Showing posts with label An Chi Huệ Thiên. Show all posts
Showing posts with label An Chi Huệ Thiên. Show all posts

Friday 1 February 2013

Bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière (An Chi - Huệ Thiên)


            ĐỘC GIẢ: Trên KTNN 523, ông đã viết:
            ''Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như. bia bọt, - bia Tig r - bia hơi, v.v. Chứ nếu, với hai câu
                        Trăm năm bia đá thì mòn
                        Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười."
            Tôi đã rất tâm đắc với đoạn trên đây. Nhưng mấy người bạn đã làm tôi cụt hứng. Họ rất giỏi tiếng Anh. Và họ khẳng định với tôi rằng bia là kết quả phiên âm từ danh từ beer của tiếng Anh/ Mỹ chứ tiếng Pháp bière chỉ đem đến cho tiếng Việt hai chữ lave mà thôi.
            AN CHI: Khi làm từ nguyên, chúng tôi luôn luôn tâm niệm câu sau đây của J.Vendryes:
            “Tous les sosies ne sont pas den parents”.
            (Không phải tất cả những kẻ giống hệt nhau đều là bà con (với nhau)).
            Thoáng nghe, và nếu chỉ nghe không mà thôi, thì rõ ràng là bia rất gần với beer [biә] của tiếng Anh mà chỉ là một người bà con xa với bière [bjεr] của tiếng Pháp. Nhưng, may thay, đó chỉ là một cách nhìn (nghe) quá bác học! Chứ nếu ta chịu gần người bình dân hơn thì ta sẽ thấy vấn đề hiện ra rất khác. Ai có theo dõi giải Bóng đá ngoại hạng của Anh cũng đều biết cây làm bàn của câu lạc bộ Arsenal là Thierry Henry. Thế nhưng một số người bình dân Việt Nam đâu có chịu gọi cái first nam của ngôi sao này là [tjεri]. Họ cứ phát âm một cách rất chi là Việt Nam thành ''tia-ri”. Thậm chí bình luận viên đài truyền hình có khi vì bình quá say sưa và gấp gáp cũng đã phát âm như thế. Vậy thì đâu có chi đáng lấy làm lạ - và càng chẳng có lý gì để chống lại - trước việc họ phát âm bière thành ''bia''.
            Nhưng vấn đề đâu chỉ có thế. Vấn đề là từ bia (<bière) đã có mặt trong từ vựng của tiếng Việt từ hồi còn mồ ma thực dân Pháp, nghĩa là rất lâu trước khi thứ tiếng American English đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, theo chân của lính Mỹ. Chẳng thế mà Nguyễn Tuân đã xài ''bia'' trong Quê hương từ năm 1943. Thì đây, Ngũ Ân Tuyên của chúng ta đã viết thế này:
            ''Bạch mời thầy Ba Bạc Liêu vào một băng thất uống bia và nói chuyện.''
            (Dẫn theo Nguyễn Quảng Tuân - Nguyễn ĐỨC Dân,
Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp,
TPHCM, 1992, tr.67).
            Khi Nguyễn Tuân xài ''bia'' như thế thì người Việt Nam hãy còn gọi dân đảo quốc sương mù là Hồng Mao, Ăng-Lê chứ danh xưng ''Anh'' thậm chí còn chưa được dùng chính thức, càng chưa được dùng một cách thống nhất và phổ biến như hiện nay. Chúng tôi tuyệt nhiên không nói rằng lúc bấy giờ chẳng có người Việt Nam nào biết tiếng Anh. Nhưng hồi đó, thứ tiếng này chẳng có thớ mà cũng không có thế để ''nhập” bia vào kho từ vựng của tiếng Việt. Chỉ có tiếng Pháp mới là một thứ tiếng ''ngon lành'' để đưa đến cho tiếng Việt nhiều từ vay mượn mà thôi. Thậm chí nó còn đưa đến cho tiếng Việt cả những từ Pháp gốc Hồng Mao nữa, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chẳng hạn trong môn bóng đá (P. = Pháp, A. = Anh):
           
            Vậy cái sự giỏi tiếng Anh mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ, để làm từ nguyên học về từ Việt gốc Anh. Nếu chỉ ''trông mặt mà bắt hình dong'' thì ta sẽ dễ dàng cho rằng phom (dạng, kiểu, khuôn, mẫu) là một từ gốc Anh, vì nó được phát âm rất gần với tiếng Anh form  trong khi tiếng Pháp lại là forme , có vẻ như... xa hơn. Nhưng thợ đóng giày người Việt Nam đã dùng ''phom” để đóng giày cho Tây - và dĩ nhiên là cho cả khách hàng người Việt Nam - từ rất lâu trước khi Mỹ đến.
            Vậy xin cứ yên tâm tin rằng bia là một từ Việt gốc Pháp. Chỉ xin nhấn mạnh rằng đây vốn là một từ của tiếng Việt miền Bắc còn la ve, tuy cũng gốc Pháp, nhưng lại là một từ của tiếng Việt miền Nam. Thật vậy, trước đây người Bắc và người Nam vẫn có những cách phiên âm khác nhau đối với một số từ nhất định của tiếng Pháp, chẳng hạn (theo thứ tự: Pháp > Nam - Bắc):
            - balle > banh - ban;
            - crème > cà rèm (lem) - kem;
            - commissaire > cò – cẩm;
            - copier > cọp dê [je] - cóp;
            - gamelle > gà mên - cà mèn;
            - fromage > phô mai - phó mát; v.v..
            Vậy la ve là một từ gốc Pháp của tiếng Việt miền Nam còn bia là một từ gốc Pháp tương ứng của tiếng Việt miền Bắc. Đáng nói là, trong la ve, chỉ có ve mới chánh cống là hình thái phiên âm của bière chứ la thì chỉ là nhại lại quán từ la của tiếng Pháp (vì bière thuộc giống cái nên mới đi với quán từ giống cái la thành la bière) mà thôi.
            Nhưng tại sao lại phiên âm bière thành ve? Chuyện hơi rắc rối và rất đáng nói. Đáng nói là vì nhiều người miền Bắc đã theo đúng chính âm, căn cứ vào chính tả, mà phát âm lave thành [la vε] trong khi người bình dân Nam Bộ không bao giờ phát âm như thế! Họ chỉ phát âm hai chữ này thành [la jε] mà thôi. Một số người Bắc, vì nghĩ rằng [la jε] nếu viết ra chữ quốc ngữ thì sẽ là ''la de" (người Nam Bộ vẫn đọc chữ ''d'' thành [j]), nên mới thực hiện một hành động siêu chỉnh (hypercorrection) mà phát âm hai chữ la ve thành [la zε]. Nhưng người Nam Bộ cũng không bao giờ phát âm như thế này vì, như đã nói, họ chỉ phát âm thành [ra jε] mà thôi. Vậy thì tại sao la bière lại được phiên âm thành la ve chứ không phải *la de?
            Sự thể là như sau: Trong khi người bình dân Nam Bộ phát âm chữ ''v'' thành [j] (sẽ tạm ghi bằng chữ quốc ngữ ''y'') thì người có ít nhiều học thức lại phát âm nó thành [bj] và xem đây là cách phát âm chuẩn. Vì vậy mà nếu những người trước phát âm vội vàng, vui vẻ, v.v… thành ''vội ỳang, ''yui yẻ", v.v., thì những người sau lại phát âm thành "byội byàng, "byui byẻ, v.v.. Thế mà người có học ở Nam Bộ có điều kiện để phiên âm một cách trung thành la biè(re) của tiếng Pháp thành ''la ve" mà họ phát âm thành la bye [la bjε], còn người bình dân thì la ve [la jε]. vậy cách phát âm thành [la vε] hay [la zε] của người Bắc hoàn toàn không đúng với cách nào trong Nam cả, nghĩa là không giống ai.
            Nói tóm lại thì tiếng Pháp (la) bière đã đem đến cho tiếng Việt hai hình thức vay mượn: bia ở ngoài Bắc và (la) ve ở trong Nam chứ không phải chỉ la ve mới có gốc Pháp còn bia thì gốc Anh như những người xịn tiếng Anh kia đã khẳng định. 

