Thursday 13 August 2020

Trận tập kích sân bay Cát Bi chia lửa với Điện Biên Phủ (An Ninh Hải Phòng)

 

Trận tập kích sân bay Cát Bi chia lửa với Điện Biên Phủ

18:48 26/04/2014

 

Đánh giá về vai trò của trận tập kích sân bay Cát Bi đối với chiến thắng “Lừng lẫy Năm châu, chấn động địa cầu” Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Ở đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện với tinh thần dũng cảm, kiên cường, mưu trí sáng tạo, xứng đáng là một “mặt trận điển hình đánh vào địch hậu”, có hiệu quả và hiệu suất chiến đấu cao. Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu III và Khu ủy, Bộ Tư lệnh Tả Ngạn đã động viên mọi lực lượng, tập trung sức người, sức của chi viện cho chiến trường chính Điện Biên Phủ. Những trận đánh “xuất quỷ, nhập thần” xung kích sân bay Gia Lâm, đặc biệt là sân bay Cát Bi, đánh thẳng vào nơi trung tâm quân sự của giặc, đã phá hủy một bộ phận quan trọng không quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường toàn quốc và chiến trường chính Điện Biên Phủ”…

Đầu năm 1954, thực hiện chủ trương phối hợp, chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ, quân và dân Hải Phòng - Kiến An phối hợp các đòn tấn công của bộ đội chủ lực, mở rộng chiến tranh du kích: hàng chục đoàn tàu bị lật đổ, hàng chục đồn bốt bị san bằng, nhiều kho xăng dầu của địch bị đốt cháy… Nhưng có lẽ chiến công vang dội nhất của quân và dân Hải Phòng - Kiến An trong kế hoạch Xuân Hè 1954 là cuộc tập kích sân bay Cát Bi, đốt cháy hàng chục máy bay. Chiến thắng Cát Bi ngày 7-3-1954 đã góp phần làm đảo lộn, phá sản kế hoạch Navarre của thực dân Pháp, chặt đứt một con đường tiếp viện quan trọng của địch cho chiến trường Điện Biên Phủ đang trong giai đoạn quyết liệt nhất.

Sân bay Cát Bi là sân bay lớn nhất miền Bắc Đông Dương, được thực dân Pháp tái thiết, mở rộng và nâng cấp vào các năm 1952-1953 để trực tiếp phục vụ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Để bảo vệ sân bay, giặc Pháp dồn dân, lập vành đai trắng, xây dựng hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, gồm 78 đồn bốt, tháp canh, 6-7 lớp hàng rào dây thép gai xen lẫn bãi mìn đủ loại. Chúng còn bố phòng 13 cụm phòng không bằng vũ khí trọng liên và đặt 5 đồn bốt kiên cố chốt dọc tuyến đường 14 Hải Phòng - Đồ Sơn. Bên cạnh đó, cùng với việc thường xuyên duy trì hoạt động lùng sục, đánh hơi của một đại đội thám báo do viên thiếu tướng Pháp chỉ huy. Vào thời kỳ cao điểm, chúng sử dụng tới 7 tiểu đoàn Âu Phi Lê Dương và nguỵ quân canh phòng bảo vệ sân bay. Hàng ngày, địch tổ chức canh giữ, tuần tiễu rất nghiêm ngặt khắp trong lẫn ngoài sân bay. Cứ 15 phút đội tuần tiễu vòng lại một lần với sự tham gia của đội quân chó săn được huấn luyện tinh thông, phương tiện cơ giới và hệ thống đèn pha chiếu sáng dày đặc.

Trung tướng Mai Năng - nguyên Chủ tịch Hội CCB Hải Phòng, vị tướng đặc công từng 2 lần được phong danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, nhớ lại: Tháng 7-1953, tổ trinh sát Kiến An được giao nhiệm vụ vào xã Hoà Nghĩa xây dựng cơ sở để bí mật tổ chức đưa lực lượng trinh sát vào sân bay nắm tình hình địch. Khó khăn lớn nhất lúc này là, do địch thường xuyên bao vây, càn quét, khủng bố và phục kích trên khắp các ngả đường nên việc ra vào của trinh sát hết sức khó khăn và khó khăn lớn nhất vẫn là tiếp cận, lấy lại lòng tin của nhân dân đối với cách mạng. Vì vậy anh em trinh sát ban ngày phải nằm hố, chui dưới bụi cây nơi sình lầy, bị muỗi đốt, vắt chích đau buốt, không cơm ăn, nước uống, đói rét cắt da, rồi đêm đến mới mò vào gặp dân, tuyên truyền vận động, xây dựng cơ sở.

