Thursday 25 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Mộng đẹp không thành (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 19

 

MỘNG ĐẸP KHÔNG THÀNH.

          Nhà ông Trần Hạnh Lâm ở Hội Kê, sát liền cạnh nhà tôi, là nơi đón tiếp một gia đình bà con ở thành phố Namđịnh đến tản cư ở đó. Ông Lâm là một cựu công chức của sở Hỏa xa Hànội, về nghỉ dưỡng bệnh ờ quê nhà. Ông hơn tôi đến 10 tuổi, tính tình rất phóng khoáng, nên đã coi tôi là bạn vong niên và giao du rất thân mật. Ông đã giới thiệu tôi với con gái người bà con tản cư của ông (bà Hanh) tên là cô Liên Thành. Cô này cùng trạc tuổi với tôi, một thiếu nữ dễ thương và là dân thành phố. Chúng tôi quen nhau dễ dàng, và chỉ ít ngày sau đã có quan hệ tình cảm với nhau khá sâu đậm. Nhân thế ông Lâm gợi ý là tôi nên tính đến việc xây dựng tổ ấm với cô Thành. Tôi vui vẻ đón nhận ý kiến của ông Lâm và đã phác họa ra, mơ tưởng đến cái cảnh nên thơ và lãng mạn của tuổi trẻ ngày xưa « Một túp lều tranh, hai trái tim vàng ». Sau đó, tôi đã hý hửng trình bày việc này với cha tôi, hy vọng là cha tôi sẽ đồng ý và  giúp  đỡ. Không ngờ cha tôi đã nghiêm nghị trả lời : « Mày vừa mới lớn, chưa kịp học hành và chưa có nghề ngỗng gì mà đã nghĩ đến chuyện vợ con là thế nào ? Rồi làm gì mà sống đây ? Sẽ sống bằng cái gì ? Không lẽ « ăn đất » mà sống à ? » Tôi mắc cỡ với cha tôi, bị khớp và hoàn toàn cụt hứng. Từ đó, tôi không còn dám nghĩ và nhắc đến việc này nữa. Tôi cũng đã buồn bã mất mấy ngày, quên ăn mất ngủ, nhưng rồi việc ấy cũng nguôi ngoai dần.

          Bỗng nhiên, một buổi sáng sớm có tiếng la ơi ới : « Anh em ơi ! Tây lên ! Tây lên ! Tây đã đổ bộ lên làng mình để càn quét rồi đấy ! Chạy đi ! Chạy mau đi ! » Tôi cùng nhiều người khác, chẳng còn biết làm gì ngoài việc chạy trốn cho lẹ ! Tôi chạy sang làng bên (Gia Lạc), được một lát thấy mệt quá, bèn nghĩ cách lội xuống ao một nhà gần đó bên đường, giấu mình núp trong một bụi cây sát bờ, ngụy trang sau một đám bèo Nhật Bản thật kín đáo, rồi chờ cho bọn Tây đi qua. Lúc bọn Tây đi qua, tôi được thấy rõ đủ cả, nào lính Lê dương (bọn lính chuyên đi đánh thuê ở Âu châu), nào lính thuộc địa Phi châu (tụi Maroc và Sénégal đen xì, rạch mặt) đi trên đường. Đang đi, tự nhiên chúng dừng lại. Tôi hết hồn, phen này chắc là chết rồi. Thì ra có một con bê mà chủ nó chưa kịp đắt đi chạy loạn, còn nằm đó. Chúng sắp sửa dắt con bê này đi để mang về làm chiến lợi phẩm. Nhưng rồi chúng thấy rằng đây là một con bê cái, có thể thay cho một phụ nữ nào đó mà chúng chưa tìm bắt được chăng ? Thế là mấy thằng trong bọn, thi nhau lần lượt hiếp con bê này một cách rất tự nhiên, man rợ, còn cười nói ồn ào nữa ! Tôi đã không ngờ, được chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này, một hình ảnh quái dị và tồi tệ nhất của thời chiến, hết chỗ nói. Sau đó, chúng lại đi tiếp, không quên dắt con bê đi theo ! Tôi thoát nạn rồi trở về nhà an toàn. Thật là hú vía !

