boxer trong Asian potentates and
European artillery in the 16th-18th centuries: a footnote to
Gibson-Hill, JMBRAS, 38, 2 (1965) tr. 166
[211] Vào thời đó để giảm thiểu những
khó khăn trong việc tiếp liệu, đến cuối thế kỷ XVI nước Pháp chỉ còn 6
cỡ đại bác, Tây Ban Nha còn 12 cỡ và người Anh chỉ còn 16 cỡ, lớn nhất
nặngđến 4 tấn, đạn nặng 74 pounds (khoảng 33.5 kg), nhỏ nhất chỉ nặng
300 pounds, bắn đạn chỉ có 5 ounces mà thôi. Súng lớn nòng có thể dài
đến 3.3 m.
[212] Nicholas Tarling, The Cambridge History … (1999) tr. 47-8
[213] thường được gọi là jinjal hay gingall bắt nguồn từ tiếng Hindi janjal.
[214] Nicholas Tarling, The Cambridge History … (1999) tr. 48
[215] Theo Ðại Nam Thực Lục, bản thân
chúa Nguyễn Ánh cũng là một xạ thủ giỏi và đã đặt mua ở Bồ Ðào Nha một
vạn súng điểu thương, 2000 cỗ súng gang mỗi cỗ nặng 100 cân, 2000
viênđạn nổ đường kính 10 tấc vào năm 1791, một năm trước khi Nguyễn Huệ
mất. Chi tiết đó đủ biết vào giai đoạn này, lực lượng hai bên đều phải
dựa vào súng ống của Tây Phương để chiếnđấu và với những trang bị mới,
chiến thuật, chiến lược thủy cũng như trên bộ đã thay đổi nhiều cho phù
hợp với tình thế.
[216] Martin Van Creveld, Supplying War: Logistics from Wallenstein to Patton (1992) tr. 1
[217]A real knowledge of supply and
movement factors must be the basis of every leader’s plan; only then can
he know how and when to take risks with those factors, and battles are
won only by taking risks. A. C. P. Wavell, Speaking Generally (London,
1946) tr. 78-9. Trích lại theo Martin Van Creveld, Supplying War:
Logistics from Wallenstein to Patton, (1992) tr. 232
[218] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 206
[219] BEFEO, 1912, t. XIII n 7, p. 8. Nguyễn Nhã “Nguyễn Huệ Một Thiên Tài Quân Sự “ Một Vài Sử Liệu …(1992) tr. 91
[220]It may be that this requires, not
any great strategic genius but only plain hard work and cold
calculation. While absolutely basic, this kind of calculation does not
appeal to the imagination, which may be one reason why it is so often
ignored by military historians. The result is that, on the pages of
military history books, armies frequently seem capable of moving in any
direction at almost any speed and to almost any distance once their
commanders have made up their minds to do so. Martin Van Creveld,
Supplying War: Logistics from Wallenstein to Patton (1992) tr. 1-2
[221] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 199
[222] Ngô Thì Nhậm tác phẩm (quyển I) (2001) tr. 172
[223] Tạ Quang Phát (dịch), Nhà Tây Sơn (1970) tr. 130-33
[224] tính ra là ngày 20-1-1789DL. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí (2002) tr. 371-2
[225] Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 195
[226]Ngô Thì Nhậm tác phẩm (quyển I) (2001). Toàn văn bản chữ Hán trang 513-517, bản dịch Mai Quốc Liên trang 172-174.
[227]Ngày 18 tháng Mười Một tôi đọc một
lá thư đề ngày 20 tháng Chín của đức ông La Bartette gữi cho ông Le
Breton trong đó Ðức ông cho biết rằng: Tiếm vương Phú Xuân hay Bắc vương
vừa mới phong cho con trai ông làm Nam vương lúc đó mới có bảy tuổi,
nhưng hoàng tử được coi như được mười hai tuổi vì theo như lời đồn, các
quan muốn nịnh người cha nên tăng cho người con nhiều tuổi hơn. Ðặng
Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 213-4
[228]KDANKL, quyển VI
[229] Ðặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ …”, Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 214-6
[230] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586
[231] Cầu nổi (phù kiều 浮橋 hay trúc
phiệt kiều-竹笩橋) là cầu làm bằng các bè tre kết lại với nhau thả dưới
nước để quân Thanh qua sông vì khi bọn họ tiến đến thì bao nhiêu thuyền
bè đãbị quân Tây Sơn đem về nam cả rồi.
[232] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ,
(1995) còn ghi lại nhiều chiếu biểu quan trọng đời Lê và bang giao đời
Tây Sơn, đối chiếu rất phù hợp với các tài liệu của nhà Thanh về diễn
tiến nghị hoà.
[233] mãi đến tháng Hai, sau khi tình
hình đã lắng xuống thì “… các tiến sĩ triều Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và bọn cống sĩ văn chức Vũ Huy Tấn, Ðoàn Nguyễn
Tuấn,Ðào Xuân Lãng lần lượt về hàng. Nguyễn Quang Bình trao quan chức
cho từng người, cho tham gia vào việc thảo từ lệnh bang giao.” Lịch
Triều Tạp Kỷ, (1995) tr. 591. Trong những chiếu biểu giao thiệp với nhà
Thanh, khi liệt kê danh sách các bồi thần, tên Ngô Thì Nhậm luôn luôn
được nhắc đến sau cùng theo thứ tự (hàng võ) Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân,
Nguyễn Văn Danh, Ðặng Văn Chân, Nguyễn Văn Dụng, (hàng văn) Loan Hồi Ðại
[có lẽ là thư ký tiếng Mãn] Lê Xuân Tài, Ngô Thời Nhiệm nên khó có thể
tin rằng ông đóng một vai trò quan trọng trong triều đình Tây Sơn như
HLNTC miêu tả. Nếu quả là một nhân vật cao cấp như thế, ông chắc bị
những hình phạt nặng nề hơn khi vua Gia Long thống nhất đất nước. Xem
Ðại Việt Quốc Thư (1973) các tr. 93, 97, 124, 127, 131, 134 … hay Lịch
Triều Tạp Kỷ (1995) các tr. 629, 641, 644 …
[234] Theo nhận xét của họ Tôn khi đóng
quân tại Thăng Long thì thành phần ủng hộ vua Lê rất yếu ớt không như
lời thổi phồng của một số quan văn. Ngay khi Lê triều được tái lập, các
dưđảng của chúa Trịnh lập tức nổi lên. Tài liệu sử nước ta cũng cho biết
Trịnh Bồng lập tức quay lại và Lê Chiêu Thống phải phong cho ông ta làm
Huệ Ðịch Công. Hoàng Xuân Hãn, “Phe ChốngÐảng Tây Sơn ở Bắc với tập Lữ
Trung Ngâm”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) tr. 1252
[235] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ
(1995) tr. 585. Chi tiết này thực ra không đúng. Chính Tôn Sĩ Nghị muốn
tiến quân trong khi Thanh triều lại chủ trương rút lui, lấy cớ là bên
trong làđất Quảng Nam, không phải đất nhà Lê, nhà Thanh không việc gì
phải phí hao tiền bạc, binh lương để giúp An Nam nữa.
[236] Trong tấu thư ngày mồng 9 tháng
Chạp năm Mậu Thân [4-1-1789], họ Tôn có kể lại việc quân Thanh cắt thủ
cấp và tai những người bị chúng giết, còn ai bị bắt thì đem ra chém
ngay, mỗi ngày lên đến vài chục người (…每日縳送數十人訊係賊匪。隨到隨即正法 … mỗi nhật
phọc tống sổ thập nhân tấn hệ tặc phỉ. Tuỳ đáo tuỳ tức chính pháp)
KDANKL, quyển IX, tr. 5
[237] Chi tiết này không chính xác, đúng là ngày 20 tháng Một năm Mậu Thân
[238] Trí quân an dân [置君安民]. Cứ bình
thường, khi binh lính tới đâu thì dùng chữ quân [軍] là quân đội nghĩa là
đóng binh các nơi để giữ yên cho dân chúng. Trong sách này, tác giả
dùng chữ quân [君] là vua, không biết có phải là một lối chơi chữ trịch
thượng [ý nói phong vương cho Lê Duy Kỳ] hay vì sao chép nhầm. Theo báo
cáo của Tôn Sĩ Nghị thì ngày quân Thanh vào Thăng Long là ngày 20 tháng
Một.