Cứ như vậy, sau gần tháng trời bám trụ, các chiến sĩ mới xây dựng được các cở sở trong nhân dân để chuẩn bị cho trận tập kích sân bay. Đến tận bây giờ, trung tướng Mai Năng vẫn còn nhớ như in tên và hình các mẹ cơ sở can đảm ngày ấy như: mẹ Sàn, mẹ Vo, mẹ Tính, mẹ Can, mẹ Tạ, cô Hồng… ở xã Hoà Nghĩa. Nhờ các cơ sở quần chúng cách mạng trung kiên này mà anh em trinh sát mới thực hiện trót lọt khoảng 36 lần để đếm đi đếm lại từng hàng rào, bãi mía, kho tàng, bãi mìn, từng ngọn đèn pha, hoạt động của sở chỉ huy, vị trí đỗ và kích thước của từng loại máy bay; thói quen sinh hoạt của từng toán tuần tra, từng ổ đèn pha và của mỗi tên trực gác…

Chiến sĩ ta phải chuẩn bị gần 8 tháng để đánh sân bay Cát Bi
Chiến sĩ ta phải chuẩn bị gần 8 tháng để đánh sân bay Cát Bi

Tuy vậy, không ít lần các chiến sĩ trinh sát gặp sự cố bất ngờ đến thót tim như: vô tình vướng dây hàng rào làm mìn nổ, có lần gây tiếng động mạnh trong trạm xưởng, bị địch bao vây lùng sục; quên thời gian không ra kịp trước khi trời sáng, đành phải ém quân, nhịn đói chờ đến đêm lại thực thi nhiệm vụ…

Trong hồi ký của mình, đại tá Đỗ Tất Yến - Chỉ huy phó trận tập kích Cát Bi xúc động kể về quá trình luyện tập vất vả của cán bộ, chiến sĩ vinh dự được tham gia trận đánh lịch sử này như: tập chạy bộ gần 30km với trang bị đầy đủ súng đạn, yêu cầu không phát ra tiếng động; tập đánh máy bay trong khi chưa một ai biết hình thù cụ thể, cấu tạo, tính năng từng bộ phận của nó như thế nào; tổ chức đánh sân bay Đồ Sơn để thực nghiệm (trận này ta diệt được 5 máy bay vận tải, đốt cháy 1 kho xăng)… Nhờ công tác chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng như vậy nên hầu hết các chiến sĩ đều xác định được tư thế, động tác, khối lượng thuốc nổ đánh máy bay đỗ…

Lực lượng trực tiếp tham gia trận tập kích sân bay Cát Bi ngày 7-3-1954 gồm 32 cán bộ, chiến sĩ, do các đồng chí Minh Khánh (Lê Thừa Giao) làm chỉ huy trưởng, Đỗ Tất Yến làm chỉ huy phó. Quân ta chia thành 2 mũi vượt sông trong điều kiện thời tiết giá rét, rồi bí mật bám theo trinh sát mở đường, vượt qua hệ thống hàng rào dây thép gai, bãi mìn dày đặc của địch để tiếp cận với sân bay. Đêm mùng 6 rạng ngày 7-3-1954, sau loạt súng tiêu diệt toán quân địch đi tuần của trinh sát, các chiến sĩ ta đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn, ào lên tấn công.

Bị tập kích bất ngờ, lợi dụng mấy phút đầu địch chưa kịp phản ứng, từng tổ xông lên đánh phá máy bay theo kế hoạch được phân công, lửa cháy rực cả góc trời. Khi cả sân bay Cát Bi đã biến thành biển lửa ngút trời, quân địch mới kịp hoàn hồn và tổ chức phản công. Chúng dùng hoả lực mạnh từ các hướng chống trả rất quyết liệt như: điên cuồng vãi đạn, thả đèn dù, pháo sáng tìm mục tiêu, kéo còi inh ỏi… Nhưng tất cả đã muộn, ngay sau cuộc tập kích chớp nhoáng (khoảng 25-30 phút), đánh nhanh diệt gọn, các chiến sĩ ta đã khẩn trương rút lui khỏi trận địa, tìm về nơi tập kết an toàn trong sự vui mừng và chở che, đùm bọc của nhân dân, để lại cho quân địch bao nỗi kinh hoàng.

Kết quả là bộ đội ta đã phá huỷ và đốt cháy khoảng 59 máy bay các loại, trong đó phần lớn là máy bay chiến đấu và máy bay vận tải của địch, phá huỷ nhiều vũ khí và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm tê liệt hoạt động tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ của quân đội Pháp. Để có được trận tập kích vang dội, các cán bộ, chiến sĩ ta đã phải mất gần 8 tháng trời chuẩn bị, rất công phu với bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh (trong quá trình trinh sát, chuẩn bị và chiến đấu đã có16 cán bộ, chiến sĩ bị bắt và hy sinh).

Chiến thắng Cát Bi ngày 7-3-1954 là trận tập kích chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, đánh dấu bước trường thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Hải Phòng về trình độ tác chiến. Ngay sau khi nhận được tin trận tập kích sân bay Cát Bi thắng lợi, Bác Hồ đã tặng danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi” cho cán bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh lịch sử này.

Wednesday 12 August 2020

Thiếu tướng đặc công kể chuyện đánh sân bay Cát Bi (Lã Quý Hưng - Xây Dựng Đảng)

 

Kỷ niệm 66 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2010) - Ngày Hội quốc phòng toàn dân :
Thiếu tướng đặc công kể chuyện đánh sân bay Cát Bi
15:41' 22/12/2010
Thiếu tướng Mai Năng (bên trái)

Chiến công lẫy lừng của quân dân Kiến An trong trận đánh sân bay Cát Bi tháng 3-1954 “chia lửa” cho Điện Biên Phủ đã đi vào những trang vàng của lịch sử. Trong trận đó có một người được bình bầu là “dũng sĩ số 1”, đó là Tổ trưởng trinh sát Mai Năng sau là Thiếu tướng nguyên Tư lệnh Binh chủng đặc công, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Chủ tịch Hội CCB Tp. Hải Phòng.



