Monday 13 December 2021

Vạch trần “những con cờ đen”: Bắt tên nội gián Nguyễn Thúc Tuân (Khổng Hà - Công An Nhân Dân)

 

Vạch trần “những con cờ đen”: Bắt tên nội gián Nguyễn Thúc Tuân

14:15 28/08/2015
Từ kết quả phong trào quần chúng Bảo vệ an ninh Tổ quốc, đầu năm 1977, Công an Bình Trị Thiên nhận được một số thông tin về hoạt động mờ ám của một cán bộ đầu ngành trong tỉnh - một người từng hoạt động Cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V, trở thành kẻ đầu hàng, phản bội, làm tay sai cho địch. Đó là Nguyễn Thúc Tuân (từ đây gọi tắt là T.), vào thời điểm đó đang giữ chức vụ Trưởng ty Thể dục Thể thao, đại biểu Quốc hội khóa IV.

Khẩn trương khai thác hồ sơ địch để lại và số đối tượng bị bắt kết hợp với công tác trinh sát nghiệp vụ, các đơn vị chức năng tỉnh Bình Trị Thiên (cũ), mà chủ yếu là lực lượng Công an, đã từng bước làm rõ về kẻ phản bội, tên nội gián nguy hiểm này.

Từ năm 1955, ngay sau khi thiết lập tổ chức mang tên Đoàn công tác đặc biệt miền Trung (ĐCTĐBMT), Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương sử dụng một số cán bộ của ta bị bắt nhằm âm mưu tiếp tục chống phá Cách mạng. Trong số đầu hàng phản bội có Lê Văn Tu, tức Hoàng Nguyên, đã khai báo chi tiết về T., cán bộ hoạt động tình báo Liên khu V trong phong trào hướng đạo tại Thừa Thiên Huế. ĐCTĐBMT đã cho nhận diện và bố trí giám sát mọi quan hệ, hoạt động của T..

Ngày 2//958, chúng đã bố trí bắt T. tại nhà thuốc Ngọc Diệp trên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế. Trưởng Cơ quan Đặc biệt Huế Lê Văn Dư cùng hai phụ tá là Lê Khắc Lự và Lê Phước Thưởng (đều là cán bộ Cách mạng đã đầu hàng, phản bội) liên tục thẩm vấn T.. T. đã khai báo hoạt động của mình và nhận công tác với địch chống lại Cách mạng.

Sinh ngày 1//914 tại Thừa Thiên Huế, T. xuất thân trong một gia đình quan lại Nam Triều (cũ), tham gia Cách mạng và được vào Đảng Cộng sản. Từ tháng 8/1945, hoạt động trong cơ quan tình báo Liên khu V tại Huế. Đã được Cách mạng cho dự học các lớp chính trị, nghiệp vụ. Nội dung thể hiện trong các tài liệu lưu trữ cho thấy T. đã khai chi tiết toàn bộ hệ thống tổ chức của Ủy ban Kháng chiến Liên khu V, số lượng và tình hình đảng viên trong chi bộ, cấp ủy và các cơ quan khác mà y biết. Đặc biệt nghiêm trọng là T. đã khai toàn bộ kế hoạch tình báo của Liên khu V giao cho y thực hiện, gồm nhiệm vụ, ý đồ chiến lược, thời gian tiến hành và nội dung, phương châm, phương pháp hoạt động trong lòng địch.

T. khai báo tỉ mỉ về các đường dây, cán bộ làm giao liên trong tổ chức và các cơ sở nội tuyến của ta ở Huế. Trong đó có đồng chí Phan Mạnh Lương, cán bộ tình báo được phái từ Hà Nội vào hoạt động tại Huế từ năm 1954 và đang làm việc tại Liên vụ Thông tin Hoa Kỳ (USIS). T. còn chỉ điểm cho địch biết một số cán bộ của ta được phái vào hoạt động tình báo ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…

Từ tin tức khai báo và qua một số thử thách ban đầu, địch đã kết luận: T. "thành khẩn và chuyển hướng tốt", đủ khả năng để chúng thực hiện ý đồ chiến lược "đánh" vào nội bộ "Cộng sản". Theo đó, T. được ĐCTĐBMT xác lập hồ sơ theo đúng thủ tục một mật báo viên quan trọng.