[239] đầu sỏ giặc gọi là nghịch, tay chân bộ hạ gọi là tặc. Do đó Trần Nguyên Nhiếp dùng chữ nghịch khi chép về Nguyễn Huệ.
[240] Cũng theo tài liệu của Hội Truyền
Giáo ở Bắc Kỳ, chúng ta biết rằng Tôn Sĩ Nghị và các tướng nhà Thanh đã
có những quan điểm rất “Tàu” khi họ chủ động gửi thư cho Nguyễn Huệ
ấnđịnh sẽ giao tranh vào ngày mồng 6 AL – mà các giáo sĩ cho rằng đó là
một ngày tốt [theo Trung Hoa] để xuất quân – nhưng Nguyễn Huệ đã tấn
công ngay ngày Tết Nguyên Ðán khiến họ trở tay không kịp. Nhiều tài liệu
cho thấy Tôn Sĩ Nghị đã nhận được một số thư “trần tình” của Nguyễn Huệ
nên ra vẻ thiên triều khi y trả lời đối phương hãy “án binh bất động”
để ra Tết y sẽ phân xử xem ai phải ai trái. Sử Trung Hoa thường nhấn
mạnh đến yếu tố chủ quan khinh địch của họ Tôn như lý do chính khiến cho
quân Thanh đại bại.
[241] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586
[242] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 586
[243] Một chi tiết cũng khá quan trọng
về trận đánh năm Kỷ Dậu là một câu văn viết bằng chữ Nôm – tương truyền
là của Nguyễn Huệ khi ra Bắc – trích từ một tập hợp tài liệu nhan đề
MinhÐô Sử do Lê Trọng Hàm và một số người trong Nam Việt Ðồng Thiên Hội
sưu tầm trong khoảng từ 1922 đến 1930:
Ðánh cho để dài tóc,
Ðánh cho để đen răng.
Ðánh cho nó chích luân bất phản,
Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Tuy nhiên chính học giả Trần Văn Giáp
cũng phải than rằng vì tính chất thiếu khoa học và xuất xứ mù mờ của nó
“… nhiều người Quí công phu của các tác giả sách Minh đô sử, nhưng đến
khi sử dụng một cách đúng đắn lại ngần ngại vô cùng”. Trần Văn Giáp, Tìm
hiểu kho sách Hán Nôm Tập 1 (in lần thứ hai). (1984) tr. 187.
[244] Lê Huy Dao, “Lữ Trung Ngâm” Nguyễn Cẩm Thuý, Nguyễn Phạm Hùng, Văn thơ Nôm thời Tây Sơn (1997) tr. 291-2
[245] một làng hoàn toàn theo đạo Thiên
Chúa, được coi như thủ phủ của Xứ Nam (Vicariat du Tonkin occidental),
một giáo khu quan trọng vào thế kỷ XVIII. Nơi đây có một trường dòngđào
tạo nhiều nhà truyền giáo bản xứ (catechists) Xem thêm John R.
Shortland, M.A. The Persecutions of Annam: A History of Christianity in
Cochin China and Tonking (1875) tr. 85-9
[246] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 205-8
[247] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu
Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 205. Chi tiết này cho thấy đúng
như báo cáo của quân Thanh, Tôn Sĩ Nghị hay biết việc tiến quân của
Nguyễn Huệ nhưng đinh ninh rằng không dám đụng đến mình.
[248]KDANKL, quyển XII, tr. 24-25
[249]令其速行投至臣處軍營。當為奏請大皇帝施恩。寬其一綫生路。(Lệnh
kỳ tốc hành đầu chí thần xứ quân doanh. Ðương vi tấu thỉnh đại hoàng đế
thi ân. Khoan kỳ nhất tuyến sinh lộ]. KDANKL, quyển XII, tr. 25
[250] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 377
[251] Những báo cáo của Tôn Sĩ Nghị và
các quan lại khác đều được soạn sau khi quân Thanh đại bại chạy về Trung
Hoa nên chắc chắn không đúng sự thật và cố tình tìm những lý lẽ bào
chữa cho sự bất tài của mình để chạy tội. Ngoài ra, chúng ta cũng không
quên sau trận chiến Việt Thanh, các quan nhà Thanh cũng cảm nhận được
chiều hướng mới của triều đình là giảng hoà với An Nam nên tìm cách vẽ
nên một hình ảnh “Lê Duy Kỳ lười biếng, vô tài” để cho vua Cao Tông dễ
chấp nhận. Hơn nữa, tất cả những báo cáo nội bộ của vua tôi Càn Long bên
ta hoàn toàn không được biết nên họ muốn nói gì cũng được theo chiều
hướng có lợi và chỉ có một phần sự thật mà thôi.
[252] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 378.
[253] Michael W. Charney trong Southeast
Asian Warfare 1300-1900 (2004) tr. 96 viết khá kỹ về chiến thuật công
thành (siege warfare) trong đó những hoả khí (pyrotechnic devices) được
sử dụng tại Miến Ðiện. “ … During his siege of Chiengmai in 1557,
Bayin-naung’s forces used incendiary devices to set fire to the upper
works of the defenses. Rockets were also let off in great numbers to aid
the siege. Rockets were an unreliable resource, however, and were
easily rendered useless by rain while being transported to a siege.
During the Burmese attack on Syriam in 1601, Ribeyro writes that the
Burmese used “bomb of fire” in their assault …” [Trong lần vây hãm
Chiengmai năm 1557, lực lượng của Bayin-naung dùng hoả khí để đốt các
công sự thượng tầng của phe cố thủ. Hoả tiễn được bắn rất nhiều để phụ
với quan quân. Tuy nhiên tên lửa không phải là một vũ khí đáng tin cậy
vì thường mất hiệu dụng khi gặp mưa trong lúc vận chuyểnđến nơi công
hãm. Trong lần người Miến đánh Syriam năm 1601, Ribeyro viết là phe Miến
Ðiện dùng các “hoả cầu” để tấn công …]
[254] Không biết ở những đồn này súng
ống được trang bị như thế nào nhưng sau trận đánh năm Kỷ Dậu – theo các
giáo sĩ thì vua Quang Trung đã lấy được của địch quân “…2, 3000 cỗ đại
bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và
khí giới khác nhau cùng với vô số tiền bạc và (đại khái) tất cả những
vật liệu quí giá bắt được của quân Tàu …” để đem về Phú Xuân. Tuy nhiên
cũng có thể một phần khí giới là của ông đem ra Bắc. Ðặng Phương Nghi,
“Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 209-10.
[255] Ðối chiếu với những tài liệu rải
rác, chúng ta thấy đây là một thế trận khá quen thuộc của những quốc gia
dùng voi như một cánh quân tiền phong để tấn công vào một vị trí đóng
quân cố định của địch. Súng đại bác loại nhỏ được chở trên lưng voi tiến
trước để uy hiếp, kế đó là bộ binh, sau cùng là bộ phận chỉ huy thường
đi bằng ngựa hay xe. Tuỳ theo khả năng kỹ thuật, thếtrận có thể thay đổi
phần nào nhưng rõ ràng sức mạnh của tượng binh, đại pháo và súng điểu
thương là lực lượng chủ yếu để phá vỡ phòng tuyến của địch, thường là
hàng rào đất hay tre, bên ngoài có cắm chông, hào nước và địa lôi. Trên
thực tế, khi chủ tướng cưỡi voi xung trận, mặc dầu ngồi trên cao có thể
tạo nên một vẻ uy nghi khác thường và cũng dễ dàng quan sát bốn bề để
chỉ huy nhưng cũng lại là cái đích cho địch quân tập trung hoả lực hay
cung nỏ bắn vào. Một mục tiêu to lớn với nhiều đối tượng, từ người chủ
soái đến quản tượng, ngay cả bản thân con vật sẽ khó có thể chịu đựng
được lâu.