Năm 1950, tôi là bộ đội quân báo của Tỉnh đội Kiến An, sau là tổ trưởng tổ trinh sát hậu địch chủ yếu ở khu vực Hải Phòng. Tháng 7-1953, tôi đang chuẩn bị cho trận đánh ở Đồ Sơn thì được điều về giao nhiệm vụ trinh sát chuẩn bị cho trận đánh sân bay Cát Bi.

Sân bay Cát Bi là sân bay lớn thứ nhất của Pháp ở Bắc Đông Dương, một cầu hàng không lớn nhất trong thời kỳ Pháp xâm lược, có trên dưới 200 máy bay các loại. Sân bay nằm sâu trong hậu phương của địch, có 3 mặt giáp sông, biển và một mặt giáp Hải Phòng, đựợc xây dựng một hệ thống bố phòng rất kiên cố. Lực lượng của địch thời điểm cao nhất tới 7 tiểu đoàn chủ yếu là Âu - Phi, lê dương, lực lượng thám báo người Việt. Xung quanh sân bay gồm 78 đồn bốt, tháp canh chia làm 3 tuyến vành ngoài, vành đai và trung tâm, 13 vị trí đề phòng tập kích phòng không, có 6 hàng rào dây thép gai bãi mìn, hàng ngàn đèn điện, mấy chục ngọn đèn pha chiếu quét làm cho sân bay đêm cũng như ngày, một con chuột nhắt chạy qua cũng bị phát hiện. Cứ 15 phút có một trung đội Âu-Phi trang bị cơ giới và chó nghiệp vụ tuần tra quanh sân bay một lần. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của một thiếu tướng Pháp và cố vấn Mỹ. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho sân bay, bọn địch đã dựng một “vành đai trắng” xung quanh. Ngoài ra, hệ thống đồn bốt dọc trục đường 14 đi Đồ Sơn cũng là một lực lượng bảo vệ sân bay chiến lược này từ xa.

Đó là tất cả những khó khăn, thử thách đối với công tác trinh sát. Tổ trinh sát gồm 4 người: tôi - Mai Năng - tổ trưởng và 3 chiến sỹ My, Hồng, Diệp. Huyện Kiến Thuỵ cử một tổ 3 đồng chí trong đó có đồng chí là uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ xã Hoà Nghĩa sang hỗ trợ. Việc đi lại, ăn ở, sinh hoạt chồng chất khó khăn bởi chưa có một cơ sở nào của ta ở địa bàn quanh sân bay. Những ngày đầu trinh sát phải nằm ngoài bờ bụi, bãi sú. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, hằng tháng trời chưa xây dựng được một cơ sở. Đột nhiên tối hôm đó, một gia đình đóng cửa che đèn gọi bộ đội vào cho cơm ăn. Bà cụ vừa thở vừa nói: “Mẹ biết các con về lâu rồi ”. Chúng tôi giật mình. Rồi mẹ khuyên, địch đang  khủng bố dữ, hay các con tạm lánh ra vùng tự do một thời gian. Tôi cảm động và thưa với mẹ: “Cảm ơn mẹ, chúng con là cháu Bác Hồ, con của nhân dân. Nhiệm vụ của chúng con là xây dựng phong trào để giải phóng quê hương. Dù khó khăn gian khổ thế nào, chúng con cũng không thể bỏ dân mà đi được. Chúng con sẽ bám dân, bám đất cho đến ngày giải phóng”. Nghe chúng tôi bày tỏ quyết tâm, mẹ đã khóc và nói: “Từ nay các con vào, dùng ngón tay gõ nhẹ là mẹ biết”. Đó là mẹ Sàng - một cơ sở đầu tiên của tổ trinh sát ở thôn Hoà Nghĩa. Từ nhà mẹ Sàng, chúng tôi xây dựng và phát triển thêm những cơ sở mới như mẹ Tính, mẹ Vo, mẹ Tạ… Một tuần sau, mẹ Sàng bảo tôi: “Các con cứ đi đi về về thế này vất vả mà không ổn, thôi các con đào hầm bí mật trong nhà mẹ mà ăn nghỉ”. Mẹ còn giao nhiệm vụ cho anh Hàn, con trai mẹ làm nhiệm vụ canh gác cho chúng tôi. Hơn năm mươi năm trôi qua, giờ các mẹ cũng đã về nơi suối vàng nhưng hình ảnh những người mẹ yêu nước thôn Hoà Nghĩa năm ấy còn mãi trong tôi. Từ những cơ sở đó, chúng tôi nắm đựợc tình hình làm ăn của dân. Những người ra vào làm ăn ở khu vực sân bay cung cấp tình hình trong sân bay cho chúng tôi. Trên cơ sở nắm tình hình, chúng tôi chuẩn bị phương án trinh sát đột nhập, tập trung vào các điểm hàng rào, bãi mìn, đường băng, nơi đỗ máy bay, kho tàng, thông tin, trung tâm chỉ huy… Trinh sát xong, báo cáo cấp trên, tổ trinh sát đưa chỉ huy các đơn vị vào nắm tình hình trận địa, từ đó xây dựng phương án, huấn luyện chiến đấu. Cuối năm 1953, tỉnh nhất trí và lựa chọn các lực lượng đánh sân bay gồm 130 cán bộ, chiến sỹ. Mục tiêu là phá huỷ toàn bộ sân bay. Nhưng khi lực lượng vượt sông Văn Úc thì bị địch phát hiện, tàu chiến địch bắn chìm thuyền làm một số bị thương vong và bị bắt. Trận đánh phải hoãn lại.