Tuesday 23 October 2012

Về chữ liền trong liền anh liền chị _ An Chi (Đã đăng trên Đương Thời số 12-2009).

      Liền anh và liền chị là những lối nói mang tính biệt ngữ trong sinh hoạt  dân ca Quan họ, dùng để chỉ hoặc gọi từng thành viên nam hoặc nữ của một bọn Quan họ. Tuy tài liệu tham khảo về Quan họ không đến nỗi quá nghèo nàn nhưng thật khó mà tìm được một lời giải thích về từ nguyên của chữ liềntrong các cấu trúc trên. Ở đây, chúng tôi xin phân tích chữ này về các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, và ngữ pháp để thử tìm về nguồn gốc của nó.
        Về ngữ pháp thì, cứ theo cách sử dụng phổ biến và quen thuộc, cũng như theo cảm thức tự nhiên của người Việt, ta có thể khẳng định rằng liền anhliền chị là những ngữ danh từ, nghĩa là những cấu trúc do danh từ làm trung tâm. Trong liền anh và liền chị thì liền là trung tâm. Vậy liền là danh từ. Nhưng không một quyển từ điển tiếng Việt quen thuộc nào có ghi nhận danh từ liền. Thuộc loại đáng tin nhất và cũng là loại mới nhất như Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Vietlex, 2007) cũng chỉ ghi nhận chữ liền với tính cách là tính từ, phụ từ (phó từ) và kết từ (liên từ) mà thôi. Lý do là , đối với tiếng Việt toàn dân hiện đại, thì liền là một từ cổ, nghĩa là một từ đã “chết” (nên nhiều người thậm chí còn không biết rằng nó có tồn tại). Nó chỉ còn “sống” ở một vài địa phương mà ngay ở những địa phương này thì nó cũng chỉ còn được sử dụng trong một phạm vi hẹp.
      Về ngữ âm thì liền là âm Hán Việt xưa của chữ  (trong nhiều trường hợp còn có thể chuyển dụng với chữ ),mà âm Hán Việt hiện đại là liên. Nói một cách khác, liên là một biến thể ngữ âm hậu kỳ củaliền. Với những tiếng Hán Việt có phụ âm đầu l- (hoặc cả d-, m-, n-, nh-, ng(h)-, v-) thì việc biến thể có thanh điệu 2 (dấu huyền) xưa hơn biến thể có thanh điệu 1 (không dấu) là hiện tượng phổ biến:
 (trong lụa là) là âm Hán Việt xưa của chữ , mà âm Hán Việt hiện đại là la, có nghĩa là lụa;
– làn (trong làn sóng) là âm Hán Việt xưa của chữ , mà âm Hán Việt hiện đại là lan, có nghĩa là sóng;
     – lầu (trong lầu đài) là âm Hán Việt xưa của chữ , mà âm Hán Việt hiện đại là lâu (trong lâu đài);
       – liềm (trong búa liềm) là âm Hán Việt xưa của chữ , mà âm Hán Việt hiện đại là liêm, có nghĩa là liềm; v.v..
      Cứ như trên, thì không có gì lạ nếu liền là âm Hán Việt xưa của chữ , mà âm Hán Việt hiện đại làliên. Nhưng, trong tiếng Việt, nó còn có một biến thể ngữ âm nữa là liễn, như đã cho trong Hán-Việt từ- điển (Đào Duy Anh), Hán-Việt tân từ-điển (Nguyễn Quốc Hùng), Đại Nam quấc âm tự vị (Huỳnh-Tịnh Paulus Của), v.v..
      Bây giờ xin nói sang mặt ngữ nghĩa. Vì liền ở đây chỉ có thể là danh từ, như đã phân tích về mặt ngữ pháp, nên các nghĩa “ở kề ngay nhau, sát ngay nhau, không cách” hoặc “ngay lập tức” đã cho trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học không thể áp dụng cho nó vì đó là nghĩa của tính từ hoặc phụ từ. Vậy liền/liên/liễn là gì? Ở Nghệ-Tĩnh, liền có nghĩa là xếp, tệp, xấp,v.v.. Liền trù là xấp trầu. Chữ này và nghĩa này đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Nghệ của Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh (Nxb Nghệ An,1998) và Từ điển tiếng địa phương Nghệ-Tĩnh do Nguyễn Nhã Bản chủ biên (Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1999). Còn liễn, điệp thức của nó ở trong Nam, thì được dịch là fasciculus (tập, tệp) trong Dictionarium Anamitico-Latinum của J.L. Taberd (Serampore,1838), với những thí dụ như: – liễn bát : scutellarum fasciculus (chồng chén bát), – liễn trầu : fasciculus betel (xấp trầu). Còn trong Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel, nó được dịch là paquet, liasse (bó, xấp, tệp, v.v.), cũng với những thí dụ như trên. Và dĩ nhiên là ta còn có thể tìm thấy danh từ liễn này với cái nghĩa đang xét trong một số quyển từ điển khác nữa, như Dictionarium Anamitico Latinum (viết tay, 1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine,  Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh-Tịnh Paulus Của, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, v.v.. Riêng điệp thức liên thì có thể được xem là một đơn vị từ vựng của tiếng Việt toàn dân nhưng nó chỉ được sử dụng trong một phạm vi thực sự hạn hẹp với cái nghĩa là (một) cặp, (một) đôi, dùng để chỉ hai câu thơ đi liền nhau. Chẳng hạn trong một bài bát cú Đường luật thì liên 1-2 là hai câu đề, liên 3-4 là hai câu thực, liên 5-6 là hai câu luận và liên 7-8 là hai câu kết.
      Tất cả những nghĩa trên đây của liềnliễn và liên đều bắt nguồn từ nghĩa gốc của chữ liên  trong tiếng Hán. Và vì lời giảng bằng tiếng Hán khó giúp ta phân biệt về mặt từ loại (trong trường hợp này thì phải là danh từ) nên ở đây chúng tôi xin dẫn Dictionnaire classique de la langue chinoise cũa F.S.Couvreur để bạn đọc có thể kiểm chứng dễ dàng hơn về mặt đó. Tại chữ , Couvreur đối dịch là : “ continu (thể liên tục), suite non interrompue ( chuỗi, dãy, loạt, v.v., không đứt đoạn), liaison (sự liên kết, mối liên kết), connexion (sự kết nối), alliance (quan hệ thông gia), association (hội, đoàn, nhóm liên kết, sự kết hội), association de dix personnes, de cing familles ou de deux cents familles (hội mười người, năm gia đình hoặc hai trăm gia đình) – distique (hai câu thơ liền nhau)”. Với nghĩa “chuỗi, dãy, loạt, v.v., không đứt đoạn”, ta đã thấy được cái nghĩa của liền trong liền trù (xếp trầu) của Nghệ-Tĩnh và của liễn trong liễn trầuliễn bát của tiếng địa phương Miền Nam và của liên với cái nghĩa đặc dụng đã nói. Còn với nghĩa “hội, hội đoàn, sự kết hội”, ta sẽ thấy được cái nghĩa của liền trong liền chịliền anh của Quan họ Kinh Bắc. Cái nghĩa này liên quan đến cách tổ chức của các nhóm Quan họ, gọi là bọn Quan họ, mà tác giả Bùi Trọng Hiền cho ta biết như sau:
       “Người Quan Họ chỉ hát đối đáp theo từng nhóm xã hội nhất định – gọi là bọn Quan Họ. Trong đó, chỉ có bọn Quan Họ kết nghĩa mới hát đối đáp với nhau. Nếu không cùng bọn kết nghĩa, các liền anh , liền chị chỉ có thể hát cùng nhau trong các cuộc thi lấy giải ở hội làng ngày xuân. Ðể hình thành nên nhóm, các chàng trai (hoặc cô gái) cùng làng xã phải trải qua một quá trình học hát dưới sự dìu dắt của các thế hệ đi trước. Khi đã có một vốn liếng bài bản nhất định, họ mới tự kết hợp lại thành từng nhóm liền anh hay liền chị, mỗi nhóm trung bình năm hay sáu người.” (Nhân Dân, 15-12-2007).
   Những nhóm năm, sáu liền anh hay liền chị tự kết hợp lại với nhau sau khi đã “thành nghề” đó, tức những bọn Quan họ, theo chúng tôi, chính là những liền, theo nghĩa “hội”, “đoàn” trong từ điển của Couvreur. Liền anh là cách mà bọn Quan họ nữ dùng để gọi bọn Quan họ nam; liền chị  là cách mà bọn Quan họ nam dùng để gọi bọn Quan họ nữ. Còn liền em là cách mà bọn Quan họ nam (hoặc nữ) dùng theo lối khiêm tốn để chỉ liền của mình khi đối thoại vói bọn Quan họ nữ (hoặc nam). Như vậy thì, lúc khởi thuỷ, các ngữ danh từ liền anhliền chị không dùng để gọi hoặc để chỉ cá nhân từng thành viên nam hay nữ của một bọn Quan họ như hiện nay, mà dùng để chỉ chính từng bọn Quan họ nam hay nữ. Rồi về lâu, về dài, do danh từ liền dần dần mất nghĩa – sự mất nghĩa là một hiện tượng thông thường trong ngữ nghĩa học – nên người ta mới dùng các ngữ danh từ liền anhliền chị để chỉ từng thành viên của bọn Quan họ nam hay nữ; còn liền em mới trở thành lối khiêm xưng mà từng thành viên của một bọn nam lẫn bọn nữ đều dùng để tự chỉ cá nhân mình, như hiện nay. Với lối nói chệch nghĩa này, liềntrở thành một hình vi phụ thuộc, luôn luôn đi chung với danh từ anh (chịem) đứng liền ngay sau nó, để chỉ một hàm nghĩa về thứ bậc.
      Ta có thể yên tâm khẳng định những điều trên đây một cách chắc chắn, nhất là khi so sánh liền vớiđàn, một yếu tố đồng nghĩa với nó. Liền vốn là một từ, nay đã trở thành một hình vị phụ thuộc, đồng nghĩa với đàn trong hai công dụng đặc biệt (một là trong đàn ôngđàn , hai là trong đàn anh và đàn chị) của hình vị này, như sẽ phân tích dưới đây. Đàn là một hình vị tách ra từ danh từ đàn trong đàn bòđàn chimđàn gàđàn vịtđàn conđàn thằng ngọng (đứng xem chuông),v.v., với hai công dụng đặc biệt:
–  đặc dụng với ông để chỉ hàm nghĩa về giới tính: đàn ôngđàn bà (công dụng 1);
– đặc dụng với anhchịem để chỉ hàm nghĩa về thứ bậc: đàn anhđàn chị, đàn em (công dụng 2).
Hai công dụng đặc biệt trên đây của hình vị đàn làm ta nhớ đến hai công dụng y hệt của hình vị liềntrong: liền ôngliền bà (công dụng1) và liền anhliền chị, liền em (công dụng 2).
Với công dụng 1, liền có xuất hiện theo kiểu cà rỡn trên một vài trang web nhưng thực ra đây vốn là một hình vị từng được dùng một cách nghiêm túc theo hàm nghĩa này: liền ôngliền bà có nghĩa là “đàn ông”, “đàn bà”. Hiện nay, công dụng này vẫn còn tồn tại với tư cách là một hiện tượng mang tính địa phương. Trao đổi riêng với chúng tôi, ông Nguyễn Như Phong, phó Tổng biên tập chuyên đề An ninh Thế giới, có cho biết ở vùng Chùa Hương quê ông (nay thuộc Hà Nội), người ta vẫn nói liền ôngliền bàchứ không mấy khi nói “đàn ông”, “đàn bà”. Và dĩ nhiên là trong lời bài đồng dao của trò chơi “Thả đỉa ba ba” thì liền ôngliền bà cũng thế chỗ cho “đàn ông”, “đàn bà”:
Thả đỉa ba ba,
Chớ bắt liền 
Phải tội liền ông
Cơm trắng như bông (…)
Hiện tượng ngôn ngữ trên đây ở vùng Chùa Hương rõ ràng là một bằng chứng sống cho mối quan hệ đồng nghĩa giữa liền và đàn. Ngoài ra, ta còn có những bằng chứng khác nữa, vừa liên quan đến hiện tượng phương ngữ, vừa liên quan đến hiện tượng ngữ âm lịch sử, với “Bảng từ vựng Bình Trị Thiên” của Võ Xuân Trang. Theo tài liệu này, ta biết rằng, với nghĩa đang xét thì hai hình vị liền và đàn còn đồng nghĩa với các hình vị đìnhlìnhnìnhnền của phương ngữ Bình Trị Thiên (Xin x. Võ Xuân Trang,Phương ngữ Bình Trị Thiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.257). Trong các hình vị này thì riêngnền là hình vị mà cá nhân chúng tôi từng được nghe một số người cao niên sử dụng, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: nền ôngnền bà. Một sự khảo sát kỹ lưỡng về phụ âm đầu và về vần có thể sẽ dẫn dắt ta đến nguồn gốc chung của một vài yếu tố trong các hình vị: đànđìnhliềnlìnhnềnnình. Xin phân tích, chẳng hạn, mối quan hệ liền nền.Trước nhất, về vần thì ta có nhiều dẫn chứng cho mối quan hệ -iên -ên:
–      biên (= bờ, cạnh) bên trong bên cạnh, bên thềm,v.v.;
–      điện trong cung điện ~ đền trong đền đài;
–      hiện (=con hến) ~ hến trong “NgaoỐcHến”;
–      phiên (= hàng rào) ~ phên trong phên giậu;
–      quyến trong quyến rũ ~ quến trong rù quến; v.v..
Về phụ âm đầu thì trước nhất ta đã có bằng chứng về sự lẫn lộn giữa l- và n- ở nhiều cá nhân và địa phương, đặc biệt là tại miền Bắc. Còn nếu hạn chế trong phạm vi những điệp thức gốc Hán thì ta có:
–      lạm (= bị lửa táp; làm cho cháy sém) ~ nám trong nám da;
–      loại trong chủng loại ~ nòi trong giống nòi;
–      loan (=ngọn núi nhỏ mà nhọn) non trong núi non;
–      lỗ (= lắm lời, nói nhiều) ~ nỏ trong nỏ mồm;
–      lũng (= gò đất cao) ~ nổng trong gò nổng;
–      noãn (= trứng) đúng theo phiên thiết phải là loãn; v.v..
Sự phân tích về quan hệ từ nguyên giữa liền và nền cũng như về mối quan hệ đồng nghĩa giữa liền đàn cho phép ta đi đến kết luận về quan hệ ngữ dụng giữa ba hình vị: đàn của tiếng Việt toàn dân, liềnở vùng Chùa Hương (và một vài địa phương khác) và nền của phương ngữ Bình Trị Thiên. Với mối quan hệ này thì ta có thể tin rằng nguồn gốc và nghĩa của hình vị liền mà chúng tôi đã nêu là điều có cơ sở vững chắc.
Cuối cùng, xin nói thêm một chút về công dụng 2: Với nghĩa gốc của nó mà chúng tôi đã đoán định (dùng để chỉ chính từng bọn Quan họ nam hay nữ), thì liền anhliền chịliền em tương ứng với đàn anhđàn chịđàn em theo công dụng 2 của hình vị đàn (chỉ thứ bậc). Sự khác nhau chỉ là ở chỗ ba danh ngữ trước còn dùng để tự xưng (trong sinh hoạt Quan họ) mà ba danh ngữ sau thì không.