          Thời gian này,  thực dân Pháp lại mở rộng mặt trận bên Namđịnh thêm ra vài cây số, đồng thời lập thêm một đồn bốt mới trên sát bờ sông, chỗ bến đò Hữu Bị, tức bốt Hữu Bị ngay Ngã Ba Tuần Vường ngày xưa, đối diện với nhà ngoài, chỗ tôi ở bên này sông. Ngồi đọc sách ở nhà, qua cửa sổ, tôi thấy rõ ràng từng tên lính đi lại trong sân đồn. Đồn binh này khá lớn, có lẽ đến hơn một trăm lính (phỏng đoán vậy mà thôi). Suốt ngày bọn chúng thỉnh thoảng lại bắn thị uy vu vơ sang bên này sông. Tiếng đạn nghe « tắc bọp » dễ sợ, vì đạn nổ hai lần, một lần nổ khi đạn ra khỏi nòng súng và một lần nổ nữa khi đã hết đà hoặc khi tới đích. Người ta gọi loại  đạn này là đạn « đum đum ». Một lần giữa ban ngày, chúng lại cao hứng nã một trái « moóc chê » sang qua sông, rơi trúng ngay vào nơi một người đang cày ruộng là ông Phó Thôn ở Phú Hậu. Cả người và bò đều chết ngay tại chỗ, giữa cánh đồng. Sau vụ này, dân Tam Tỉnh hoảng sợ, thấy cần phải đi tản cư tị nạn ở nơi khác.

Wednesday 24 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Cách Mạng Tháng Tám (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 18

 

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.

Tình hình xã Quần Hiền đang được dần dần cải thiện, thì bỗng nhiên ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc Cách Mạng tháng Tám bùng nổ. Thế là xã Quần Hiền, vừa mới được thành lập sau ngày Nhật đảo chính  Pháp được nửa năm, thì nay lại trải qua một cuộc đổi mới nữa. Nhà Nuớc Cách mạng đã sáp nhập làng Thượng Hộ cũ và xã Quần Hiền mới, thành một liên xã duy nhất gọi là TAM TỈNH. Tên gọi Tam Tỉnh này, cũng vẩn lại do Cụ Giáo Tứ Hội Kê đề nghị và được mọi người thông qua. Ông Nguyễn Hữu Trọng, con trưởng Cụ Giáo Tứ đã đưọc bầu làm Chủ tịch đầu tiên của xã Tam Tỉnh này. Vùng đất Thượng Hộ, Quần Hiền vốn thuộc huyện Duyên Hà, nhưng là đất ngoại đê (ngoài đê quan) và cách xa huyện lỵ, nên Nhà nước đưa sang nhập vào huyện bên cạnh là huyện Thư Trì để đi lại cho thuận tiện hơn. Như vậy Tam Tỉnh là một xã mới của huyện Thư Trì. Hai chữ Tam Tỉnh thường được hiểu như sau : Tam Tỉnh là một xã ở giữa ranh giới ba tỉnh Namđịnh, Hà Nam ở hữu ngạn, và Thái Bình ở đối diện bên tả ngạn sông Hồng. Đó chỉ là nghĩa thông thường, có tính cách đại chúng. Có người nói rằng ở đây, một con gà gáy, dân cả ba tỉnh đều nghe tiếng. Quả là đúng như vậy. Thực ra, Tam Tỉnh còn có một ý nghĩa nữa cao xa hơn, dựa trên hai chữ Tam Tỉnh trong câu nói của Tăng Tử[1]  - một cao đệ của Khổng Tử - là  : « Ngô nhật tam tỉnh ngô thân : - Vi nhân mưu nhi bất trung hồ - Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ - Truyền bất tập hồ », nghĩa là : « Ta, mỗi ngày xét lại bản thân[2]  về ba điều  sau đây :

1.- Mưu tính giúp cho một người, hay cùng làm một việc với người nào đó, đã thật hết lòng chưa ?