Trong trường hợp đó, khi tới gần nằm
trong tầm đạn của địch chủ tướng thường phải xuống khỏi lưng voi, cưỡi
ngựa hoặc đi bộ. Tuy nhiên, một khi quân lính không còn thấy chủ tướng
trên bành chỉ huy thường có khuynh hướng hốt hoảng, dễ bỏ chạy nên việc
xông xáo của Nguyễn Huệ không phải để chiến đấu mà là để trấn an các
thuộc hạ. … During the actual fighting, the elephant provided the
commander with a lofty but quickly movable seat from which he could
watch all parts of the field and issue suitable orders as the tide of
battle changed from time to time … But the use of the elephant in battle
had an insoluble disadvantage as well. The king or his general, seated
on the tallest elephant, presented a conspicuous target to the enemy’s
gunners or even the horsemen whirling round him on swift horses. If the
king was hit or had, for some reason, to dismount from that elephant and
take horse, his empty howda at once convinced his troops all over the
plain that their master was dead and they fled in panic. Or, if the
mahout was shot off his seat the elephant could become uncontrollable …
E. Jaiwant Paul, ‘By My Sword and Shield’ – traditional weapons of the
Indian warrior (1995) tr. 107-8
[256] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995) tr. 587
[257] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu
Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 208. Tuy Nguyễn Huệ là một cấp chỉ
huy can đảm thường đi đầu sống chết với thuộc hạ nhưng việc ông xông
lên múa song đao chém quân Thanh không những điên cuồng mà còn dại dột
và tắc trách nên chỉ là một điều tưởng tượng.
[258] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 378.
[259] Theo tài liệu của Việt Nam, Nguyễn
Huệ ra lệnh cho quân lấy ván ghép lại bên ngoài bọc rơm ướt để làm mộc
chống với tên lửa che cho đại quân theo sau. Theo dã sử, quân Thanh bắn
ra khiến voi của ta không tiến lên được, Nam quân phải dựng những bức
tường rơm tẩm nước để tiến lên. Theo tài liệu của Trung Hoa thì “Nguyễn
Huệ ra lệnh cho quân lính dùng rơm rạ kết lại thành từng bó lớn, lăn xả
vào rồi quân lính núp ở sau tiến lên” Nguyên văn:
阮文惠命兵丁以禾稈綑紮成束,亂滾而前,勁兵隨後推進 (Nguyễn Văn Huệ mệnh binh đinh dĩ hoà cán khỗn
trát thành thúc, loạn cổn nhi tiền, kính binh tuỳ hậu thôi tiến)
[260] Vào thời kỳ đó, thuốc súng (black
powder) bao gồm 75% là potassium nitrate (saltpeter), 15% than (carbon)
và 10% lưu huỳnh (sulfur), khi cháy ra rất nhiều khói. Thuốc súng mạnh
hơn và không khói như các loại nitrocellulose, nitroglycerin, ballistite
… chỉ mới được chế tạo vào thế kỷ XIX. (Harold S. Sharp, The Invention
of Gunpowder – Footnotes to World History – The Scarecrow Press, Inc.
Metuchen, N.J. & London 1979) tr. 117-8. Ngoài ra cũng có thể quân
Thanh và quân Tây Sơn đã đốt loại khói độc (toxic smoke-bombs) tức hoả
cầu (火毬) trong có chứa các loại thạch tín (arsenic tức phê sương 砒霜) mà
thuỷ khấu rất thường sử dụng trong các trận đánh trên biển cả.
[261] Một điểm tuy không ghi trong sử
nhưng cũng đáng cho chúng ta chú ý. Ðó là trong quân của Nguyễn Huệ có
một số đông dư đảng của Thiên Ðịa Hội mới thua trận ở Ðài Loan [1788]
chạy ra biển làm hải khấu đã được ông thu nạp. Chắc chắn khi sử dụng
thành phần này, Nguyễn Huệ không thể không tìm hiểu về ưu và khuyết điểm
của quân Thanh và chuẩn bị những phương thức khắc chế sở trường của
địch từ kinh nghiệm của họ. Với những thuộc hạ như thế, có thể nói
Nguyễn Huệ biết rõ về địch hơn là địch biết về ông.
[262]More threatening to the besieged
were the walking, or rolling, forts employed to move attackers closer to
the walls and, if they amounted to towers, to aid them in scaling the
walls or firing over them. Michael W. Charney, Southeast Asian Warfare
1300-1900 (2004) tr. 98
[263]… After the introduction of
firearms, however, defenders, firing muskets from protected positions,
could wreak terrible damage on an ememy in the open field outside
fortress walls. The logical reaction was for besiegers to provide as
much protection as possible for their foot soldiers. Some soldiers could
find ready cover behind tree trunks or on the inner slopes of dykes,
but this would obviously pin a soldier down and prevent a complete rush
to the walls. Michael W. Charney, Southeast Asian Warfare 1300-1900
(2004) tr. 97
[264] Theo báo cáo của phía quân Thanh,
trong lần tử thủ này, quân ta phải nhiều lần tiến lên đánh theo lối tràn
ngập nên tổn thất cũng không nhỏ. Theo báo cáo của tù binh sau khi trở
về thì “quân của Nguyễn Văn Huệ chết chất thành đốngđâu phải chỉ vài
ngàn mà thôi”.Trang Cát Phát: TTVC (1982) tr. 379
[265] Theo Ngụy Nguyên thì những tướng
lãnh này bị chết khi tranh nhau quan cầu phao vượt sông Nhị Hà nên bị
chết đuối. Ngụy Nguyên cũng viết là quân Nam đánh vào Thăng Long ngày
mồng một Tết khi quân Thanh đang ăn cỗ. Thực ra mãi đến mồng 5 quân Tây
Sơn mới đụng độ với quân Sầm Nghi Ðống tại Ðống Ða (sau này giỗ trận
Ðống Ða vào ngày mồng 5). Việc miêu tả Tôn Sĩ Nghị còn đang yến ẩm thì
quân ta kéo đến cũng là hư cấu vì trong mấy ngày liền các trận đánh càng
lúc càng ác liệt, càng tới gần, quân Thanh lo chống trả còn chưa xong,
không thể nào vui chơi ca hát được. Cũng không có việc quân ta kéo đến
nhanh quá nên địch không biết gì cả.
[266] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 208.
[267] Khi tướng lãnh thấy tình hình quá
bi đát, phải liều chết để bảo toàn danh tiết thì sai người mang ấn tín
vượt vòng vây đem về như một dấu hiệu tận trung báo quốc.
[268] Vào thời kỳ đó, những dân tộc
thiểu số dọc theo biên giới Hoa – Việt được tổ chức thành những đơn vị
dân quân, trang bị súng điểu thương. Sở dĩ họ được trang bị súng vì nhà
Thanh cho là dùng súng không linh hoạt và uy nghi như cung nỏ họ vẫn
dùng nên đem các loại súng này (lấy được khi giao tranh với người Hồi)
trang bị cho các dân tộc vùng núi. Cho đến nay, nhiều sắc dân tại vùng
tây nam nước Tàu vẫn còn sử dụng những loại súng cổ điển này để tự vệ và
săn bắn.
[269] Theo tài liệu nhà Thanh, số quân
Ðiền Châu theo Sầm Nghi Ðống sang nước ta là hơn 2000 người nhưng một số
chia ra đi theo các cánh quân thiểu số [mà họ gọi là di binh] ở Cao
Bằng, Thái Nguyên để hỗ trợ cho Lê Duy Chỉ nên tại Ðống Ða chỉ khoảng
1000 người.
[270] Khi sứ thần nhà Thanh là Thành Lâm sang phong vương cũng có đến tế ở ngôi đền này.
[271] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu
Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr. 209. Trong các văn bản nôm còn giữ
được có một bản văn tế “cúng dàng” quân Thanh chết trận thời Tây Sơn
còn lưu lại đến ngày nay có viết: “… Ðiền châu thái thú đảm đương, Liều
mình tử trận chiến trường nên công” xác nhận Sầm Nghi Ðống chết trận,
đúng như lời khai của quân Thanh khi được trả về. [Xem Nguyễn Thị Lâm
“Một Bài Văn Tế Tướng Sĩ nhà Thanh Tử Trận” (Thông báo Hán Nôm Học 2005,
tr. 373-378) và “Văn cúng quân Thanh chết trận Ðống Ða: Tài liệu Nôm
thời Tây Sơn” (Nghiên Cứu Lịch Sử 1997 – Số 2, 185, tháng 3-4)]
[272] Tài liệu của triều Nguyễn nói là
cầu đứt nhưng theo chính lời tâu của Tôn Sĩ Nghị [văn thư đề ngày 15
tháng Hai năm Càn Long 54, Cung Trung Ðáng, hòm 2727, bao 226, số hiệu
56526] thì chính ông ta ra lệnh chặt cầu phao. Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược
đã cố tình không đề cập đến chi tiết này mặc dù cũng dùng bản tấu thư
nêu trên.
[273] Ngoại trừ Hứa Thế Hanh tử trận,
các tướng lãnh khác chết ra sao không có tài liệu nào ghi chép rõ rệt.