Sau lần xuất quân bị lộ đó, tổ trinh sát đã đề xuất với cấp trên thay đổi lại phương án tác chiến, đó là “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”. Thực hiện phương án này, tổ trinh sát của chúng tôi lại được lệnh chuyển hướng trinh sát, nắm lại tình hình. Tổ dẫn đồng chí Lê Thừa Giao chỉ huy tiểu đoàn 204 cùng vào. Trong quá trình trinh sát, tổ chức diễn đi diễn lại nhiều lần đột nhập và đã có những “sự cố” nhớ đời. Lần đầu vừa qua hàng rào một đồng chí trinh sát đá phải mìn, mìn nổ, sáng trưng một vùng, tôi đành phải kéo anh em vào trong sân bay. Địch dồn quân ra vây ngoài hàng rào, tìm không thấy gì, chúng nói với nhau: “chắc có con gì đi qua”. Lần khác vào trinh sát trạm xăng, đồng chí Hồng khi ngó đầu vào trong đã va vào một cánh cửa đánh “rầm”. Tôi đành kéo anh em trốn vào gầm máy bay. Chúng tôi nghe rõ bọn địch nói với nhau: “chắc gió to cửa sổ va vào nhau (!)”. Một tình huống khác, trời mưa dầm gió bấc, vì quá say sưa điều tra nên tổ quên cả giờ rút, đành nằm lại trong bụi cây mộc đắng, không may lại trúng một tổ kiến lửa. Gần một ngày nằm yên không nhúc nhích, tối đến, người vừa đói, mệt, toàn thân phồng dộp như bị phỏng cháy.

Sau khi hoàn tất công tác trinh sát, cấp trên quyết định tổ chức đánh. Lực lượng tham gia lần này giảm tới 2/3 chỉ gồm 32 người, 2 chỉ huy, 6 trinh sát, 24 chiến đấu viên, chia làm 2 mũi. Trang bị chủ yếu là thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên. Ngày 3-3-1954 xuất quân ra bờ sông Văn Úc thì gặp tàu địch. Hôm sau cũng vậy. Phải thay đổi. Sáng 5-3 tới xã Hoà Nghĩa, ban ngày toàn đội hình chiến đấu xuống hầm, 19g30 đơn vị vượt qua đường 14, sông Lạch Tray. Trinh sát mở cửa, cắt dây thép, gỡ mìn đưa lực lượng vào. Đội hình chia làm hai mũi, mũi chủ yếu gồm 13 chiến đấu viên, 3 trinh sát, đánh vào khu máy bay B26, mũi thứ hai đánh vào khu máy bay trinh sát vận tải. Đúng giờ G, cả sân bay như chìm trong bão lửa, tiếng bộc phá, lựu đạn, tiếng đạn nổ hỗn loạn, máy bay địch cháy đỏ góc trời. Bọn địch sau cú choáng váng đã chống trả quyết liệt. Nhưng chúng không có cách nào dập tắt được cơn bão lửa đang tràn ngập toàn bộ sân bay! Hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị đã rút ra ngoài an toàn.

Đây là một trận đánh chuẩn bị rất khó khăn nhưng cũng rất công phu, kỹ lưỡng, đảm bảo bí mật. Một trận đánh lớn nhất, tiêu diệt nhiều máy bay nhất, 56 chiếc chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trận đánh đã phối hợp kịp thời, hiệu quả đối với chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: Chiến thắng trong trận đánh sân bay Cát Bi có ý nghĩa nhất đối với chiến dịch Điện Biên Phủ. Một “cầu hàng không” chủ yếu của Pháp đã bị cắt, tạo điều kiện để dân công, quân đội vào Điện Biên Phủ, giảm tối đa sự chi viện của Pháp cho căn cứ chiến lược này.

Có thể nói đây là trận đánh có ý nghĩa mở đầu, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm xây dựng lực lượng, nghiên cứu trang bị vũ khí, tìm ra cách đánh cho lực lượng đặc công, biệt động sau này. Lúc đó, 32 người đánh một sân bay, sau này ở miền Nam ta chỉ cần 1 tiểu đội. Lúc đó bình quân 2 kg thuốc nổ đánh một máy bay, sau này ta chỉ cần 200g. Và một bài học thành công rất cơ bản đó là lòng dân. Phải xây dựng đựợc cơ sở trong nhân dân làm bàn đạp để trinh sát và ém quân khi tấn công.

Đoàn chiến đấu đánh sân bay Cát Bi được nhận thư khen của Bác Hồ: Bác chúc mừng chiến công của cán bộ, nhân dân Kiến An. Bác tặng đoàn đánh Cát Bi danh hiệu “Dũng sỹ Cát Bi”. Toàn đoàn được thưởng 4 Huân chương Quân công và 28 Huân chương Chiến công.

Bản thân tôi đựơc tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được đơn vị  bình bầu là “Dũng sỹ số 1”của trận đánh, là người đã tổ chức và triển khai thực hiện xây dựng cơ sở, tạo điều kiện cho các lực lượng chiến đấu thắng lợi. Tôi còn được đồng chí Tỉnh đội trưởng tặng khẩu cạc bin, được đi dự Đại hội thanh niên dân chủ thế giới. Bài học tôi ghi nhớ: Dù tài giỏi, dũng khí đến đâu mà không có dân thì cũng khó giành thắng lợi.