Tháng 2/1958, T. nhận nhiệm vụ của địch và rời trại giam Tòa khâm dưới hình thức "phóng thích", trở lại bình phong hành nghề tại hiệu thuốc Ngọc Diệp và hoạt động trong phong trào hướng đạo của Huế. Mọi hoạt động của T. đều đặt dưới sự điều khiển trực tiếp của các tên Dư, Thưởng, Lự. Do tạo được vỏ bọc hợp pháp và với kinh nghiệm nghề nghiệp đã được trang bị nên T. nhanh chóng gây được ảnh hưởng và uy tín đối với cán bộ cấp trên cũng như trong phong trào của quần chúng Cách mạng.

Cảnh giác với âm mưu của địch và do chủ trương sách lược của ta trong giai đoạn đó nên việc T. tự tìm bắt liên lạc với cán bộ cơ sở của ta đang hoạt động nội thành không thực hiện được. Vì vậy, một mặt T. phải trường kỳ mai phục, chờ thời cơ, đồng thời thực hiện chỉ đạo của địch đi sâu vào tổ chức hướng đạo Huế nắm tình hình các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, nắm xu hướng và tư tưởng của một số trí thức có tên tuổi. T. coi đây là một thử thách nên đã hăng hái hoạt động và đã cung cấp cho địch nhiều tin tức quan trọng để chúng sử dụng đàn áp phong trào Cách mạng, lùng bắt cán bộ, gây nhiều tổn thất cho ta. Mặt khác chúng còn chú ý tạo điều kiện để T. được tiếp xúc với nhiều sĩ quan Mỹ, ngụy để học tập và củng cố tư tưởng chống phá Cách mạng.

Cuối năm 1965, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh và sự mất cảnh giác của ta, T. đã móc nối được với đường dây liên lạc của tổ chức Đảng tại thành nội Huế và trở thành cán bộ của đường dây này. Ngay lập tức, T. thông báo cho Lê Văn Trốn (mới được địch bố trí trực tiếp điều khiển T.) và báo công luôn bằng một số tin tức ban đầu về tình hình đường dây này mà y nắm được. Cũng từ đó, một số chủ trương và chỉ đạo kế hoạch đấu tranh của phong trào Cách mạng đã gặp nhiều khó khăn, có lúc bị tổn thất nặng.

Các chiến sĩ An ninh đang thu thập tài liệu của địch tại chi khu quân sự Gio Linh - Quảng trị, năm 1972. Ảnh: Tư liệu.

Tháng 6/1967, Cố vấn Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) David Hayes từ Sài Gòn ra Thừa Thiên Huế chỉ đạo Ty Cảnh sát Quốc gia nhanh chóng thành lập toán tình báo đặc biệt, lấy bí số là T115, do Trốn làm trưởng toán và T. trở thành một trong 10 đầu mối tình báo viên của toán này. T. được giao nhiệm vụ xâm nhập nội bộ các tổ chức Cách mạng dưới sự điều khiển trực tiếp của cố vấn Mỹ và Trốn, có quy ước liên lạc riêng. Kể từ đây, T. vừa làm việc cho CIA (thông qua T115), vừa làm việc cho cơ quan Cảnh sát Đặc biệt ngụy.

Tuy vậy, ĐCTĐBMT vẫn nuôi ý đồ tình báo chiến lược là đưa T. chui vào đơn vị hoạt động bí mật của ta. Năm 1968, T. được đưa ra khu căn cứ Cách mạng để tham gia thành viên của liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ Huế. Kẻ địch xác định đây là cơ hội để T. trở thành con bài dự trữ nằm trong các ý đồ hậu chiến của chúng sau này. Tháng 9/1968, khi đã được ra Bắc an dưỡng và học tập, T. vẫn tìm mọi cách để ngấm ngầm tạo dựng vỏ bọc kín đáo hơn chờ cơ hội leo cao, chui sâu.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, T. trở lại Huế và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân Cách mạng kiêm Trưởng phòng Thể dục Thể thao Thừa Thiên. Ở cương vị công tác mới, T. càng có điều kiện "đánh bóng" mình, tạo uy tín để củng cố địa vị.