Theo Thánh Vũ Ký (聖武記) trang 188 thì “Tôn Sĩ Nghị sau khi qua được sông
Phú Lương rồi, lập tức chặt đứt cầu phao đoạn hậu, những người còn ở bờ
sông phía nam như đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long trở
xuống và phu dịch hơn một vạn người (?) rơi xuống sông chết đuối”. Theo
cuốn Trường Phát Di Nhân (長髮夷人) của Trung Hoa thì lại viết rằng “cầu
phao bị giặc chặt gãy nên một số quan binh không còn đường chạy đành lộn
trở lại phía Lê thành tử chiến nên bị giặc sát hại”. Chú thích 88 của
Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 412.
[274] Quân Cơ Xứ, CCBVB. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379.
[275]Minh Thanh sử liệu, thiên Canh, bản
thứ 2, tr. 108 (bản sao tấu chương Tổng đốc Lưỡng Quảng của bộ Lễ). Dẫn
theo Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379.
[276]KDANKL, quyển XIII, trang 3 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
[277] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 379-80
[278] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380.
[279] Những tài liệu mới đây cho thấy
Ngụy Nguyên (Thánh Vũ Ký – Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký) viết nhiều chỗ
hoàn toàn sai sự thực. Các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long… theo
Ngụy Nguyên thì chết đuối nhưng thực ra đều chết trận vì bị bỏ lại phía
nam sông Nhĩ Hà không qua được sông (hoặc có thể đã chết từ trước).
[280]CM II, XLVII (1998) tr. 847-8
[281] Cung Trung Ðáng, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380
[282] Chúng ta cũng không thể không dè
dặt khi sách vở nước ta có khuynh hướng thổi phồng những gì không nắm
vững, nghĩ rằng địch càng nhiều thì chiến thắng càng vinh quang mà
quênđi những yếu tố thực tế như tổ chức quân sự của nhà Thanh, phương
pháp điều động, tiếp liệu, trang bị của một đoàn quân chính qui.
[283] nguyên văn 應由其一人賠補 – ứng do kỳ
nhất nhân bồi bổ. Thực ra đến 1,346,508 lượng như đã viết ở trên nhưng
chắc khi đó Tôn Sĩ Nghị chưa có những con số chính thức, tưởng chỉ tốn
vài chục vạn lượng.
[284] Tôn Sĩ Nghị vẫn được liệt vào hàng
“thanh liêm” trong đám vây cánh của Hoà Khôn nhưng xem ra ông ta cũng
không phải là “nghèo” như chúng ta tưởng.
[285] Cung Trung Ðáng, CCBVV. Tấu thư
của Tôn Sĩ Nghị đề ngày 23 tháng Giêng năm Càn Long 54 [17-2-1789].
Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 381
[286] Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 430
[287] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 380
[288] Về số đài trạm mà quân Thanh thiết
lập từ Vân Nam theo tấu thư của Phú Cương thì từ Mã Bạch đến An Biên là
11 trạm, từ An Biên đến Tuyên Quang là 14 trạm, từ Tuyên Quang đến
Thăng Long hơn 10 trạm. KDANKL, quyển XI, tr. 26
[289] Tôn Sĩ Nghị vốn dĩ định sau khi
chiếm được Thăng Long rồi sẽ đem quân đánh vào Quảng Nam nên đã dự bị
thủy lục hai mặt, quân thủy nửa tháng sau sẽ qua nhưng vì thuyền lớn qua
không được mà cửa sông Nhĩ Hà thì quân ta đã chặn rồi nên ra lệnh cho
đóng 40 chiến thuyền, đủ sức chở 2,000 quân, lập thêm 25, 26 trạm trên
bộ cách nhau chừng 8, 90 dặm, ngoài ra còn xây thêm 53 trạm lương thực
từ Thăng Long vào Phú Xuân. Tuy nhiên khi Tôn Sĩ Nghị bị thua ở Thăng
Long thì những công tác này không thực hiện được.
[290] Cung Trung Ðáng, CCBVV, tấu triệp
của Tôn Vĩnh Thanh đề ngày 14 tháng Giêng năm Càn Long 54. Trang Cát
Phát, TTVC (1982) tr. 380-1
[291] Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr. 145
[292] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr.208
[293] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ …”. Một Vài Sử Liệu (1992) tr.209
[294] Thượng dụ gửi Phúc Khang An. KDANKL, quyển XIII, tr. 29a
[295]Cao Tông thực lục, quyển 1369 (Bắc
Kinh: Trung Hoa thư cục, 1986) tr. 374 (trong sách đánh số nhầm là quyển
1370). Quách Chấn Phong, Trương Tiếu Mai, Việt Nam Thông Sử (2001) tr.
526
[296] Lai Phúc Thuận, QNNC (1984) tr.
409-10. Theo qui chế nhà Thanh dân phu bị chết trong chiến dịch này
không được hưởng trợ cấp tử tuất, vừa để giảm thiểu chi phí cho triều
đình, vừađể thu hẹp tổn thất. Ðó chính là chênh lệch trong hai cách tính
của Việt và Thanh. Ðối với chúng ta, bất cứ người nào đi theo đoàn quân
Tôn Sĩ Nghị thì đều là “quân Tàu”, không phân biệt. Ðây là điểm quan
trọng cần lưu ý khi nói đến số quân Thanh sang đánh nước ta cũng như
thiệt hại của họ.
[297] Theo một số tài liệu, xác người
Thanh được gom lại chôn tập thể thành 12 gò ở ngoại ô Thăng Long. Tuy
nhiên có lẽ đây chỉ là một phần nhỏ vì dù cho mỗi gò có khoảng 200 xác
thì cũng chỉ độ hơn 2000 người.
[298] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 375
[299] “All war require movement, but for settled peoples even short-range moves impose difficulties” John Keegan, A History Of Warfare (1994) tr. 164
[300] Một chi tiết chép trong ngoại sử đáng chú ý: … Ông Quang Trung thấy chỉ (tức hịch của nhà Thanh) nói xấc xược thể ấy thì giận quá. Có bao nhiêu binh sĩ sẵn thì đem đi tức thì, cho đượcđánh quân Ðại Minh (thực ra là quân Thanh nhưng khi đó miền Nam quen gọi người Trung Hoa là người Minh). Ông ấy đi vội vàng bất phân nhựt dạ (ngày đêm) cho nên trong 15 ngày thì đãđến Vân Làng, là nơi quân Ngô đã đóng trại, cùng xông vào đánh quân ấy xuất kỳ bất ý. Vốn khi trước, ông Quang Trung đánh được nhiều trận cả thể và đã giết nhiều quân giặc; song le chẳng bao giờ được trận cả thể cùng giết nhiều giặc cho bằng lần nầy. Vì chưng nơi hai bên giao chiến với nhau thì đầy những bùn lầy; mà quân Ngô thì mặc nhiều áo, cùng gánh lương thực và khí giái (giới), nó lại dùng những giày nặng nề, cho nên hễ bước xuống bùn, thì chịu phép mà thôi, không thể nào mà rút chân lên được.
Còn quân An Nam thì đi chơn (chân) không, mặc áo nhẹ và cầm gươm giáo mà thôi, thì đánh quân Ngô chẳng khác gì đánh giống ngoại vật; lại nó mắc lầy chẳng giết đặng người An Nam nào. Vã (sic) lại ông Quang Trung đem nhiều voi, mà quân Ngô chẳng quen đánh thể ấy; cho nên khi thấy voi thì sợ mà tìm đàng trốn hết. Vậy những quân Ngô bị tử trận hay là phải chết đói khi trốn dọc đàng thì hằng hà sa số. Còn lính An Nam tữ (sic) trận không đầy hai trăm (?). Bao nhiêu lương thực và những đồ khí giái, vàng bạc quân Ngô đã đem sang thì lính An Nam lấy đặng cả, mà các giống ấy thì nhiều lắm, vì chừng bảy mươi con ngựa mới chở hết những vàng bạc quân ấy bỏ lại … Sử Ký Ðại Nam Việt (in
lần thứ năm) 1909) [Sài gòn: Nhà In Nhà Dòng Tân Ðịnh (Imprimerie de la
mission à Tân Ðịnh), 1909 (nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa xuất bản tại Sài gòn
1974, tái bản theo lối chụp ảnh tại Montréal, 1986) tr. 42-3. Chúng tôi
chỉ trích dẫn về tin đồn mà giới thừa sai ghi nhận, những chi tiết khác
trong sách này nhiều chỗ sai lầm cả về địa danh cũng như nhân danh, niên
hiệu.