Wednesday 19 September 2012

SAI LẦM CĂN BẢN CỦA A.-G. HAUDRICOURT VỀ PHỔ HỆ CỦA TIẾNG VIỆT _ AN CHI (Kiến Thức Ngày Nay số 143, ngày 15-7-1994).

Hai kiến giải về quan hệ tộc thuộc của tiếng Việt là của hai người Pháp: H. Maspéro và A.-G. Haudricourt. Trong Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite (1), một công trình nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc, Maspéro đã dè dặt cho rằng tiếng Việt có thể là một ngôn ngữ Thái còn Haudricourt, trong một bài viết ngắn nhan đề La place du vietnamien dans les langues austroasiatiques (2), thì cả quyết rằng nó là một ngôn ngữ Nam Á. Theo nhận xét của S.E. Jakhontov thì kiến giải của Maspéro hình như phổ biến hơn nhưng kiến giải của Haudricourt lại được xem là thuyết phục hơn (3). Còn Hoàng Tuệ thì cho biết rằng “luận điểm của Haudricourt (...) là một đóng góp hết sức quan trọng”, rằng “hiện nay trong các sách sử học, dân tộc học và ngôn ngữ học xuất bản trên thế giới và ở Việt Nam, các tác giả đều nhất trí trong quan niệm dựa trên luận điểm của Haudricourt, quan niệm cho tiếng Việt thuộc họ Nam Á, nhánh Mon-Khmer, chi Việt-Mường (4).
Luận điểm căn bản trong kiến giải của Haudricourt là: chỉ có thể dựa vào từ vựng cơ bản để phân loại tiếng Việt về mặt phổ hệ mà thôi: “Cái có tính chất quyết định, đó là từ vựng cơ bản” (5). Trong một bài khác, vì buộc lòng phải thừa nhận rằng nguồn gốc của thanh điệu trong tiếng Việt hoàn toàn “không chứng minh được điều gì chống lại quan hệ tộc thuộc (của nó) với tiếng Thái” (6), Haudricourt lại võ đoán kết luận: “Vậy quan hệ tộc thuộc của tiếng Việt phải được truy tầm bằng từ vựng cơ bản” (7). Ở một chỗ khác nữa, khi đề cập đến các ngôn ngữ đơn lập có thanh điệu, ông cũng khẳng định: “Quan hệ tộc thuộc trong loại hình ngôn ngữ này chỉ có thể căn cứ trên từ vựng” (8). Luận điểm trên đây là một luận điểm sai lầm.
Từ vựng cơ bản là bộ phận từ vựng bao gồm những từ diễn đạt các khái niệm thông thường nhất hoặc cổ xưa nhất mà loài người đã có thể biết được, đồng thời cũng thường có tần số xuất hiện cao trong sự giao tiếp của cộng đồng. Do những đặc điểm này mà những từ đó vẫn được nhiều người – trong đó tất nhiên có Haudricourt – quan niệm là những đơn vị sẵn có trong các ngôn ngữ đồng tộc khi chúng tách ra khỏi nguồn gốc chung chứ không phải là kết quả của những sự vay mượn ở các ngôn ngữ khác tộc, cũng không phải là kết quả của những sự vay mượn lẫn nhau giữa các ngôn ngữ đồng tộc sau khi chúng đã tách ra khỏi ngôn ngữ gốc để trở thành những ngôn ngữ riêng biệt và độc lập. Đây là một quan niệm không đúng.
S.E. Jakhontov đã lưu ý rằng “về nguyên tắc, bất cứ từ nào cũng có thể được vay mượn” (9). Nhưng sau đó, tác giả lại phát biểu thêm rằng “những từ liên quan đến văn hóa thường dễ được vay mượn hơn cả; những lĩnh vực khác của từ vựng (ví dụ những tên gọi bộ phận cơ thể, hay trạng thái thời tiết) thì hầu như không có yếu tố vay mượn” (10). Đến đây thì chính Jakhontov đã nói sai, ít nhất cũng là sai đối với tiếng Việt. Ngôn ngữ này có rất nhiều từ chỉ bộ phận cơ thể bắt nguồn ở tiếng Hán, từ đầu,ức, sọ ~ lô, hàm, họng ~ hạng, thân, eo ~ yêu, vế ~ bễ, (cùi) chỏ ~ trửu  (cũng đọc chửu), cho đến tim ~ tâm, gan ~ can, tỳ, phổi ~ phế, thận..., rồi gân ~ cân, não, thịt ~ thoát , xương ~ xoang  v.v ( Những chữ in đậm tự nó đã là âm Hán Việt). Tiếng Khmer cũng vay mượn không ít từ chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Sanskrit và tiếng Pali mà sau đây chỉ là mấy trường hợp tiêu biểu: kbal (đầu) < Sk.kapala; kui (dương vật) < Sk.guhya, P.guyha; kđo (dương vật) < P.kàta; kai (thân thể) < Sk.,P.kàya; kut (mông đít) < Sk.,P.guda (hậu môn); chơng (chân) < Sk.,P.jangha, v.v. Rõ ràng là đối với các từ chỉ bộ phận cơ thể, không phải là “hầu như không có các yếu tố vay mượn”, mà ngược lại, rất nhiều.
Những thí dụ trên đây trong tiếng Việt và tiếng Khmer đã góp phần khẳng định ý kiến của L. Hjelmslev: “Người ta không chỉ mượn một từ vì cái vật mà nó biểu hiện không có tên gọi trong ngôn ngữ đi mượn. Người ta vay mượn vì óc bắt chước, và những từ vay mượn thì phục tùng tất cả những sự thay đổi thất thường của thị hiếu. Người ta vay mượn vì cái từ của tiếng nước ngoài tao nhã hơn, hoặc ngộ nghĩnh hơn, hoặc vui tếu hơn, hoặc thú vị hơn và chỉ có tính võ đoán mới quyết định – không một sự tính toán nào dự kiến được nó – cái gì được xem là tao nhã, ngộ nghĩnh, vui tếu và thú vị” (11). Rõ ràng là sai lầm ý kiến cho rằng những từ thuộc từ vựng cơ bản không thể là những yếu tố vay mượn. Vậy không thể dựa vào từ vựng cơ bản đề kết luận về phổ hệ của một ngôn ngữ. Đó là một điều dứt khoát. Liên quan đến vấn đề này, sau đây là ý kiến xác đáng và rành mạch của A. Meillet mà chính R. Jakobson cũng hoàn toàn tán thành nên đã dẫn lại trong bài viết của mình: “Người ta không bao giờ có thể thiết lập quan hệ tộc thuộc của các ngôn ngữ bằng sự khác biệt hoặc sự trùng hợp về từ vựng” (12).
Lấy từ vựng cơ bản làm nền tảng để xây dựng kiến giải của mình về phổ hệ của tiếng Việt, rõ ràng là Haudricourt đã làm một công việc phiêu lưu và ... vô ích. Như lời cảnh báo của J. Vendryes, đây là “một phương thức nguy hiểm” (13). Huống chi phương pháp so sánh của ông lại còn có nhiều điểm hoàn toàn không ổn. Để phản bác Maspéro, Haudricourt đã đưa ra 12 từ chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Việt (trốc (= đầu), tóc, mặt, tai, mũi, miệng, răng, lưỡi, cổ, môi, cằm, tay) để so sánh với những từ tương ứng trong 10 ngôn ngữ được xem là Nam Á: Bahnar, Khasi, Khmer, Khmu, Kuy, Mnong, Môn, Mường, Phong và Samrê. Công việc so sánh của ông đã bộc lộ những khuyết điểm sau đây về mặt phương pháp:
1/ Tiếng Kuy là một ngôn ngữ hãy còn được biết đến quá ít. Theo lời P. Lévy, tác giả của bảng từ vựng mà chính Haudricourt đã sử dụng, thì đây là một ngôn ngữ riêng biệt của một sắc dân đã từng bị người Khmer thống trị (14). Vậy hoàn toàn có khả năng là các yếu tố nguyên thủy của nó đã dần dần bị thay thế bằng những yếu tố vay mượn của tiếng Khmer. Trong trường hợp này, những từ “tương ứng” của tiếng Kuy không thể có giá trị để so sánh về phổ hệ. Huống chi trong bảng từ vựng ít ỏi của Lévy người ta còn thấy lẫn lộn cả những từ Kuy gốc Sanskrit (hẳn là mượn qua tiếng Khmer) như tévda (trời, thần) < Sk.devata–  ; dak (nước) < Sk.udaka, P.daka; phal (cày) < Sk.phàla, v.v.. thậm chí gốc Việt như dao (cây đao – d đọc như đ của tiếng Việt) < V.đao. Cả tiếng Samrê cũng chưa được biết đến mức có thể tin tưởng.