Khi chính thức trở thành đại biểu Quốc hội thống nhất (Khóa VI) và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng ty và Phó bí thư Chi bộ Ty Thể dục Thể thao (thời đó đảng viên còn ít, nhiều cơ quan cấp sở, ty chưa đủ yếu tố thành lập Đảng bộ), T. đã lợi dụng quyền hành để thực hiện một số hoạt động che giấu tội ác quá khứ của bản thân và âm mưu lôi kéo tụ tập tay chân bằng cách chứng nhận lý lịch "có hoạt động Cách mạng" cho một số phần tử địch trước đây để đưa chúng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể Cách mạng…

Sau khi dựng lại quá trình phản bội của T. thông qua các nguồn tài liệu và thẩm tra các đầu mối T. đang củng cố, Cơ quan an ninh đã tập hợp báo cáo kịp thời lên Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 31/8/1978, Công an Bình Trị Thiên (cũ) thực hiện chỉ đạo của Bộ đã thi hành Quyết định số 312/NQ/QH6 ngày 25/8/1978 của Quốc hội, bắt khẩn cấp Nguyễn Thúc T. và công khai mở cuộc điều tra.

Trước những chứng cứ, tài liệu xác đáng, T. đã phải khai báo toàn bộ quá trình làm tay sai cho địch. Ngày 27/4/1980, tại Huế, Tòa án nhân dân mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Thúc T. can tội làm gián điệp cho Mỹ - ngụy, và phạm tội gián điệp (Điều 5 pháp lệnh trừng trị các tội phản Cách mạng). Trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân, Tòa tuyên phạt T. mức án 18 năm tù giam. Đồng bọn của y cũng lần lượt bị bắt và bị xử phạt thích đáng.

Khám phá, triệt tiêu đầu mối nội gián Nguyễn Thúc T. đã góp phần vô hiệu hóa một mũi trong kế hoạch tình báo chiến lược sau chiến tranh của địch. Đó là một chiến công lớn của quân và dân Bình Trị Thiên mà Lực lượng Công an là nòng cốt. Sự kiện trên cũng là bài học xương máu về tinh thần cảnh giác cách mạng trong mọi tình huống - thời chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước. Nếu không, sẽ khó tránh khỏi hậu quả khôn lường.

* Theo lời kể của Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Bảy - tự Bảy Khiêm

Khổng Hà
https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Bai-cuoi-Bat-ten-noi-gian-Nguyen-Truc-Tuan-i362394/

Friday 10 December 2021

Sau hay trước năm 2018?

 


Diễn văn của ông Hoàng Như Tùng đọc ngày 4 tháng 5 năm 2008 ở Houston trong lễ tưởng niệm tướng Nguyễn Khoa Nam có đoạn:

BS trực Trần quốc Đông (hiện ở Úc) làm tờ y chứng. Thủ tục khám nghiệm đã xong, QYV xúc tiến tang lễ. Kiểm điểm tư trang của người quá cố chỉ thấy:

-        Một cuốn kinh Phật nhỏ đựng trong một túi nylon.

-        Một khẩu súng lục hiệu Browning 7.2 mm

-        Một thẻ bài kim khí cá nhân.

Ba món này đã được bỏ vào quan tài để làm vật lưu dấu phòng thất lạc thi hài người chết.

(https://nsvietnam.blogspot.com/2014/05/dien-van-oc-trong-le-tuong-niem-tuong.html)

Không có lý ông Hoàng Như Tùng, chỉ huy trưởng quân y viện Phan Thanh Giản (Cần Thơ, 1975), lại lấy tư liệu từ sách của ông Trần Mai Hạnh. Ông Hoàng Như Tùng nộp diễn văn của ông cho Hội Nhà Văn Việt Nam chưa biết chừng cũng ẵm được giải thưởng văn xuôi.


 




Thursday 9 December 2021

Hư cấu ở đâu? Chân thật ở đâu?

Hồi ký của Nguyễn Tấn Phận kể lại thời điểm cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị ra đi như sau:

Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ ra cây Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo.

Xong xuôi ông bấm interphone gọi Sĩ quan Tùy viên trực lúc đó là HQ Đại úy Trần Anh Tuấn. Ông đưa cho Đại úy Tuấn một gói quà nhỏ và ra lịnh, “ Chú mang cái hộp này qua cụ Hương. Nếu không gặp Cụ thì ngày mai đem qua cũng được. Nhớ đừng mở ra.” Có lẽ ông đã gọi thẳng Tổng thống Hương nên biết cụ còn đang bận tiếp Đại sứ Pháp, ông Jean-Marie Mérillon, nên mới dặn Đại úy Tuấn như vậy.