[301] Maurice Collis đã trích lại một
bản tường thuật trên tờ Chinese Repository tháng 8 năm 1836 nhận định
về quân lực nhà Thanh [tuy cách sự việc vài chục năm] mà chúng tôi
nghĩ rằng khá chính xác như sau: Quân đội Trung Hoa, từ thời điểm mà họ phát minh ra thuốc súng năm 1275 đến nay [1836] không khác nhau mấy [từ đời Tống sang đời Thanh khoảng hơn 500 năm]. Các giáo sĩ dòng Tên [Jesuits] hồi thế kỷ XVII và XVIII hẳn đã đúc cho các vị Hoàng đế nhiều đại pháo tốt, nhưng không biết vì lý do gì mà họ không bắt chước nên các súng lớn họ sử dụng thường bị vỡ tung khiến pháo thủ còn nguy hiểm hơn cả kẻ thù. Nếu súng không bể thì cũng bởi vì họ dùng loại thuốc đạn phẩm chất kém nhất, mà chứng cớ rõ rệt nhất là khi hai chiến hạm Andromache và Imogene tấn công Hổ Môn (Bogue) năm 1834, người ta thấy tận mắt là nhiều viên đạn trúng thành tàu chỉ dội ra, nếu bắn xa được tới đó, mà chỉ một số ít vì ngay cả nhắm thẳng, hầu hết cũng không tới và có khi còn rơi ngay trước nòng súng. Thuốc súng, họ bảo rằng, do một nhà thầu địa phương cung cấp (và những ai có chút kinh nghiệm thì biết ngay nhà thầuđịa phương ở Á Ðông làm ăn ra sao rồi). Chính vì thế mà trận đánh chỉ làm các chiến thuyền này thiệt hại có hai người, trong khi có đến 300 đại pháo trang bị cho pháo đài Bogue và chiến hạm đã phải theo thuỷ triều để cự lại một luồng gió bấc nên tiến vào vùng hẹp nhất. Và pháo đài Hổ Môn (Bogue) là chiến luỹ kiên cố nhất trên toàn cõi Trung Hoa.
Còn đạo quân trú đóng ở Quảng Châu (Canton) thì chỉ để trình diễn (stage army). Bạn có thể bắt gặp mỗi khi thả bộ tới công đường. Ðội quân này do một gã “trông như cu li, chân quấn xà cạp, tay cầm quạt, có khi thêm một cái roi mây”. Nếu bạn đi với vài người ngoại quốc nữa và ra vẻ như muốn đệ thỉnh nguyện thư thì công sai sẽ bước ra. Họ đi từng người một “không quân phục, không võ trang, không sửa soạn và đang ngái ngủ”. Trong đám đó có một cấp chỉ huy và thường là “viên chức cao cấp nhất có thể gặp được”. Y ra lệnh cho lính gác mặc quân phục lấy trong đống quần áo vừa đem ra. Khi ăn vận rồi trông họ tươm tất hơn, trên ngực và sau lưng có thêu chữ đen trên nền vàng một chữ dũng. Kiếm của họ thì han rỉ đến nỗi rất khó khăn mỗi khi rút ra. Ðây là quân chính qui và không nhiều vì khi khẩn cấp cần binh lính sẽ phải đi thuê thêm tính theo ngày … Maurice Collis. Foreign Mud: being an account of the Opium Imbroglio at Canton in the 1830’s and the Anglo-Chinese War that followed. (1946) (reprinted 1969) tr. 187-8
[302] Theo lá thư của M. Le Roy viết cho giáo sĩ Blandin ngày 8 tháng 7 năm 1789 thì “Ces
soldats chinois portaient tout avec eux, comme ce sage de la Grèce qui
disait omnia mecum porto, leurs pipes, leurs vasselles et autres meubles
de marmiton leur pendant à la ceinture; ils sont soldats, marchands,
médecins, marmitons […]; de pareilles armes ne sont guère d’usage au
fort d’un combat…” Alain Forest: Les Missionaires Francais au Tonkin et au Siam (1998) tr. 119
[303] Ðặng Phương Nghi, “Triều đại vua Quang Trung …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 233.
[304] Ðặng Phương Nghi, “Triều đại vua Quang Trung …” Một Vài Sử Liệu … (1992) tr. 233-34
[305]… une nombreuse armée chinoise
étant venue au Tonquin pour rétablir sur le throne l’ancienne famille Lé
qui s’était réfugiée à Pékin, Quang trung qui pour lors était en
Cochin-Chine apprenant l’arrivée de cette armée chinoise accourut au
Tonquin seulement avec quelques centaines de soldats, il marchait jours
et nuits ramassant sur sa route par force tous les hommes en état de
porter les armes, il n’avait d’autres provisions que celles qui se
trouvoient dans les villages par où il passait, il faisait couper la
tête à tous ceux qui refussaient de le suivre, et bruloit lês maisons de
ceuxdes habitans qui ne mettaient pas à la disposition de ses troupes,
du riz des buffles et des cochons, souvent de rage et de colère il
faisait tuer devant lui les hommes et les chevaux qui ne pouvoient pas
marcher … [ … khi nghe tin Trung Hoa đưa một đạo quân đông đảo sang
Bắc Hà để lập lại ngôi vua cho dòng họ Lê hiện đang lánh nạn tại Bắc
Kinh, Quang Trung lập tức đem vài trăm quân rong ruổi ngày đêm và cưỡng
bách ngay trên đường đi tất cả những ai có thể chiến đấu được, lương
thực thì không gì khác hơn là của dận chúng những làng mạcông đi ngang,
ai không theo sẽ bị chặt đầu, ai chống lại sẽ bị đốt nhà và tịch thu
thóc gạo, trâu bò, lợn và giận dữ giết ngay người ngựa nào không đủ sức
bước đi …] Charles B. Maybon, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (1919) tr. 132
[306] một tấm hình của hoạ sĩ William
Alexander vẽ một người lính Ðàng Trong năm 1792 cho chúng ta những chi
tiết đáng chú ý về y phục của quân Tây Sơn.
[307] Theo những nhà nghiên cứu, binh
sĩ chỉ có thể mang theo mình lương thực 10 ngày là tối đa, hành quân lâu
hơn phải có một hệ thống tiếp liệu. Lính tập và các đơn vị binh
sĩ người Việt thời Pháp thuộc mang gạo bằng những ruột tượng bắt chéo
trên vai xuống hông.
[308] Chính niềm tin rằng Thăng Long
không còn xứng đáng là thủ đô nữa nên về sau Nguyễn Huệ đã khẩn khoản
xin nhà Thanh xuống Nghệ An để phong vương. Trong những thư từ qua lại
với Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ cũng chủ yếu nhờ ông xem đất để xây
cung điện chứ không phải muốn dùng ông vì tài kinh bang tế thế.
[309] Theo nhiều nguồn, đoàn quân tân tuyển lại chính là lực lượng trung quân do ông chỉ huy.
Một tướng lãnh kinh nghiệm không ai dại gì điều động một đoàn quân mới
góp nhặt, thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Chỉ có thể là ưu binh Thanh Nghệ
hiện cư ngụ tại bản quán mới có khả năng vua Quang Trung đòi hỏi.
[310] Trên một số hoạt động thì hải phỉ cũng chính là tầng lớp thương nhân, mua qua bán lại những món hàng có lời nhiều.
[311] KDANKL, quyển III, tr. 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí
– Nam Phong Tạp Chí [Ấn Bản Ðiện Tử] Viện Việt Học, 2009, California, USA.
– Nghiên Cứu Huế, tập năm 2003. Trung Tâm Nghiên Cứu Huế, 2003, Thừa Thiên.
– Nghiên Cứu Lịch Sử, 1997 – Số 2, 185, tháng 3-4. Viện Sử Học (UBKHXHVN), Hà Nội.
– Tập san Sử-Ðịa [9-10] 1968, [13] 1-3, 1969, [21] 1-3, 1971, [26] 1-3, 1974, Saigon.
– Tạp Chí Hán Nôm 2 (5), 1988, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm (UBKHXHVN), Hà Nội.
– Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 4(38). 2002, Huế.
– Thông báo Hán Nôm Học năm 2005, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm (UBKHXHVN), 2006, Hà Nội.