 2/ Tiếng Mường và tiếng Phong đã được khẳng định là những ngôn ngữ trong nhóm Việt - Mường. Bản thân chúng cũng cần được chứng minh là những ngôn ngữ Nam Á. Vậy đưa từ của tiếng Mường và tiếng Phong vào bảng so sánh để khẳng định nguồn gốc Nam Á của các từ Việt tương ứng là đã làm một việc làm hoàn toàn nghịch lý. Haudricourt đã làm chuyện nghịch lý ở nhiều chỗ. Trong một bài khác liên quan chặt chẽ đến bài đang xét vì cũng liên quan đến vấn đề phổ hệ của tiếng Việt, do không tìm được một cứ liệu nào của các ngôn ngữ Nam Á để chứng minh rằng thanh sắc trong từ bốn (quatre) của tiếng Việt là một hậu quả gây ra bởi sự tiêu vong của hiện tượng tắc thanh quản (occlusion glottale), Haudricourt đã giải quyết tùy tiện như sau: “Nhưng sự phối hợp không phải là không thể xảy ra vì người ta đã nhận thấy nó trong một ngôn ngữ Tạng-Miến là tiếng Lushai” (15). Ông quên rằng một sự chuyển biến ngữ âm rất có thể đã xảy ra ở một ngôn ngữ mà lại không hề hoặc không thể xảy ra ở những ngôn ngữ khác đồng tộc với nó. Nguyên âm [u] của tiếng Latin đã trở thành [y] trong tiếng Pháp nhưng vẫn tiếp tục được phát âm là [u] cho đến nay trong tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania (Ru-ma-ni), cũng là những ngôn ngữ Roman (langues romanes) như tiếng Pháp. Trong nội bộ các ngôn ngữ đồng tộc mà còn như thế, huống chi Haudricourt lại lấy cứ liệu trong tiếng Lushai là một ngôn ngữ Tạng-Miến để chứng minh cho hiện tượng đoán già đoán non là đã xảy ra trong một ngôn ngữ Nam Á. Cách làm tùy tiện đó rất xa lạ với một phương pháp so sánh nghiêm túc.
3/ Nhiều từ trong bảng so sánh của Haudricourt đã không vượt qua được một sự thẩm định từ nguyên học chặt chẽ. Trốc, chẳng hạn, đã được ông xem là Nam Á, đối với đầu là gốc Hán. Thực ra, đó cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ  mà âm Hán-Việt hiện đại là độc. Về ngữ nghĩa, chữ này đã được Mathews’ Chinese-English Dictionary giảng là “the bones on the top of the head; a skull” và Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “xương đầu, xương sọ”. Còn về ngữ âm thì tr ~ đ là một cặp tương ứng mà người ta có nhan nhản những thí dụ. Hơn nữa, trốc ~ độc thì cũng gần giống như trường hợp (Thiên) Trúc = (Thân) Độc, đều là những hình thức phiên âm từ tiếng Sanskrit Sindhu để chỉ nước Ấn Độ. Vậy trốc cũng là một từ Việt gốc Hán.
Cần nói rõ rằng Haudricourt đã mặc nhiên thừa nhận 92 từ Việt được xem là có gốc Môn-Khmer (Nam Á) do Maspéro đưa ra trong công trình năm 1912. Nhưng thực tế thì ít nhất 2/3 của số đó là những từ Việt gốc Hán trong khi không ít từ tương ứng của tiếng Khmer (mà Maspéro đưa ra) lại có gốc Sanskrit hoặc Pali. Một số khác là những từ Việt đã được tiếng Khmer vay mượn nhưng lại bị gán cho một nguồn gốc Môn-Khmer. Số từ tiếng Việt bị xem là có nguồn gốc Nam Á rốt cuộc chỉ còn lại rất ít.
Những từ Nam Á ít ỏi đó có vị trí như thế nào trong từ vựng của tiếng Việt hiện đại? Đó là một cơ tằng (substrat). Mà cơ tằng thì chẳng can dự gì đến việc sắp xếp phổ hệ của một ngôn ngữ. Tiếng Pháp hiện đại có một cơ tằng gồm khoảng 60 từ Gaulois. Đây là tàn tích của tiếng Gaulois, một ngôn ngữ Celtic mà tổ tiên người Pháp đã nói cách đây từ 2000 năm trở về trước. Nhưng không có bất cứ nhà ngữ học có uy tín nào lại nói rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Celtic chỉ vì nó còn giữ lại được 60 từ Gaulois. Tất cả đều khẳng định rằng nó là một ngôn ngữ Roman, thoát thai từ tiếng La Tinh thông tục và đồng tộc với tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania (Ru-ma-ni) cũng là những ngôn ngữ Roman như nó. Vậy cũng sẽ là hoàn toàn phi lý nếu cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á chỉ vì nó còn giữ lại được vài chục từ Nam Á ít ỏi. Chỉ khi nào chính Haudricourt chấp nhận rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Celtic thì tiếng Việt mới là một ngôn ngữ Nam Á mà thôi. Ra đời từ năm 1953, kiến giải của Haudricourt đã lên ngôi trong Việt ngữ học Việt Nam và đã thống trị ngữ tộc học về tiếng Việt trong suốt bốn thập kỷ qua.
Vì kiến giải của Haudricourt bất ổn như thế cho nên cũng đã có người thử điều chỉnh nó. Phạm Đức Dương, chẳng hạn, đã dung hòa nó với thuyết của Maspéro mà cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ “hòa hợp” có cơ tằng Nam Á và có cơ chế Đồng Thái (16). Chúng tôi sẵn sàng đồng ý với tác giả rằng tiếng Việt có thể có một cơ tằng Nam Á nếu nói về lịch sử của nó. Nhưng khi nói về phổ hệ thì cái cơ tằng đó lại chẳng có vai trò gì. Lịch sử của một ngôn ngữ và phổ hệ của nó là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Xin lại lấy tiếng Pháp làm thí dụ cho dễ thấy vấn đề. Khi viết về lịch sử của ngôn ngữ này, người ta luôn luôn nhắc đến cái cơ tằng của nó là tiếng Gaulois vì đây chính là tiếng nói của tổ tiên người Pháp về sau đã bị tiếng La Tinh thông tục thay thế. Nhưng khi viết về phổ hệ của nó, người ta phải nói rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Roman thoát thai từ tiếng La Tinh thông tục. Chẳng có ai gán ghép nó vào tiếng Gaulois. Ngôn ngữ không phải là một thực thể sinh vật học cho nên không thể xét phổ hệ của nó theo kiểu sinh vật. Do đó, tiếng Pháp cũng không phải là một ngôn ngữ “hòa hợp”, nghĩa là một thứ tiếng lai, có cơ tằng Gaulois và có cơ chế Roman. Chính Haudricourt cũng bác bỏ thuyết ngôn ngữ hòa hợp. Cách diễn đạt của Phạm Đức Dương, suy đến cùng, chẳng qua cũng chỉ là một cách thừa nhận rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ Thái.
Quả thật như thế, theo chúng tôi, cứ vào các dữ kiện được biết cho đến nay thì tiếng Việt là một ngôn ngữ Thái vì cấu trúc và cơ chế của nó là Thái như chính Phạm Đức Dương đã khẳng định. Cái bản sắc cùng với tính phổ hệ của một ngôn ngữ được bộc lộ không phải thông qua từ vựng mà thông qua cấu trúc và cơ chế của nó. Đây là một luận điểm thông thường và hoàn toàn xác đáng. Chính là xuất phát từ luận điểm này mà J. Vendryes đã viết: “Từ vựng có thể biến đổi, thậm chí từ đầu đến cuối mà ngôn ngữ không hề bị làm cho biến chất một cách có thể cảm nhận được trong cấu trúc ngữ âm hoặc ngữ pháp của nó” (17). Còn Jacques Chaurand thì viết: “Một ngôn ngữ được đặc trưng bằng sự tập hợp của những nét căn bản về ngữ âm và về hình thái mà sự gắn bó trong nội bộ của một hệ thống là một sự bảo đảm để nó chống lại các cuộc đảo lộn có thể là sâu sắc và thô bạo” (18). Cuối cùng, E. Sapir thì viết: “Chúng ta không có quyền giả định rằng một ngôn ngữ có thể nhào nặn lại một ngôn ngữ khác một cách quá dễ dàng bằng ảnh hưởng hình thái học của nó” (19). Vì vậy nên không thể chấp nhận ý kiến của Phạm Đức Dương cho rằng cơ chế của tiếng Việt là một cơ chế “mô phỏng” theo một ngôn ngữ Đồng Thái do kết quả của sự giao thoa trong quá trình tiếp xúc (20). Đó chỉ có thể là một cơ chế Thái tự thân nó mà thôi. Vậy, theo chúng tôi:
Tiếng Việt vốn là một ngôn ngữ Môn-Khmer đã bị một ngôn ngữ Thái thay thế. Điều này phù hợp với giả thuyết của Vương Hoàng Tuyên cho rằng “trên đồng bằng Bắc bộ, xưa kia là nơi cư trú của một giống người nói tiếng Môn-Khơme thì có một sự di cư to lớn của một lớp người nói tiếng Thái ở Tây nam Trung quốc tràn qua” (21). Chính ngôn ngữ Thái này đã thay thế cho ngôn ngữ Môn-Khmer kia để trở thành tiếng Việt ngày nay.