Từ phải qua, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, đang chỉ tay, Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunk, giữa, Phò TT Nguyễn Cao Kỳ, áo bay đen, dịp đại sứ Bunker thăm Việt Nam năm 1969. Photo Larry Burrows/Time Life magazine

Khi ông và Đại úy Tuấn vừa bước ra khỏi phòng thì lúc đó Đại sứ Mérillon cũng vừa từ phòng làm việc của Tổng thống Hương bước ra. Thấy vậy ông Thiệu cùng với Đại úy Tuấn đi qua tận văn phòng, trao cái hộp quà này cho Tổng thống Hương. Trao quà xong, Tổng thống Thiệu và Đại úy Tuấn quay trở về bên cánh trái. Khi tới cầu thang máy, anh cận vệ bấm nút mở cửa cầu thang. Trước khi bước vào, ông Thiệu xoay lại dặn Đại úy Tuấn, “ Tôi đi qua nhà Đại tướng ăn cơm rồi trở về, chú khỏi đi theo.” Ông lanh lẹ bước vào thang máy. bấm nút tầng trệt.

Đại úy Tuấn vì thấy có nhiều sinh hoạt khác thường, dự đoán là hôm nay ông Thiệu sẽ đi. Muốn để cho ông yên tâm nên cả buổi chiều anh cố tìm cách lánh mặt và mỗi lần theo ông đi đâu, anh đi cách xa ông.

Tại tầng trệt, khi cánh cửa cầu thang mở ra thì Đại tá Điền đã túc trực tại đó. Tổng thống Thiệu vừa bước xuống bậc tam cấp thì cũng vào lúc hai anh cận vệ xuất hiện, Sanh và Khình vừa đến để đổi gác, làm ông giật mình. Tổng thống Thiệu và Đại tá Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau; Đại tá Điền ngồi vào chỗ ngồi chánh thức của Tổng thống Thiệu – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, Tổng thống Thiệu liền hỏi Đại tá Điền, “ có mấy cây súng? ” Đại tá Điền đáp, “có hai cây: một cây dài, một cây ngắn.” Đại tá Thiệt lập tức đạp ga cho xe chạy vòng qua sân cỏ, lướt ngang qua thềm đại sảnh, rồi tiến thẳng ra cổng chánh là đầu đại lộ Thống Nhất.

(http://batkhuat.net/tl-nhungngaycuoi-tt-nvt-saigon.htm)

Ông Nguyễn Tấn Phận đề ngày tháng bài viết là California, mùa thu 2008.

Quyển tiểu thuyết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của ông Trần Mai Hạnh in lần đầu năm 201nhưng ông cho biết là ông đã phácthảo xong từ năm 2000.

Năm 2000 tôi đã phác thảo xong cuốn sách này lần đầu tiên. Cuốn sách này có 19 chương, tôi đã xong 18 chương, còn 1 chương cuối cùng chưa xong, là chương “Phút sụp đổ của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và tắt thở của chính thể Việt Nam Cộng hòa”.

Một khả năng là ông Nguyễn Tấn Phận đã xem được bản phác thảo của ông Trần Mai Hạnh. Hai là bản phác thảo của ông Trần Mai Hạnh chỉ mới hoàn thành trong khoảng thời gian đâu đó giữa 2008 và 2015.



Wednesday 8 December 2021

Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh: Thời gian sẽ trả lại sự thật về sự thật (Mỹ Trà - VOV)

 

Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh: Thời gian sẽ trả lại sự thật về sự thật

(VOV5) - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Sự thật vừa ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75" phiên bản tiếng Anh của nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh.


Những tài liệu nguyên bản được xem là tuyệt mật ở thời điểm trước năm 1975 của phía Việt Nam Cộng hoà và Hoa Kỳ cùng những tư liệu tác giả viện dẫn trong cuốn sách gắn với sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước có độ chính xác và tin cậy cao. Đây là cuốn sách vừa có giá trị về văn học, vừa có giá trị về lịch sử và báo chí. 

Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh: Thời gian sẽ trả lại sự thật về sự thật - ảnh 1
Bìa cuốn “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” – Phiên bản tiếng Anh.


Nghe âm thanh bài viết tại đây:


Phóng viên: Thưa nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, giữa cuốn tiểu thuyết "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4. 75" và sự kiện lịch sử trưa 30/04/1975 ở Dinh Độc Lập có mối quan hệ rất khăng khít. Ông là nhà báo chứng kiến và viết bài tường thuật đầu tiên về giờ phút lịch sử ấy, xin ông cho biết sự kiện này liên quan gì đến sự ra đời của cuốn sách?