Từ Ðiển
– Cổ Hán Ngữ Thường Dụng Tự Tự Ðiển (古漢語常用字字典) Phồn Thể Tự Bản (繁體字本). Bắc Kinh: Thương Vụ Ấn Thư Quán, 2000.
– Cổ Ðại Hán Ngữ Từ Ðiển (古代汉语词典). Bắc Kinh: Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1998.
– Hummel, Arthur W. (chủ biên) Eminent Chinese of the Ch’ing Period (1644-1912) (清代名人傳略) Taipei: Ch’eng Wen Publishing Company, 1970. (in lại theo bản của chính phủ Mỹ, Washington 1943)
– La, Trúc Phong (罗竹风) chủ biên. Hán Ngữ Ðại Từ Ðiển (漢語大詞典). Thượng Hải: Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã, 1986.
– Lã, Tông Lực (呂宗力) chủ biên. Trung Quốc Lịch Ðại Quan Chế Ðại Từ Ðiển (中國歷代官制大辭典) (2nd ed.). Bắc Kinh: Bắc Kinh xb xã, 1995.
– Ðàm Kỳ Tương 潭其驤 (chủ biên). Trung Quốc Lịch Sử Ðịa Ðồ Tập (中國曆 史地圖集) (8 quyển). Bắc Kinh: Trung Quốc Ðịa Ðồ xb xã, 1996.
– Ðào, Duy Anh. Hán Việt Từ Ðiển (漢越辭典) [in lần thứ ba]. Saigon: Trường Thi, 1957
– Phương, Thi Danh. Niên Biểu Lịch Sử Trung Quốc. Nguyễn Liên Hoàn (dịch). Hà Nội: Thế Giới, 2001.
– Tạ, Mẫn Hoa, Uông Hiển Huy 謝敏華,汪顯輝 (chủ biên). Trung Hoa Thành Ngữ Ðiển Cố Ðại Toàn 中華成語典故大全( 4 vol.). Cát Lâm: Cát Lâm nhiếp ảnh xuất bản xã, 2003.
– Tang, Lệ Hoà (臧勵龢) (chủ biên). Trung Quốc Cổ Kim Ðịa Danh Ðại Từ Ðiển (中國古今地 名大辭典) (in lần thứ hai). Hương Cảng: Thương Vụ ấn thư quán, 1982.
– Tang, Lệ Hòa (臧勵龢) chủ biên. Trung Quốc Nhân Danh Ðại Từ Ðiển (中國人名大辭典). [bản tăng bổ lần thứ 2] Ðài Bắc: Ðài Loan Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1979.
– Tchang, Le P. Mathias. Synchronismes Chinois. Chang-hai: Imprimerie de la Mission Catholique, 1905. (reprinted by Ch’eng-wen Publishing Co., Taipei, 1967)
– Trần, Văn Chánh. Từ Ðiển Hán Việt: Hán Ngữ Cổ Ðại và Hiện Ðại (in lần thứ hai). tpHCM: Trẻ, 2001
– Trịnh, Thiên Ðĩnh (鄭天挺) (chủ biên). Trung Quốc Lịch Sử Ðại Từ Ðiển (中國歷史大辭典) (thượng và hạ). Thượng Hải: Thượng Hải từ thư xb xã, 2000.
Việt Văn
– Borri, Cristophoro. (Hồng Nhuệ dịch) Tường Trình Về Khu Truyền Giáo Ðàng Trong 1631. Thăng Long, không rõ năm.
– Hoa Bằng. Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792. Saigon: Thư Lãm Ấn Thư Quán, 1958.
– Hoàng, Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử. Saigon: Minh Tân, 1952
– Hoàng, Xuân Hãn. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, [ba tập]. Hữu Ngọc – Nguyễn Ðức Hiền (sưu tập). Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998.
– Hồ, Bạch Thảo (dịch). Thanh Thực Lục: Quan hệ Thanh – Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Hà Nội: Hà Nội, 2010.
– Hoàng, Văn Hoè (dịch). Ðại Việt Quốc Thư. Saigon: Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục, 1972.
– Mai, Quốc Liên (chủ biên). Ngô Thì Nhậm tác phẩm (4 quyển) Hà Nội: nxb Văn Học, 2001-2
– Một Nhóm Học Giả. Một Vài Sử Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Cali.: Ðại Nam, 1992.
– Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê Nhất Thống Chí (bản dịch Nguyễn Ðức Vân – Kiều Thu Hoạch) Hà Nội: nxb Văn Học, 2002.
– Ngô, Cao Lãng. Lịch Triều Tạp Kỷ (bản dịch Hoa Bằng và Hoàng Văn Lâu) Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1995.
– Ngô, Thời Chí. Hoàng Lê Nhất Thống Chí (bản dịch Ngô Tất Tố) Saigon: Phong Trào Văn Hóa tái bản, 1969.
– Nguyễn, Anh Huy. Lịch Sử Tiền Tệ Việt Nam: Sơ Truy và Lược Khảo. [越南古錢學初考] (An Initial Researching Into Vietnamese Numismatics). tpHCM: VHSG, 2010.
– Nguyễn, Cẩm Thuý, Nguyễn Phạm Hùng. Văn thơ Nôm thời Tây Sơn. tpHCM: KHXH, 1997.
– Nguyễn, Khắc Ngữ. Bộ Sưu Tập Bản Ðồ Cổ Việt Nam. Montréal: Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa Việt Nam, 1987.
– Nguyễn, Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng. Tìm Hiểu Thiên Tài Quân Sự của Nguyễn Huệ . Hà Nội: nxb QDND, 1971
– Nguyễn, Thu. Lê Quí Kỷ Sự (Hoa Bằng dịch, Văn Tân hiệu đính). Hà Nội: KHXH, 1974.
– Phạm, Văn Thắm (dịch). Lê Quí Dật Sử. Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1987
– Phú Xuân Thuận Hóa thời Tây Sơn (nhiều tác giả). Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học Huế: nxb Thuận Hoá, 2001.
– Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục I, II (bản dịch Viện Sử Học). Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998.
– Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện: Nhà Tây Sơn (bản dịch Tạ Quang Phát) Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá, 1970.
– Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện tập II (Ngô Hữu Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch). Huế: nxb Thuận Hoá, 1997.
– Sử Ký Ðại Nam Việt (in
lần thứ năm, 1909) [Sài gòn: Nhà In Nhà Dòng Tân Ðịnh (Imprimerie de la
mission à Tân Ðịnh)] (nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa xuất bản tại Sài gòn 1974,
tái bản theo lối chụp ảnh tại Montréal, 1986)
– Tạ Quang Phát (dịch), Nhà Tây Sơn (Ðại Nam chính biên liệt truyện – Nguỵ Tây liệt truyện) Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá, 1970
– Tạ, Quang Phát (dịch). Tây Sơn Thuật Lược (西山術略). Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá, 1971
– Trần, Văn Giáp. Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, tập I (in lần thứ hai). Hà Nội: Văn Hóa, 1984.
– Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Lịch Sử Việt Nam (tập I) Hà Nội: nxb KHXH, 1976
– Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Ðịa Chí Thừa Thiên Huế – Phần Lịch sử . Hà Nội: nxb Khoa Học Xã Hội, 2005.
– Viên Mai. Tùy Viên Thi Thoại [Trương Ðình Chi dịch] tpHCM: nxb Văn Nghệ, 2002
Anh Văn
– Amranand, Ping và William Warren. The Elephant in Thai Life & Legend. Bangkok: Monsoon Editions, Ltd.,1998.
– Antony, Robert J. Like Froth Floating on the Sea: The World of Pirates and Seafarers in Late Imperial South China. Berkeley: Institute of East Asian Studies, UC Berkeley, 2003.
– Bạch, Thọ Di (Bai Shouyi – 白壽彝). An Outline History of China (Trung Quốc Thông Sử Cương Yếu). Bắc Kinh: Trung Quốc Quốc Tế Thư Ðiếm, 1982.
– Barnes, Thomas J. Tay Son, Rebellion in 18th Century Vietnam. Xlibris Corporation, 2000.
– Barrow, John. A Voyage To Cochinchina. Kuala Lumpur: Oxford University, 1975 (in theo lối chụp ảnh nguyên bản năm 1806)
– Black, Jeremy. War, Past, Present & Future. New York: St Martin’s Press, 2000.
– Brighton Borough Council. William Alexander: An English Artist in Imperial China. Brighton: Nottingham University Art Gallery, 1981.