(1) BEFEO, 1912, t.XII, no 1, pp.1-124.
(2) BSLP, 1953, t.49, fasc:1, no 138, pp.122-8.
(3) X. Về sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam châu Á, Ngôn ngữ, s.1, 1991, tr.74.
(4) André-Georges Haudricourt, Kiến thức ngày nay, s.68, tr.4.
(5) Bđd, tr.125.
(6), (7) De l’origine des tons en vietnamien, JA, 1954, t. CCXLLII, fasc.1, p.82.
(8) Comment reconstruire le chinois archaðque, Linguistics Today, New York, 1954, p.231.
(9), (10) Bđd, tr.73.
(11) Le langage, trad. par Michel Olsen, les Editions de Minuit, 1969, p.90.
(12) Sur la théorie des affinités phonologiques entre les langues, in N.S. Troubetzkoy, Principes de phonologie, trad. par J. Cantineau, Paris, 1967, p.353.
(13) X. Le langage, Paris, 1921, p.364.
(14) X. Recherches préhistoriques dans la région de Mlu Prei (Cambodge), Hanoi, 1943, p.3.
(15) Như (6), (7), tr.81.
(16) X. Vấn đề proto - Việt Mường trong lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, 1986, tr.289.
(17) Sđd, tr.360.
(18) Histoire de la langue française, Paris, 1972, p.6.
(19) Le langage, trad. par S.M. Guillemin, Paris, 1953, p.192.
(20) Bđd, tr.289.
(21) Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam, Hà Nội, 1963, tr.193.

Sunday 26 August 2012

“Mình hạt sương mai”? (An Chi, Năng Lượng Mới số 149 ,24-8-2012).


“Mình hạt sương mai”? (Năng Lượng Mới số 149 ,24-8-2012).