… Tôi say sưa với câu chuyện của người dũng sĩ Mai Năng. Anh còn kể tôi nghe về mối tình với cô du kích vùng Tiên Lãng. Người con gái đồng bằng, mặc áo nâu non, thắt khăn mỏ quạ, bắn súng trường rất tài ấy đã phải lòng anh bộ đội trinh sát đẹp trai, hiền lành, hơn mình 6 tuổi. Anh bộ đội trinh sát gan dạ ấy cũng yêu đến si mê cô du kích đồng bằng xinh xắn, nết na. Tình yêu của họ bền chặt dần lên trong những tháng ngày chống Pháp gian khổ. Và trước hôm người tổ trưởng trinh sát Mai Năng dẫn bộ đội vào tấn công sân bay Cát Bi 3 ngày, họ đã làm đám cưới. Năm trong sáu người con của họ nối nghiệp cha, trở thành những cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Tôi còn được biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thiếu tướng Mai Năng là một trong những cán bộ đặc công nước đầu tiên, tham gia chiến đấu và chỉ huy nhiều trận đánh vang dội của đặc công nước, phá huỷ trên 3.000 tàu, thuyền của Mỹ. Đoàn 126 mà Thiếu tướng là Phó đoàn đã 2 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đội 1 đặc công nước mà Thiếu tướng Mai Năng từng là đội trưởng đã 3 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thiếu tướng Mai Năng cũng đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.       

Lã Quý Hưng (ghi chép)

(http://xaydungdang.org.vn/Home/Dang-vien-phan-dau-tot/2010/3194/Thieu-tuong-dac-cong-ke-chuyen-danh-san-bay-Cat-Bi.aspx)

Tuesday 11 August 2020

Văn nghệ Thứ Bảy : một nhà văn thuộc Hội Nhà văn Tp.Hồ Chí Minh khiếu nại Hội Nhà văn Việt Nam (Giaovn)

Nguồn : https://giaovn.blogspot.com/2014/12/mot-nha-van-thuoc-hoi-nha-van-tpho-chi.html

Văn nghệ Thứ Bảy : một nhà văn thuộc Hội Nhà văn Tp.Hồ Chí Minh khiếu nại Hội Nhà văn Việt Nam

Thuần túy lưu tư liệu, để có thể mường tượng cụ thể về văn học Việt Nam đương đại

Mường tượng đơn giản thì Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay có những gương mặt như: nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Trần Mạnh Hảo (những người kì cựu hiện tại), tác giả của bộ Đại gia là Thiên Sơn và nhà thơ Hoàng Quang Thuận (hai người này cùng vào hội một năm, năm 2011, đọc lại ở đây).

Còn Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh thì có những tác giả thấy trên tuần báo Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh (xem lại ở đây).

Một nhà văn của Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh vừa khiếu nại Hội Nhà văn Việt Nam. Lá đơn khiếu nại này bao hàm nhiều ý nghĩa đương đại, nên lưu về đây.

Từ đây trở xuống là chép nguyên xi từ blog Đông La (người vừa gửi đơn).

---
THỨ BẢY, NGÀY 27 THÁNG 12 NĂM 2014
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
-- 0 --

ĐƠN KHIẾU NẠI
(Về việc xét đơn xin vào Hội Nhà Văn Việt Nam)

Kính gởi:    
-Nhà thơ HỮU THỈNH, Chủ tịch LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM.
                   -ĐOÀN CHỦ TỊCH LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM.
Đồng kính gởi các vị có trọng trách về lĩnh vực Chính trị, Tư tưởng, Văn hóa, Nghệ thuật:
                   -Ông ĐINH THẾ HUYNH, Ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCSVN, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.
                   -Ông VŨ ĐỨC ĐAM, Ủy viên BCH Trung ương ĐCSVN, Phó Thủ tướng phụ trách khối văn hóa xã hội, khoa học, giáo dục.