– Chakrabonse, Chula. Lords of Life: A History of the Kings of Thailand (2nd Ed). London: Alvin Redman, 1967
– Charney, Michael W. Southeast Asian Warfare 1300-1900. Netherlands: Brill Leiden Boston, 2004.
– Collis, Maurice. Foreign Mud: being an account of the Opium Imbroglio at Canton in the 1830’s and the Anglo-Chinese War that followed. London: Faber and Faber Limited, 1946 (reprinted 1969 by John Dickens & Co Ltd Northampton)
– Crawfurd, John. Journal of an
Embassy from the Governor-General of India to the Courts of Siam and
Cochin China exhibiting a view of the Actual State of those Kingdoms. New Delhi: Asian Educational Services, 2000 (chụp lại nguyên bản London, 1828)
– Crawfurd, John. Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin China. Kuala Lumpur and London: Oxford University Press, 1967.
– Creveld, Martin Van. Supplying War: Logistics from Wallenstein to Patton. Cambridge: Cambridge University Press, 1992
– Do, Phuong Quynh. Arts and Handicrafts of Viet Nam. Hanoi: The Gioi (Foreign Languages Publishing House), 1992
– Dutton, George. The Tây Sơn Uprising – Society and Rebellion in Eighteenth-Century Vietnam. Honolulu: University of Hawai’i Press, 2006.
– Dyer, Gwynne. War. New York: Crown Publishers, Inc., 1985.
– Fairbank, John K. (chủ biên) The Chinese World Order. (2nd printing) Mass: Harvard University Press, 1968.
– Fairbank, John K., Reischauer and Craig: East Asia – Tradition and Transformation. Harvard University, Houghton Mifflin Co., 1973.
– Fitzgerald, C.P. The Southern Expansion of the Chinese People. New York-Washington: Praeger Publishers, 1972.
– Graff, David A. và Robin Higham. A Military History of China. Boulder, Colorado: Westview Press, 2002.
– Griess, Thomas E. (ed.) Ancient and Medieval Warfare (The
West Point Military History Series). Department of History, US Military
Academy, West Point, New York. New Jersey: Avery Publishing Group Inc.,
1984
– Hanes, W. Travis III v Frank Sanello. The Opium Wars. Illinois: SourceBooks, Inc. 2002.
– Heath, Ian. Armies of the Nineteenth Century: Asia (V. 2: China). Great Britain: Foundry Books, 1998.
– Heath, Ian. Armies of the Nineteenth Century: Asia (V. 4 – Burma and Indo-China). Great Britain: Foundry Books, 2003.
– Hintz, Martin. Tons of Fun Training Elephants. New York: Julian Messner, 1982
– Hocquard, Eùdouard. War and
Peace in Hanoi and Tonkin (A Field Report of the Franco-Chinese War and
on Customs and Beliefs of the Vietnamese 1884-1885) Bangkok: White Lotus Press, 1999. (dịch từ nguyên tác Trente Mois au Tonkin trong bộ Le Tour du Monde, Vols. 57-61, 1889-91, Paris)
– Keegan, John. A History Of Warfare. New York: Alfred A. Knopf, 1994
– Lach, Donald F. Asia in the Making of Europe (4 vol.) Chicago: The University of Chicago Press, 1993.
– Lamb, Alastair. Asian Frontiers – Studies in a Continuing Problem. New York-Washington-London: Frederick A. Praeger, Publishers, 1968.
– Lamb, Alastair. The Mandarin Road to Old Hué. London: Chatto & Windus, 1970
– Latourette, Kenneth Scott. The Chinese, Their History and Culture (7th ed.) New York: The Macmillan Co., 1968.
– Legouix, Susan. Image of China: William Alexander. London: Jupiter Books, 1980.
– Lewis, E. Jon (ed.) The Mammoth Book of Soldiers at War: Firsthand accounts of warfare from the Age of Napoleon. New York: Carrol & Graf Publishers, Inc. 2001.
– Majumdar, R.C. Champa, History & Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Far East 2nd-16th Century A.D. New Delhi: Gyan Publishing House, 1985.
– Murray, Dian H. Prirates Of The South China Coast 1790-1810. Calif.: Stanford University Press, 1987.
– National Museum of Chinese History. A Journey Into China’s Antiquity (4 volumes). Beijing: Morning Glory Publishers, 1997
– Ngaosrivathana, Mayoury và Kennon Breazeale (ed.). Breaking New Ground In Laos History. Chiang Mai: Silkworm Books, 2002
– Ngaosyvathn, Mayoury và Pheuiphanh Ngaosyvathn. Paths to Conflagration: Fifty Years of Diplomacy and Warfare in Laos, Thailand, and Vietnam, 1778-1828. New York: Cornell Southeast Asia Program Publications, 1998.
– Paludan, Ann. Chronicle of the Chinese Emperors. New York: Thames & Hudson, 1998.
– Parker, Geoffrey. The Military Revolution – Military innovation and the rise of the West 1500-1800. Cambridge: Cambridge University Press, 1996.
– Parker, Geoffrey. The Military Revolution: Military innovation and the rise of the West 1500-1800. Cambridge: Cambridge University Press, 1996
– Paul, E. Jaiwant, By My Sword and Shield – traditional weapons of the Indian warrior. (Lotus Collection) New Delhi: Roli Books, 1995.
– Peers, Chris, Christa Hook. Late Imperial Chinese Armies 1520-1840. London: Reed International Book Ltd, 1997.
– Peterson, Willard J. (ed.) The Cambridge History of China, Vol. 9, Part One: The Ch’ing Dynasty to 1800. Cambridge University Press, 2002
– Pluvier, Jan M. Historical Atlas of South-East Asia. New York: E. J. Brill, 1995.
– Reid, Anthony. Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680 (volume II) New Haven, London: Yale University Press, 1993
– Reid, Anthony. Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680. (vol I) New Haven, London: Yale University Press, 1988.
– Shortland, John R., M.A. The Persecutions of Annam: A History of Christianity in Cochin China and Tonking. London: Burns and Oates, 1875
– Simms, Peter và Sanda Simms. The Kingdoms of Laos: Six Hundred Years of History. Richmond: Curzon Press, 1999
– Singh, Sarva Daman. Ancient Indian Warfare. Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1997
– Smith, Bradley và Wan-go Weng. China: A History in Art. Doubleday & Company, Inc., không đề năm.
– Spencer, Jonathan D. In Search for Modern China. New York : W.W. Norton & Co., 1990.
– Steinberg David J. (ed.). In Search of Southeast Asia. Hawaii: University of Hawaii Press, 1987.
– Sun, Laichen, “Military Technology
Transfers from Ming China and the Emergence of Northern Mainland
Southeast Asia (c. 1390-1527)” Journal of Southeast Asian Studies, vol. 34, 3 (10-2003)
– Tana, Li. Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries. New York: Cornell University – Southeast Asia Program Publications, 1998.
– Tarling, Nicholas (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, tập I, phần 2: từ 1500 đến 1800. Cambridge: Cambridge University Press, 1999.
– The Cambridge History of China, Vol. 9 Part 1 – The Ch’ing Dynasty to 1800. Cambridge University Press, 2002.
– Tien, Chen-Ya. Chinese Military Theory, Ancient and Modern. Mosaic Press, 1992.
– Wakeman, Frederic Jr. The Fall of Imperial China. New York: The Free Press, 1975.
– Woodside, Alexander B. A Comparative Study of Vietnamese and Chinese government in the first half of the nineteenth century. Mass: Harvard University Press, 1971.
– Woodside, Alexander B. Vietnam
and the Chinese Model – A Comparative Study of Nguyễn and Ch’ing Civil
Government in the First Half of the Nineteenth Century. MA: Harvard University Press, 1971.
Pháp Văn
– Durand, Maurice. Histoire des Tây Sơn. Paris: Les Indes Savantes, 2006
– Forest, Alain. Les Missionnaires Franҫais au Tonkin et au Siam XVIIe – XVIIIe siècles. Livre II: Histoires du Tonkin. Paris: Éditions l’Harmattan, 1998.
– Le Livre de Paris. Les Grands Dossiers de L’illustration L’indochine, 1995.
– Maybon, Charles B. Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820). Paris: Librairie Plon, 1920
– Maybon, Charles B. La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère. Paris: Librairie Ancienne Honoré Champion, 1919.