by An Chi on Friday, August 24, 2012 at 4:36am ·
BẠN ĐỌC : Bác An Chi kính mến! Để chỉ người phụ nữ có vóc dáng mảnh mai người ta dùng thành ngữ “Mình hạt sương mai”. Thành ngữ này viết là: "Mình hạt (giọt) sương mai" hay "Mình hạc xương mai" thì đúng ạ? Có người thì lại nói bốn chữ "mình hạt sương mai" là mỏng manh dễ vỡ như giọt sương buổi sớm. Mong bác giải thích giúp. Cảm ơn bác nhiều.
Phan Lương, TPHCM.
AN CHI : “Mình hạc xương mai” là một câu thành ngữ chính xác và lâu đời cùng một kiểu cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa với hàng loạt câu khác: đầu bạc răng longđầu bù tóc rối,bụng cao dạ dốcbụng mang dạ chửa, bụng ỏng đít beo (teo),  mặt bủng da chìlưng dài vai rộngmá đào mày liễumặt hoa da phấnmặt xanh nanh vàngmôi son má phấn,tóc bạc da mồitóc mây mày nguyệtvai u thịt bắp, v.v..
Đặc điểm của những thành ngữ này là câu nào cũng bao gồm hai danh ngữ chính phụ (từ đứng sau bổ nghĩa cho danh từ trung tâm đứng trước); hai danh ngữ này đẳng lập đối với nhau; các danh từ trung tâm đều là những danh từ chỉ bộ phận cơ thể của con người và toàn bộ thành ngữ có tác dụng miêu tả hình dạng của con người. Thí dụ : đầu bạc răng long gồm có hai danh ngữ đầu bạc và răng long; trong đầu bạc thì bạc bổ nghĩa cho đầu còn trong răng long thì long bổ nghĩa cho răngđầu bạc và răng long là hai danh ngữ đẳng lập với nhau chứ không có danh ngữ nào phụ thuộc vào danh ngữ kia về mặt cú pháp; trong đầu bạc thì đầu là danh từ trung tâm còn trong răng long thì răng là danh từ trung tâm, cả hai đều chỉ bộ phận cơ thể con người; thành ngữ này có tác dụng miêu tả hình dạng của những người già cả. những câu thành ngữ còn lại cũng thế.  Câumình hạc xương mai cũng bao gồm hai danh ngữ là mình hạc và xương mai; trong mình hạc thì hạc bổ nghĩa cho mình là danh từ trung tâm, trong xương mai thì mai bổ nghĩa cho xương là danh từ trung tâm; cả mình lẫn xương đều chỉ bộ phận cơ thể con người; còn toàn bộ thành ngữ thì miêu tả hình dáng của những người mảnh khảnh, đặc biệt là phụ nữ.(Thêm khi đưa lên FB : Cũng có thể theo một quan điểm khác mà xem từng cấu trúc trên đây không phải danh ngữ mà là một cấu trúc chủ-vị). 
Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng “mình hạc xương mai” là “nhỏ xương ốm yếu, thanh cảnh, cốt cách lịch sự” (Xin x. chữ “mình”). Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Vietlex, 2007) giảng là “[vch] ví thân hình mảnh mai, duyên dáng của người phụ nữ”.
Còn “mình hạt sương mai” chẳng qua là câu nói trẹo trọ theo sở thích chủ quan hoặc do thiếu hiểu biết về chữ nghĩa từ câu “mình hạc xương mai” mà thôi. Cũng may là cái câu “mình hạt sương mai” vô duyên đó chưa “lây lan” đến mức phải lo lắng. Ta có thể lên mạng để nhặt ra nhưng cũng không nhiều, chẳng hạn :
– Thoitrangsao.vn : Nữ diễn viên Lee Da Hae khoe dáng vóc “mình hạt sương mai”;
– Caycanh.sangnhuong.com : Cây có dáng mình hạt sương mai;
– Lời bài hát “Đóa hoa vô thường” của Trịnh Công Sơn trong album “Hồng Nhung và Những Bài Top Ten” do im jess đăng trên nhacso.net :  Tìm em tôi tìm, mình hạt sương mai.
Trường hợp thuvienbao.com viết “Mình hạt xương mai” để nói về Bảo Hân thì chữ “hạt” (thay vì hạc) ở đây có lẽ chỉ là do sai chính tả. Trường hợp của im jess trên nhacso.net  thì thực sự vô ý thức vì trong album nói trên, diva Hồng Nhung, người gốc Bắc, nói giọng Bắc, đã phát âm chữ thứ sáu trong câu đầu của ca từ thành [hak6] một cách rất rõ ràng, nghĩa là với “c” cuối (chứ không phải “t”). Huống chi, lời bài hát đã được in chính xác trong tuyệt đại đa số các nguồn là : “Tìm em tôi tìm, mình hạc xương mai.”Thoitrangsao.vn, mốt miếc chưa biết hay ho đến đâu nhung chữ nghĩa thì rõ ràng là … dốt nát. Nếu từ ngữ mà nó dùng là một cấu trúc chính xác về mặt ngữ nghĩa thì tội nghiệp cho Lee Da Hae, cô ta sẽ là một nữ diễn viên yểu mệnh. Như giọt sương mai mà lại, tan liền ngay sau khi nắng lên! Rồi các cô nàng chân dài khác cũng thế. Nên nhớ rằng đây là tả hính dáng mà chẳng có dáng người nào lại tròn và nhỏ nhắn như hạt sương. Đến như cây kiểng mà cũng “có dáng mình hạt sương mai” (nghĩa là “tan trong chốc lát), như đã giới thiệu trên caycanh.sangnhuong.com thì chắc chắn các vựa cây cảnh sẽ dẹp tiệm.
Chỉ cần một chút xíu nhạy bén mà so sánh với những câu thành ngữ kể trên, ta cũng đã có thể thấy ngờ ngợ về cái cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa bất thường của câu này. Nhịp của những câu trên là “ 2 – 2 ” đều đặn còn của câu này là “ 1 – 3 ”  trong đó ta thấy hiện tượng bổ nghỉa (BN) dây chuyền rườm rà (‘mai’ BN cho ‘sương”, “sương mai” BN cho “hạt”, “hạt sương mai” BN cho “mình”). Tóm lại, “mình hạt sương mai” chỉ là một lối nói trẹo trọ, méo mó từ câu thành ngữ gôc là “mình hạc xương mai” mà ra.

Monday 23 July 2012

Từ nguyên của «bù nhìn» (An Chi Huệ Thiên)

by An Chi on Saturday, June 30, 2012 at 5:20am ·
                                                                                                                      Huệ Thiên