Tôi tên là Nguyễn Văn Hùng, bút danh Đông La, sinh sống tại TP HCM, là nhà văn thuộc Hội Nhà Văn TPHCM.
Tôi làm đơn này khiếu nại một việc rất nhỏ là việc Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam quá bán bỏ phiếu phủ quyết đơn xin vào Hội Nhà Văn Việt Nam của tôi nhưng nó lại là một dấu hiệu chỉ ra một thực trạng rất lớn, rất nguy hiểm liên quan đến vấn đề Chính trị Tư tưởng và Văn chương Nghệ thuật ở nước ta.
Vừa rồi tôi được một nhà văn trong Ban Chấp hành Hội Nhà Văn VN khuyên làm đơn xin vào Hội Nhà Văn Việt Nam. Tự thấy mình đủ tiêu chuẩn nên tôi đã đồng ý.
Cụ thể từ một người lính, sau khi tham gia Chiến dịch HCM 1975, hòa bình về tôi đi học rồi trở thành một cán bộ nghiên cứu hóa dược. Năng khiếu văn chương của tôi đã được Nhà thơ Anh Thơ phát hiện, rồi bà giới thiệu tôi với Nhà thơ lớn Chế Lan Viên. Khi đọc chùm thơ đầu tay của tôi, Chế Lan Viên đã đề nghị trao giải thơ cho tôi trong cuộc thi năm 1986 của Hội Nhà Văn TPHCM, rồi ông còn trực tiếp đứng tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà Văn TPHCM. Sau đó tôi viết nhiều, cả văn, thơ và phê bình, tác phẩm được đăng hầu hết trên các báo, tạp chí văn nghệ lớn trong cả nước. Hai năm liên tiếp, 1997, 1998, tôi đã tặng thưởng hàng năm về phê bình và thơ của Tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Tôi đã xuất bản 5 cuốn sách và nhiều bản thảo chưa in. Cụ thể về phê bình, năm 2001, tôi đã xuất bản cuốn Biên độ của trí tưởng tượng tại NXB Văn Học, được báo Nhân Dân giới thiệu qua bài viết của PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN, hiện là Viện phó, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học: “Biên độ của trí tưởng tượng... đã tạo được sự quan tâm của dư luận và thật sự có đóng góp cho đời sống văn học đương đại  (BáoNhân Dânsố 17030, 6-3-2002). Gần đây trước thực trạng giới tri thức trong đó có nhiều nhà văn có sự phân hóa mạnh về chính trị tư tưởng, họ nhân danh phản biện, đấu tranh cho dân chủ tiến bộ, nhưng họ lại thể hiện bằng những quan điểm lộn ngược cả hệ giá trị, kể cả lịch sử, đòi thay đổi chế độ, thay đổi hiến pháp, tước bỏ quyền lãnh đạo của ĐCS. Hành động của họ thực chất là sự cơ hội, trở cờ. Tôi đã viết nhiều, phản bác tất cả những sự sai trái đó, năm 2013, một phần các bài viết đã được in thành cuốn Bóng tối của ánh sáng. Từ khi còn là bản thảo, do bạn bè thấy có giá trị liên quan đến những vấn đề lớn về lý luận nên họ đã chuyển đến các cá nhân và cơ quan có trọng trách. Bản thảo đã được các chuyên gia xem xét kỹ lưỡng rồi được cơ quan nhà nước xuất bản. Ông Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình VHNT Trung ương đánh giá cao cuốn sách, ông nói ông thích nhất bài Các Mác-một tình yêu bao la. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng gọi điện cho tôi: “Những bài viết của em có sức mạnh như những sư đoàn”. Bà Thân Thị Thư, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành ủy TPHCM một lần gặp tôi cũng nói: “Em cảm ơn anh vì các bài viết của anh trên Báo VN TPHCM mà em được cấp trên khen đấy!” Năm 2013, cuốn Bóng tối của ánh sáng đã được LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM trao giải thưởng.
Về nhân thân tôi cũng chưa có bất kỳ sự vi phạm pháp luật nào. Theo quy định việc xin vào Hội Nhà văn VN phải có hai người giới thiệu, người thứ nhất, GS Mai Quốc Liên đã viết lời giới thiệu tôi là “một nhà phê bình hiếm có”. Còn người thứ hai là GS Trần Thanh Đạm. Khi tôi cảm ơn ông thì ông nói: “Tôi cũng phải cảm ơn anh vì tôi rất vinh dự được giới thiệu người như anh vào Hội”.
Như vậy, về tài đức, về thành quả văn chương, tôi hoàn toàn xứng đáng được vào Hội Nhà Văn VN.
Vì vậy việc BCH Hội Nhà Văn VN quá bán loại tôi là không công minh, cần phải được xem xét lại. Nghe nói những người loại tôi đã lấy cớ tôi là cực đoan, có thái độ không tốt khi phê phán người khác. Tôi hoàn toàn phản đối điều này, vì cực đoan là một sự sai trái, trong khi tất cả các bài tôi phê phán người khác đều nêu đích danh, họ sai về cái gì và sai như thế nào, tôi còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nên không thể tùy tiện vu khống, xúc phạm danh dự người khác. Ngoài những ý kiến lẻ tẻ và sự “ném đá” của những kẻ xấu, chưa có một bài viết và văn bản chính thức nào chứng minh được tôi là người cực đoan. Còn việc tôi tỏ thái độ trước những hành động và thái độ sai trái thì không thể là thái độ sai trái, cũng như tòa tuyên án một người phạm tội không thể là xấu vậy! Trên blog, tôi đã để câu nói của Einstein như là tấm gương để noi theo: “The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them without doing anything” (Thế giới sẽ không bị phá hủy bởi những kẻ làm điều ác, nhưng bởi những người thấy chúng mà không hành động gì cả). Vì vậy, chính thái độ dĩ hòa vi quý, mười rằm cũng ừ, mười tư cũng gật, vô cảm, tránh né những hành động và thái độ sai trái để lấy lòng nhau, dẫn đến tình trạng trắng đen lẫn lộn, thiện ác bất minh, mới chính là thái độ sai trái. Chính Hội Nhà Văn VN có tình trạng như vậy, bởi hiện có rất nhiều Hội viên Hội Nhà văn VN có thái độ và bài viết sai trái, có người đã bị bắt, nhưng hầu như trong Hội Nhà văn không ai lên tiếng phê phán, ngược lại, lại có nhiều người đồng tình với sự sai trái ấy. Như ông Trung Trung Đỉnh, một đương kim Ủy viên BCH Hội Nhà văn VN, luôn ca ngợi Nguyên Ngọc, người đang trên tuyến đầu chống đối, còn định thành lập “Văn đàn độc lập”. Văn Công Hùng, một Ủy viên BCH khác của Hội Nhà Văn VN cũng ca ngợi Nguyễn Quang Lập, một nhà văn mới bị bắt và đã nhận tội, là: “Ở nước Nam này, nếu hỏi ai viết nhiều, làm việc nhiều, lao động nghiêm túc, tôi không ngần ngại trả lời: Nguyễn Quang Lập”.