Hoa/Hán Văn
– Bách, Dương (柏楊). Trung Quốc nhân sử cương (中國人史綱) (thượng và hạ) Ðài Bắc: Tinh Quang xb xã, 1996.
– Cao, Dương (高陽). Thanh Triều Ðích Hoàng Ðế, (清朝的皇帝) Q. II. Ðài Bắc Viễn Ảnh xb Sự Nghiệp Công Ty, 1989.
– Chu, Viễn Liêm (周遠廉). Càn Long Hoàng Ðế Ðại Truyện (乾隆皇帝大傳) Hà Nam: Hà Nam nhân dân xb xã, 1996.
– Cố Cung Bác Vật Viện (故宮博物院). Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược (欽定安南紀 略) (bản chụp lại gồm 30 quyển) Hải Nam: Hải Nam xb xã, 2000.
– Cố Cung Bác Vật Viện (故宮博物院). Thanh Cung Yến Lạc Tàng Trân 清宮宴樂藏珍 (Qinggong Yanyue Cangzhen). Bắc Kinh: Bắc Kinh xb xã, 2002.
– Lại, Phúc Thuận (賴福順). Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu (乾隆重要戰爭之軍需研究). Ðài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1984
– Lam, Ngọc Xuân (藍玉春). Trung Quốc Ngoại Giao Sử – Bản Chất Dữ Sự Kiện, Xung Kích Dữ Hồi Ứng (中國外交史- 本質與事件,衝擊與回應). Ðài Bắc: Tam Dân thư cục, 2007.
– Lã, Nguyên Thông – Cát Vinh Tấn (呂元驄 – 葛榮晉). Thanh Ðại Xã Hội Dữ Thực Học (清代社會與實學) Hongkong: Hongkong University Press, 2000.
– Lê, Kiệt (藜傑). Thanh Sử (清史) Trung Quốc Cận Ðại Sử. Hongkong: Hải Kiều xb xã, 1964.
– Lê, Ðông Phương (藜東方). Tế Thuyết Thanh Triều (細說清朝) (thượng và hạ). Ðài Bắc: Truyện Ký Văn Học Xã, 1987.
– Lưu, Gia Câu (劉家駒). Thanh Sử Bính Ðồ (清史拼圖) Ðài Bắc: Viễn Ảnh, 2003.
– Nguỵ, Nguyên (魏源). Thánh Vũ Ký (聖武記). Ðài Bắc: Thế Giới Thư Cục, 1980.
– Ðường Văn Cơ – La Khánh Sái (唐文基-羅慶洒). Càn Long Truyện. Bắc Kinh: Nhân Dân xb xã, 1994.
– Phan, Thúc Trực (潘叔直). Quốc Sử Di Biên (國史遺編). Hương Cảng: Viện Nghiên Cứu Ðông Nam Á, 1965
– Phương, Thiết 方鐵(chủ biên). Tây Nam Thông Sử 西南通史 (Series of a Complete History of China Borders – A Complete History of China Southwest Borderland). Hà Nam: Trung Châu Cổ Tịch Xb xã, 2003.
– Quách, Chấn Phong (郭振鋒) và Trương Tiếu Mai (張笑梅) (chủ biên). Việt Nam Thông Sử (越南通史). Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân Dân đại học xb xã, 2001
– Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện, [大南列傳] quyển XXX, Nguỵ Tây [偽西].
– Thanh Cao Tông ngự chế thi văn toàn tập (清高宗御製詩文全集)(10 quyển). Ðài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1976.
– Thanh Sử (清史) (8 quyển) Thanh Sử Biên Toản Uỷ Viên Hội (清史編纂委員會) Ðài Bắc: Quốc Phòng Nghiên Cứu Viện (國防研究院), 1961.
– Thanh Sử Cảo (清史稿) (48 quyển) Triệu Nhĩ Tốn 趙爾巽 (tuyển). (in lần thứ 5). Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1996.
– Tiêu, Nhất Sơn (蕭一山). Thanh Sử (清史). Ðài Bắc: Trung Hoa Văn Hoá, không đề năm.
– Tôn, Cảnh Phong (孫景峰), Lý Kim Ngọc (李金玉). Chính Thuyết Thanh Triều Tam Bách Niên (正說清朝三百年). Bắc Kinh: Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá xb xã, 2005.
– Tống, Liên Sinh (宋連生). Ðại Thanh Thịnh Thế (大清盛世). Bắc Kinh: Ðương Ðại thế giới xb xã, 2006.
– Trần, Chí Bình (陳致平). Trung Hoa Thông Sử (中華通史) q. 11 & 12. Ðài Bắc: Lê Minh Văn Hóa Sự Nghiệp Công Ty, 1979.
– Trần, Khánh Hạo (陳慶浩) chủ biên. Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San (越南漢文小說叢刊) (đệ nhất tập) [7 quyển] Paris-Taipei: École française d’Extrême-Orient & Editions Universitaires de Taipei, 1986
– Trần, Khánh Hạo (陳慶浩) chủ biên. Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San (越南漢文小說叢刊)(đệ nhị tập) [5 quyển] Paris-Taipei: École française d’Extrême-Orient & Editions Universitaires de Taipei, 1992
– Trạch, Văn Minh (翟文明) (chủ biên). Trung Quốc Toàn Sử (中國全史) (4 quyển). Bắc Kinh: Quang Minh Nhật Báo xb xã, 2002.
– Trạch, Văn Minh (翟文明). Càn Long Ðồ Truyện (乾隆圖傳). Bắc Kinh: Trung Quốc Hí Kịch xb xã, 2001.
– Trang, Cát Phát (莊吉發). Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (清高宗十全武功研究). Ðài Loan Cố Cung Tùng San, Giáp Chủng số 26, tháng 6 năm 1982.
– Trang, Cát Phát (莊吉發). Thanh Sử Giảng Nghị (清史講議). Ðài Bắc: Thực Học Xã, 2002.
– Trang, Cát Phát (莊吉發). Thanh Sử Luận Tập 清史論集(quyển
XII) “Thanh Cao Tông Sách Phong An Nam Quốc Vương Nguyễn Quang Bình
Thuỷ Mạt” 清高宗冊封安南國王阮光平始末. Ðài Bắc: Văn Sử Triết, 2008
– Trần, Nguyên Nhiếp, An Nam Quân Doanh Kỷ Lược. Bản chép tay thư viện Harvard-Yenching [Tạp Sử, số hiệu 2404]
– Trương, Hiểu Quang (張曉光). Thanh Ðại Ðồng Bản Chiến Công Ðồ Toàn Biên (清代銅版戰功圖全編) Bắc Kinh: Học Uyển xb xã, 2000.
– Trương, Minh Canh (張明庚), Trương Minh Tụ (張明聚). Trung Quốc Lịch Ðại Hành Chánh Khu Hoạch (中國歷代行政區劃). Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xb xã, 1996.
– Trương, Ngự Hoàn (張馭寰). Trung Quốc Thành Trì Sử (中國城池史). Thiên Tân: Bách Hoa Văn Nghệ xb xã, 2003.
– Trương, Tú Dân (張秀民). Trung Việt Quan Hệ Sử Luận Văn Tập (中越關係史論文集). Ðài Bắc: Văn Sử Triết, 1992
– Trung Quốc Quân Sự Sử Biên Tả Tổ. Trung Quốc Lịch Ðại Quân Sự Chế Ðoä (中國歷代軍事制度). Bắc Kinh: Giải Phóng Quân xb xã, 2006.
– Trung Quốc Thông Sưû (中國史通) (10 quyển). Sái Lỗi 蔡磊 (chủ biên). Bắc Kinh: Thời Ðại Văn Nghệ xb xã, 2002.
– Trung Quốc Thông Sử 中國通 史(22 quyển). Bạch Thọ Di (Bai Shouyi – 白壽彝) (chủ biên). Thượng Hải: Thượng Hải Nhân Dân xb xã, 2000.
– Viện Nghiên Cứu Lịch Sử Vân Nam. “Thanh Thực Lục” Việt Nam, Miến Ðiện, Thái Quốc, Lão Qua Sử Liệu Trích Sao (清實錄 – 越南緬甸泰國老撾史料摘抄). Vân Nam: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1985.
– Vương Nhung Sinh (王戎笙). Thanh Ðại Toàn Sử (清代全史) (10 quyển). Thẩm Dương: Liêu Ninh xb xã, 1995.
Nguyễn Duy Chính
https://nghiencuulichsu.com/2013/03/27/viet-thanh-chien-dich/