2. Cùng với bạn bè giao du có giữ được chữ TÍN chăng ? Bạn bè có tin tưởng mình không ? Mình có giả dối với bạn bè không ?

3. Những lời Thày truyền dạy có học tập, ôn luyện chăng ?

          Xã Tam Tỉnh thành lập chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra. Việt Nam là một trong ba nước, cùng với Ai Lao (Lào) và Cao Miên (Kampuchia) thuộc Đông Dương, cũng còn gọi là Đông Pháp, trước đây là thuộc địa của Pháp. Lúc này, thực dân Pháp lại điên rồ, tìm đủ cách để tái chiếm lại thuộc địa cũ của chúng. Toàn dân Việt Nam đã đứng lên kháng chiến, trẻ già,  trai gái đều theo lời kêu gọi của Cụ Hồ, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cách mạng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mọi người đều quyết tâm thà chết chứ không chịu để mất một tấc đất của tổ tiên và làm nô lệ cho thực dân Pháp một lần nữa.  Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lăng đã dần dần lan rộng ra toàn quốc và kéo dài. Một số dân thành phố Namđịnh đã lục tục chạy sang Thái Bình, đến tản cư tại xã Tam Tỉnh.


[1] Tăng Tử tức Tăng Sâm, con của Tăng Tích. Hai cha con đều là học trò giỏi của Khổng Tử. Tăng Sâm thờ cha mẹ rất có hiếu, lại là người không ham thích danh lợi, nhà rất nghèo, chỉ làm thuê để kiếm ăn, mà dốc lòng học đạo thánh hiền. Ông là người đã học được những điều tâm truyền của Khổng Tử, rồi truyền lại cho cháu nội của Ngài là Tử Tư, người đã đưa ra thuyết TRUNG DUNG mà chúng ta đang tìm hiểu ngày nay.

[2] Mỗi ngày xét lại bản thân là cách tu luyện đem lại kết quả rất tốt, tránh được lỗi lầm, mau chóng sửa đổi, hoàn thiện bản thân. Không những ông tự xét về cách đối xử với bạn bè, giao thiệp với mọi người, mà còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề học vấn.

 

Tuesday 23 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Bánh đúc Bảo An (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 17

 

BÁNH ĐÚC BẢO AN.

          Trong thời gian này, làng Hội Kê lập ra Hội Bảo An, để phụ giúp việc bảo đảm an ninh trong làng cho Ủy ban mới còn non trẻ của xã Quần Hiền. Theo quy chế, những thanh niên trong làng, từ 18 tuổi trở lên được vào hội với tinh thần thiện nguyện. Lúc đó (năm 1946), tôi chưa đủ tuổi để gia nhập, vì tôi sinh năm 1930, nhưng có lẽ vì vóc dáng tôi lúc đó đã có vẻ là một thanh niên rồi. Vả lại, hội trưởng Hội Bảo An lại là ông Nguyễn Hữu Hưởng (tức ông Chánh Hưởng, trưởng tộc họ NGUYỄN HỮU như đã nói ở phần trên) đã đặc biệt cho tôi được gia nhập hội. Nhiệm vụ của các hội viên Hội Bảo An là hằng đêm phải đi tuần hành ngoài cánh đồng để trông coi giữ gìn hoa màu và an ninh cho dân làng.) Tôi được phân công phụ trách cùng một tổ 3 người, với các ông Nguyễn Hữu Tạo và Nguyễn Hữu Quán. Hằng đêm phải đến trụ sở Hội để nhận chỉ thị đi trông coi vùng nào, từ 9 giờ tối đến 4 giờ sáng hôm sau thì hết nhiệm vụ ngày hôm đó. Cứ mỗi lần xong nhiệm vụ thì lại trở về qua trụ sở Hội (mượn nhà riêng của ông Tạo)  để được lãnh một miếng bánh đúc to bằng mức một người ăn vừa đủ. Đây chỉ là một thứ bánh đúc chay, nghĩa là chỉ có gạo và nước nấu chín như nấu cháo, đến độ sền sệt thì đổ ra mâm cắt thành miếng. Ngoài gạo và nước ra, chẳng có nhân nhị gì hết. Hồi đó, miếng bánh đúc này có một giá trị đang kể, vì nó có thể cứu sống được một người đói trong lúc đang cần ăn. Riêng tôi, cũng như một số anh em trong Hội, tuy đang là lúc « gạo châu củi quế » hạt gạo quý như vàng, nhưng gia đình cũng vẫn còn đủ sức cầm cự lâu dài, chưa đến nỗi phải rơi vào tình trạng thiếu đói trầm trọng. Thực ra, lúc đầu tôi cũng đã bị hấp dẫn bởi miếng bánh đúc này, mặc dầu nó chẳng phải là Bánh đúc TÔ CHÂU hay QUẢNG ĐÔNG gì cả , nhưng đó là quyền lợi sau mỗi đêm phục vụ của một hội viên, như là một thứ thù lao hay phần thưởng tinh thần !