Vì vậy, những cá nhân trong BCH Hội Nhà văn như ông Trung Trung Đỉnh, Văn Công Hùng lấy cớ tôi cực đoan để loại tôi là một hành động sai trái, bất minh, hoàn toàn chỉ vì nhận thức cảm tính chủ quan và cảm tình cá nhân.
Việc bỏ phiếu thể hiện sự dân chủ, nhưng nếu hiểu triết học, sự bỏ phiếu của BCH Hội Nhà Văn như trên là không tuân theo Nguyên lý “Tập trung dân chủ” của Chủ nghĩa Mác-Lê nin. Theo tiếng Nga, Nguyên lý Tập trung dân chủ viết là Демократический централизм. Vậy Dân chủ là tính từ bổ nghĩa cho Tập trung, nếu dịch cho chính xác phải là: Nguyên lý tập trung có tính dân chủ. Vì vậy cái chính là tập trung, là mục đích, dân chủ là phương thức để hướng đến cái chung ấy một cách tốt nhất, đúng đắn nhất, tránh sự độc đoán sai trái. Bỏ phiếu dân chủ là để bầu ra người xứng đáng chứ không phải là sự cấu kết để loại người xứng đáng như việc bỏ phiếu loại tôi của nhóm đa số trong BCH Hội Nhà Văn VN!
Ngược lại, Hội Nhà Văn Hà Nội từng bỏ phiếu bầu Phạm Xuân Nguyên làm chủ tịch lại là việc bầu ra người không xứng đáng. Hội Nhà Văn Hà Nội là một tổ chức thuộc nhà nước nhưngPhạm Xuân Nguyên là người luôn phản đối nhà nước thực thi pháp luật, như từng lên tiếng ủng hộ những người phạm pháp và sai trái, từ lê Công Định, Phương Uyên đến Nhã Thuyên và hôm nay là Nguyễn Quang Lập; Phạm Xuân Nguyên cũng từng cho trong cuộc kháng chiến của ta là “những người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau”. Vậy việc bỏ phiếu của Hội Nhà Văn Hà Nội bầu Phạm Xuân Nguyên là thứ dân chủ chống đối, dân chủ lộn ngược, không phải là dân chủ theo đúng Nguyên lý Tập trung Dân chủ của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Cũng theo Nguyên lý Tập trung Dân chủ, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cấp trên phải giám sát những việc làm quan trọng của cấp dưới, những người không đủ tiêu chuẩn như Phạm Xuân Nguyên lẽ ra phải bị loại ngay trong danh sách ứng cử, như vậy thì làm sao có được cái kết quả dân chủ lộn ngược trên?
Tiếc là không chỉ có ở Hội Nhà Văn Hà Nội mà nhiều lĩnh vực trong xã hội cũng đã có những vụ bầu bán sai Nguyên lý Tập trung Dân chủ. Ngay ở Hội Nhà Văn VN cũng đã có những dấu hiệu lớp kế cận Nhà thơ Hữu Thỉnh đang ráo riết xây dựng lực lượng để giành quyền theo hình mẫu bầu bán của Hội Nhà Văn Hà Nội. Việc bỏ phiếu loại tôi như là một sự tập dượt của họ. Nếu họ thành công, lúc đó văn chương sẽ không “dĩ tải đạo” như lời dạy của cha ông nữa mà là tải tà đạo, Hội Nhà Văn sẽ là tập đoàn cứ điểm làm nguy cơ tồn vong của chế độ, theo lời TBT Nguyễn Phú Trọng, thêm nguy cơ hơn. Mà khi quyền lực tối cao rơi vào tay kẻ tham, kẻ dốt, kẻ ác, kẻ xấu thì đích đến của nước ta sẽ là Irắc, Lybi, Pakistan, Apganixtan chứ không phải là Bắc Âu, là Anh Pháp Mỹ, là Đức Ý Nhật đâu! Nên trong tình trạng bất ổn này, Hội Nhà Văn VN cũng cần ổn định như xã hội cần ổn định vậy, vẫn cần đến thế hệ Nhà thơ Hữu Thỉnh nắm trọng trách, có những sai trái yếu kém thì phải sửa, nếu không Hội Nhà Văn sẽ là mảnh đất gieo mầm và nuôi dưỡng sự phản loạn. Dương Thu Hương, Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, v.v… đã là như thế. Vì sai trái, chỉ bằng chữ nghĩa, họ đã không làm gì được, nhưng khi quyền lực rơi vào tay những người tiếp bước họ, như những kẻ xấu hiện có trong BCH Hội Nhà Văn VN thì sẽ rất nguy hiểm! Nên theo đúng Nguyên lý Tập trung Dân chủ, Hội Nhà Văn VN là hội của nhà nước thì phải vì dân vì nước, nhà nước phải giám sát việc ứng cử, bầu cử kỳ tới, cần loại ngay những kẻ cơ hội, kẻ xấu ứng cử.
Tóm lại, việc Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam vừa quá bán bỏ phiếu phủ quyết đơn xin vào Hội Nhà Văn Việt Nam của tôi, không căn cứ vào tài, đức, thành quả văn chương của tôi, chỉ dựa vào thành kiến sai trái, cảm tính chủ quan, cảm tình cá nhân, đã vi phạm Nguyên lý Tập trung Dân chủ, là kết quả sai trái, không công minh và công tâm!
Cũng theo Nguyên lý Tập trung Dân chủ, cấp dưới phải phục tùng cấp trên và theo luật Khiếu nại Tố cáo, tôi làm đơn này gởi đến cấp trên trực tiếp của Hội Nhà Văn VN là LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM và các vị có trọng trách trong cơ quan Đảng và Chính phủ liên quan đến lĩnh vực Chính trị Tư tưởng và Văn học Nghệ thuậtđề nghị xem xét và thay đổi kết quả việc bỏ phiếu sai trái trên. Cần ngăn chặn khuynh hướng kết bè kéo cánh, vì danh lợi cá nhân, lợi dụng dân chủ lái các cuộc bầu bán đến những kết quả lộn ngược. Nếu các giá trị bị lộn ngược thì đất nước sẽ loạn.
Rất mong được quan tâm xem xét, tôi xin cảm ơn!