Ông Trần Mai Hạnh
: Sự kiện lịch sử ấy cực kỳ quan trọng và nó quyết định sự ra đời của cuốn sách vì hai lý do. Một là tôi được chứng kiến giờ phút lịch sử đó, viết bài tường thuật đầu tiên về nó. Và cũng tại giờ phút lịch sử ấy tôi bừng thức lên suy nghĩ là sự kiện lịch sử chỉ diễn ra có một lần, và mỗi ngày, sự kiện lịch sử ấy sẽ xa đi và sẽ bị lớp bụi thời gian phủ mờ đi. Từ đó, tôi mới nảy sinh suy nghĩ là phải phục dựng lại những giờ phút lịch sử về sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn diễn ra cụ thể như thế nào.


Phóng viên: Tại sao cuốn tiểu thuyết tư liệu chiến tranh lại có nhiều tư liệu, chi tiết chính xác từng ngày, từng giờ đến như vậy. Cơ duyên nào đã giúp ông tiếp cận được với kho tư liệu tuyệt mật này?


Ông Trần Mai Hạnh
: Phía sau của cuốn "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75" là cả một câu chuyện cũng rất ly kỳ, thậm chí là đầy tính tiểu thuyết, có thể viết thành một cuốn sách. Có thể nói là do cơ may và cơ duyên lịch sử.


Tôi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh từ đầu, với tư cách là đặc phái viên của TTXVN. Tôi rất may mắn khi có mặt ở Dinh Độc lập trưa 30/04/1975 vào giờ phút lịch sử đó.


Khi đó, tôi là đặc phái viên TTXVN đi theo nhà báo Đào Tùng nên được đi theo, tiếp xúc, gặp gỡ tất cả những cơ quan quan trọng nhất trong giờ phút đầu của giải phóng tôi tiếp cận được với các tài liệu. Tôi đánh máy lại hết tất cả những gì thu thập được. Sau 2 tháng ở Sài Gòn, khi tôi ra Hà Nội trên đường biển, toàn bộ ba-lô của tôi đầy một balo tài liệu và chiếc máy chữ.


Rồi sau giải phóng, phía Mỹ triệu tập tất cả tướng lĩnh Sài Gòn thoát chạy ra nước ngoài để bắt viết tường trình lại toàn bộ cuộc chiến những ngày cuối cùng. Tất cả những tài liệu đó, Trung tâm Lịch sử quân sự Lục quân Hoa Kỳ lấy lại, in thành sách tiếng Anh để giảng dạy trong các trường quân sự của Mỹ. Tôi đã mượn được những tài liệu đó được dịch sang tiếng Việt để nghiên cứu.


Năm 2000 tôi đã phác thảo xong cuốn sách này lần đầu tiên. Cuốn sách này có 19 chương, tôi đã xong 18 chương, còn 1 chương cuối cùng chưa xong, là chương "Phút sụp đổ của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và tắt thở của chính thể Việt Nam Cộng hòa". Tôi chưa tìm được tài liệu gốc của những tướng, lính quân đội Sài Gòn những ngày cuối cùng ở Bộ Tổng tham mưu họ viết, họ kể lại. Nhưng cuộc sống là cơ duyên. Một Đại tá tình báo được phân công làm nhiệm vụ hỏi cung tất cả những tướng ở Sài Gòn từ cấp Đại tá trở lên, có cậu con trai học vợ tôi dạy văn. Anh là người cũng máu mê viết lách, nên trên bàn cung ghi chép, anh có đặt tờ giấy than để lấy lại một bản làm tư liệu để viết. Tất cả những lời khai đó là có hết. Khi chúng tôi gặp nhau đã nảy sinh ra ý định hợp sức tài liệu lại, viết một cuốn tiểu thuyết "Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn ngày cuối chiến tranh".


Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh: Thời gian sẽ trả lại sự thật về sự thật - ảnh 2
Nhà văn Trần Mai Hạnh chụp lưu niệm cùng bà Nguyễn Kim Nga, Trưởng ban Biên tập sách quốc tế


Phóng viên
: Ngoài việc gom tư liệu, trình bày và sắp xếp tư liệu thì công sức sáng tạo của tác giả như thế nào để đảm bảo tính chân xác và thuyết phục?


Ồng Trần Mai Hạnh
: Đầu tiên có người nói cuốn sách này là tư liệu báo chí, không phải văn học, tôi mới nói rằng ở đây tác giả đã phải hóa thân hoàn toàn sang phía bên kia để dựng lại hoàn toàn. Tác giả có mặt trong tất cả các phiên họp, tất cả các mặt trận, tất cả các quyết định, tất cả các suy tư của các tướng lĩnh, thậm chí cả trong các phát biểu để dựng nên. Hóa thân như là hư cấu rồi.