          Tại sao lại có vấn đề thưởng bánh đúc cho các hội viên của Hội Bảo An như thế ? Vấn đề là như sau : Hồi Việt Nam còn thuộc Pháp, người Pháp đã lập ra Viện Dân biểu Bắc Kỳ, để người Việt Nam làm dân biểu đại diện cho dân VN, cho có vẻ dân chủ. Ở huyện Duyên Hà, Thái Bình, tại làng NẤP gần huyện lỵ, có hai anh em ông Nghị Hoành và Phán Sánh là hai nhân vật TƯ SẢN LỚN trong vùng. Hai ông muốn ứng cử vào Viện Dân biểu Bắc kỳ, và các cử tri đi bầu thời đó phải có đủ điều kiện về văn hóa đủ trình độ từ văn bằng CƠ THỦY (tức là bằng Certificat của Pháp) trở lên mới được ghi danh làm cử tri. Ở Thái Bình, có tổng chẳng có một người nào đủ điều kiện, nhưng ở tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà, riêng tộc  NGUYỄN HỮU làng Hội Kê đã có tới 10 người đạt tiêu chuẩn trên, đủ điều kiện để ghi danh làm cử tri[1]. Hai ông HOÀNH và SÁNH, sau khi đánh hơi biết được việc trên đã tự động tìm đến Hội Kê để gặp cha tôi lúc đó đang là Tiên Chỉ của làng, và cũng là Trưởng thượng của tộc họ NGUYỄN HỮU, điều đình để giúp các ông đắc cử vào Viện Dân biểu Bắc kỳ. Kết quả, các ông đã được toại nguyện. Thế là, đến khi có Hội Bảo An Hội Kê, Quần Hiền, hai ông này đã nghĩ đến việc đền ơn đáp nghĩa khi xưa, bằng cách gửi tặng Hội Bảo An Hội Kê 300kg gạo, tức là 3 tạ lương thực. Ba tạ gạo hồi đó, đang lúc lương thực khan hiếm, thiếu hụt là cả một vấn đề to tát. Ông Hội trưởng Hội Bảo An liền quyết định lấy số gạo đó nấu bánh đúc và phân phối theo cách trên để tất cả các hội viên đều được hưởng đồng đều một cách công bằng. Một lần ông Tạo, ông Quán và tôi xong nhiệm vụ về, được lãnh ba phần bánh đúc. Ông Tạo cũng nhận, nhưng sau đó tặng cho ông Quán  và tôi phần của ông, vì nhà ông là nơi sản xuất ra bánh đúc này, hôm đó cũng đã có bánh đúc rồi. Tôi và ông Quán, về nhà ông Quán ăn xong hai phần của mình, còn lại phần của ông Tạo cho, ông Quán lại nhường cho tôi mang về nhà ngoài. Tôi đã mang về biếu lại mẹ tôi để dùng cho vui. Thoạt đầu, bà có vẻ ngạc nhiên, nhưng sau khi hiểu được ý của tôi, bà cũng đã vui vẻ ăn ngay lúc đó.



[1] Lúc đó, xã Quần Hiền vẫn còn thuộc Duyên Hà, chưa thuộc về Thư Trì.