TPHCM ngày 27 tháng 12 năm 2014
NGƯỜI LÀM ĐƠN
ĐÔNG LA
NGUYỄN VĂN HÙNG
           (Đã ký)

          Đơn này cũng được gở đến những người liên quan:
          -Nguyễn Trí Huân, Phó Chủ tịch HNVVN
          -Lê Quang Trang, PCT HNVVN.

          -Nguyễn Quang Thiều, PCT HNVVN

Monday 10 August 2020

Tại sao sinh viên Võ Bị Đà Lạt được gọi là cùi ?


Ông Huỳnh Bửu Sơn kể lại giai thoại sau:

Văn hóa vụ trưởng đầu tiên là cụ Ðỗ Trí Lễ, cựu Giám đốc Học chính tại Hà nội. Sau khi cụ Ðỗ Trí Lễ về hưu, Trung tá Trần Ngọc Huyến được bổ nhiệm về trường thay thế. Chữ "CÙI" xuất phát từ lúc khóa 16 còn tại trường và Trung tá Huyến giữ chức vụ Chỉ huy trưởng kiêm Văn hóa vụ trưởng của trường. 

Mặc dù là Chỉ huy trưởng nhưng ông thường trực tiếp lên lớp với khóa 16 với tư cách một giáo sư văn hóa giảng dạy môn "Huấn luyện Tinh thần". Có lẽ vì chương trình bốn năm dài đằng đẵng, phần đông sinh viên đã ngán văn hóa, nhưng khi vào trường lại gặp phải văn hóa nên sinh ra ù lì, biếng học. Thái độ tiêu cực của một số sinh viên sĩ quan trong các giờ "học về tinh thần" làm vị giáo sư này nổi giận. Ông áp dụng kỷ luật, rầy la nhưng thấy cũng không có hiệu quả mấy. Ông đổi ra phương cách khích động tinh thần. Ông đã để ra hàng giờ lý luận với sinh viên sĩ quan phương trình A phải bằng A, thuyết phục sinh viên sĩ quan là phải chấp nhận khi vào trường là phải học hành đến nơi đến chốn chứ không được lạng quạng

 

Càng cố gắng, ông giáo sư này càng gặp bực mình. Một hôm nọ, sau khi sinh viên sĩ quan ra khỏi lớp, còn lại mình ông và tôi, ông cằn nhằn:  

"Tụi sinh viên của "toi" bê bối quá. Cùi hủi gì đâu! Chỉ có cùi mới không sợ ghẻ lở. "Moi" phải gọi tụi nó bằng cùi mới được." 

Ông vừa nói xong thì lớp khác vào học, ông bèn gọi sinh viên sĩ quan là cùi luôn. Ông dùng chữ CÙI như để "mắng yêu" sinh viên sĩ quan. Có một vị giáo sư nào mà không thương yêu học trò? Ðối với sinh viên sĩ quan, Trung tá Huyến là người "giơ cao đánh khẽ". 

(http://www.dinhsong.net/DS/WebsiteAoSauVuon.aspx)

Ông Mai Trung Ngọc, một cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, giải thích:

Các SVSQ K14, 15, 16, 17, 18 được Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Huyến gọi là "Cùi", chúng tôi cũng tự gọi nhau là "Cùi". Có lần người viết hỏi ông "Cùi" có nghĩa là gì, thì ông nói "Cùi nghĩa là Cùi chứ còn gì nữa", nhưng tất cả đều hiểu rằng ông muốn các học trò của ông đừng bao giờ tự mãn, tự thị hãy học thêm để phục vụ những việc tốt đẹp. Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Huyến nay đã tạ thế, tôi viết các dòng trên như để tưởng niệm 1 bậc Thày

(http://k16vbqgvn.org/butky-lytuongTVBQGVN-MTN.htm)

Tôi nghi ông Huyến chơi chữ. Tiếng Pháp lépreux (cùi) đồng âm với les preux (những chàng dũng sĩ).