Nếu tôi in cuốn sách đó từ năm 2002 thì đã không ai nhắc đến cuốn sách nữa. Bởi vì sao? Vì khi ấy tôi viết vẫn với ý thức địch - ta, vẫn cứ bên cách mạng và bên phản cách mạng, vẫn người chiến thắng và kẻ thất bại. Tuy nhiên, chiến tranh là điều không ai muốn cả. Hòa bình là niềm khát khao của nhân loại. Hòa bình là vô giá. Trong tôi rung lên một nỗi xúc động sâu xa về thân phận con người, khát vọng hòa bình của con người, những chuân chuyên mà con người phải trải qua. Và tôi quyết định viết lại cuốn sách này với ánh sáng hoàn toàn khác, đi đến tận cùng của sự thật. Sự thật không bị bất cứ thiên kiến chủ quan nào chi phối. Không phải thắng trận thì viết thế nào cũng được, thua trận muốn giải thích ra sao cũng được. Sự thật là sự thật và thời gian sẽ trả lại sự thật cho về sự thật.


Phóng viên: Sự tiết chế của người viết và sự logic trong câu chuyện như thế nào, thưa ông?


Ông Trần Mai Hạnh
: Cái logic ở đây là mình phải tìm đến tận cùng của sự thật. Ví dụ trong cuộc họp ở Cam Ranh, phải tìm được tất cả những người có mặt trong cuộc họp đó, người ta phát biểu như thế nào. Sau này ra nước ngoài, khi viết hồi ký, khi trả lời phỏng vấn các báo, những người đó đều nói cả, mình phải nhặt tất cả những cái đó. Rồi có những người bị giam giữ trong trại cải tạo họ tường trình lại.


Quân đội Sài Gòn cũng rất quân phong quân kỷ. Khi thất bại rút chạy, Thiệu lệnh cho tất cả các tướng lĩnh chạy về đều phải viết tường trình cụ thể giờ phút sụp đổ như thế nào, trách nhiệm của cá nhân ra làm sao. Tất cả tướng lĩnh viết hai bản, một bản nộp cho Thiệu, một bản nộp cho Cao Văn Viên. Nên trưa 30/04, khi quân giải phóng vào, trên bàn Cao Văn Viên còn đầy đủ tất cả những bản tường trình của tất cả các tướng lĩnh. Nhờ thế mà tôi mới viết nổi cuốn sách này, chứ không làm sao mà dựng được chính xác đến như thế. Cái hay của tác giả là tác giả có tất cả các cái tường trình ấy mà không một nhà báo nào có được.


Phóng viên: Được biết đây là cuốn sách đạt giải thưởng văn học nghệ thuật đầu tiên của Hội Nhà văn được tổ chức dịch sang tiếng Anh và xuất bản từ trong nước ra nước ngoài. Ông có thể chia sẻ gì về sự ra đời của cuốn "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75" phiên bản tiếng Anh?


Ông Trần Mai Hạnh
: Cuốn sách này kỳ lạ lắm. Cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật in. Gần như cuốn sách này có số phận của nó, nó tự cất bước, không phụ thuộc vào ý định của tác giả. Tôi không đi thi, nhưng cuốn sách của tôi đã được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014 và tôi cũng không thể ngờ được cuốn sách được Giải thưởng văn học các nước ASEAN năm 2015. Ở Giải thưởng ASEAN 2015, một số chương cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh được mọi người rất quan tâm. Nhiều đơn vị mong muốn mình dịch sang tiếng Anh để rồi từ tiếng Anh người ta dịch sang tiếng của họ như Indonesia, Malaysia... nhiều thứ tiếng. Ngày 04/01/2016, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam ra quyết định dịch tác phẩm "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75" sang Anh ngữ để giới thiệu với bạn đọc thế giới về cuộc chiến gian khổ và những khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam.


Tôi nghĩ rằng giá trị lịch sử của cuốn sách, sự hi sinh của rất nhiều con người đã nâng bước cho cuốn sách.

Phóng viên: Vâng, xin cảm ơn ông!
(https://vovworld.vn/vi-VN/khach-moi-cua-vov/nha-bao-nha-van-tran-mai-hanh-thoi-gian-se-tra-lai-su-that-ve-su-that-529912.vov)