Ngày nay, chẳng ai lại có thể tin rằng bù nhìn là do «Bố Nhiên» (tên của một ông lão gác ruộng dưa) mà ra như Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã chú giải trong Nam thi hợp tuyển. Không kém phần hồn nhiên và tự nhiên là ý kiến trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt, «biên soạn dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam»[1], cho rằng bù nhìn là gốc ở một phương ngữ của Trung Quốc giống như mạt chược, xì dầu và ca la thầu.
Tỏ ra khoa học hơn là ý kiến sau đây của Lê Trung Hoa: «Trong từ điển của A. de Rhodes có ba dạng: bồ nhin, bồ din và mồ dìn, đồng nghĩa với bù nhìnBồ hay , theo Đỗ Hữu Châu trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, có nghĩa là «con» (bồ cóc: con cóc). Bồ cũng được đọc bù, mồ, mù. Ở thế kỷ XVII những từ nhân (người) còn đọc và viết nhin (...) Vậy bồ nhìn vốn có nghĩa là «con người» vì hình dạng con bồ nhìn là hình dạng con người. Còn nhin biến thành nhìn là do thanh huyền của từ bồ đã đồng hóa thanh ngang của từ nhin»[2].
Rất tiếc rằng lập luận trên đây không thể đứng vững được. Trước nhất, xin nói về tiếng bồ. Lê Trung Hoa đã cả tin mà nói theo Đỗ Hữu Châu rằng bồ có nghĩa là «con». Thực ra, sau khi nêu lên một số thí dụ trong đó có bù nhìn, bồ các và bồ hóng, tác giả này chỉ viết một cách ngắn ngủi và đơn giản như sau: « hoặc bồ có nghĩa là con (bồ cóc: con cóc)»[3] mà không hề chứng minh hoặc biện luận. Một kết luận «chay» như thế không thể được xem là có căn cứ. Huống chi bồ trong bồ cóc lại là một hình vị tiếng Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 鳧 mà âm Hán Việt hiện đại là phù, có nghĩa là con le le. Tiếng Việt đã từng mượn nguyên vẹn cái cấu trúc phù ông 鳧翁, có nghĩa là con le le trống, và đã đọc thành bồ ông để chỉ một giống «chim có mỏ dài», như đã được ghi và được giảng trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh của A. de Rhodes. Phù bồ là một hiện tượng hoàn toàn bình thường (so sánh: phù công anh = bồ công anh hoặc bồ công đinh) đối với ngữ âm học lịch sử về các yếu tố Việt gốc Hán. Hình vị bồ đã đi vào tiếng Việt rồi trở thành một hình vị chỉ chủng loại (générique) như có thể thấy trong: bồ chao, bồ các, bồ cắt, bồ câu, bồ cóc, bồ nông (và bồ ông). Vậy không thể nói một cách võ đoán như Đỗ Hữu Châu rằng bồ có nghĩa là «con» một cách chung chung được vì đó phải và chỉ có thể là con... chim mà thôi. Lê Trung Hoa đã dựa vào Đỗ Hữu Châu mà đánh đồng người với... chim thì oan cho người đấy. Đó là điểm thứ nhất.
Thứ hai, Lê Trung Hoa nói rằng «bồ cũng còn được đọc bù, mồ, mù» nhưng rất tiếc rằng người ta chẳng bao giờ nói «mù chao», «mù cắt», «mù câu», «mù nông»,... Lý do rất đơn giản: bồ trong các cấu trúc chỉ chim trên đây không đồng nhất với bồ trong bồ nhìn. Chỉ có hình vị sau cùng này mới có các biến thể bù, mồ, mù.
Thứ ba, với cách giải thích của mình (bồ nhìn = con người), Lê Trung Hoa đã mặc nhận rằng nhìn là một hình vị độc lập. Điều này hoàn toàn trái ngược với sự thật: trong lịch sử tiếng Việt, nhìn > nhin > nhân bao giờ cũng là một hình vị ràng buộc.
Thứ tư, Lê Trung Hoa cho rằng nhin trong bồ nhin biến thành nhìn trong bồ nhìn là do «thanh huyền của từ bồ đã đồng hóa thanh ngang của từ nhin». Điều này cũng trái ngược với kết quả của ngữ âm học lịch sử về các yếu tố Việt gốc Hán: trong mối quan hệ có tính chất nguồn gốc giữa thanh 2 với thanh 1 thì thanh 2 bao giờ cũng xưa hơn. Thí dụ: – dùng trong duyên dùng (của phương ngữ Nam bộ) xưa hơn dung 容 trong dung mạo; – dầm trong mưa dầm xưa hơn dâm trong dâm vũ; – liều trong liều lĩnh xưa hơn liêu 聊 trong liêu thả, v.v... Vì vậy mà bồ nhìn phải có trước bồ nhin. Thì làm sao có chuyện «thanh huyền của bồ đồng hóa thanh ngang của nhin »?
Vì bốn điểm trên đây nên chúng tôi mới nói rằng lập luận của Lê Trung Hoa không thể đứng vững được. Ngoài cách giải thích của tác giả này, trước đây, N. V. Xtankêvich đã có đưa ra một cách giải thích rất đáng chú ý. Bà đã viết như sau: «Hiện nay, ít ai nghĩ đến việc liên hệ nhìn trong bù nhìn (...) với động từ nhìn (như trong mắt nhìn) vì ai cũng nghĩ đơn giản rằng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên về mặt ngữ âm. Thật ra đây vốn không phải là hiện tượng thuần túy đồng âm đâu. Theo ông Nguyễn Bạt Tụy cho biết, ở ngôn ngữ dân tộc ít người còn có thể tìm được cứ liệu cho thấy rõ  có nghĩa làtrông nhìn (...) và bù nhìn (...) vốn là kết cấu gồm hai yếu tố đồng nghĩa đẳng lập với nhau. Như vậy nhìn trong bù nhìn (...) vốn đúng là động từ với nghĩa như trong mắt nhìn (...). Sở dĩ người ta không dễ dàng nghĩ đến điều đó chỉ là vì chúng được đặt vào trong những kết cấu có ý nghĩa đã chuyển đi xa, mà việc chuyển nghĩa đi xa trong quá trình kết hợp với yếu tố khác là một hiện tượng không lạ lùng gì đối với ngôn ngữ học»[4].
Hoàn toàn đồng ý với N. V. Xtankêvich rằng «việc chuyển nghĩa đi xa trong quá trình kết hợp với yếu tố khác là một hiện tượng không lạ lùng gì đối với ngôn ngữ học», chúng tôi vẫn không cho rằng cách lý giải của bà về nguồn gốc của danh từ bù nhìn là thỏa đáng. Lý do của chúng tôi như sau:
Một là tất cả những quyển từ điển tiếng Việt quen thuộc đều giảng đại ý rằng bù nhìn là «vật hình người» – điều này tất nhiên là hoàn toàn đúng – cho nên liên hệ yếu tố nhìn, tiền thân của nhin, rồi của nhân, với cái nghĩa «người» thì hợp lý hơn là nói rằng nhìn là một hoạt động liên quan đến thị giác.
Hai là dựa vào , một yếu tố đã mất nghĩa – hoặc cũng có thể chỉ là kết quả của biện pháp âm tiết hóa yếu tố thứ nhất của một tổ hợp phụ âm đầu – để luận ra nghĩa của nhìn, một yếu tố chưa biết nghĩa, thì có sợ là đã làm một chuyện nghịch lý hay không?
Ba là, huống chi, nếu nhìn có quả là một động từ chỉ hoạt động của mắt, thì bù cũng không nhất thiết có nghĩa là «trông nhìn» như Nguyễn Bạt Tụy đã phát hiện. Nghĩa của nó hoàn toàn có thể là ngược lại: biết rằng bù nhìn cũng nói thành mù nhìn, vậy  có thể =  = mất khả năng nhìn. Có lẽ cũng do một sự liên hệ như thế mà người ta đã có câu đối (xuất) Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù chăng? Xét theo lý thì cách giải thích này và cách giải thích kia đều có giá trị ngang nhau.
Bốn là, huống chi, hoàn toàn không nhất thiết hễ trong ngôn ngữ của một dân tộc ít người nào đó ở Việt Nam (hoặc Đông Dương) có một từ có nghĩa là «nhìn» mà lại có dáng dấp ngữ âm từa tựa như  thì  trong bù nhìn tất nhiên phải có nghĩa là «nhìn». Lý do rất đơn giản: muốn khẳng định như thế, thì ít nhất và trước nhất, phải chứng minh được rằng trong quá khứ xa xôi, giữa tiếng Việt và ngôn ngữ hữu quan đã chắc chắn có một cội nguồn chung mà lại là trực hệ chứ cũng không phải bàng hệ. Mà ngay cả nếu có chứng minh được lối liên quan trực hệ thì cái động từ có nghĩa là «nhìn» trong tiếng Việt và thứ tiếng kia cũng không nhất thiết phải là những từ cùng gốc. Vậy dựa vào tiếng nói của một dân tộc ít người nào đó để luận ra rằng  trong bù nhìn có nghĩa là «trông nhìn», là đã làm một việc mạo hiểm.
Năm là đứng về cấu tạo từ trong tiếng Việt mà xét thì cái kiểu dùng một cấu trúc đẳng lập gồm hai động từ vốn có nghĩa là «trông nhìn» để tạo ra một danh từ chỉ thằng bù nhìn là một kiểu cấu tạo hoàn toàn lạ lẫm. Đây là chuyện rất khó tin.
Tóm lại, cách giải thích của Lê Trung Hoa và cách giải thích của N. V. Xtankêvich là không thỏa đáng. Về phần mình, chúng tôi xin đưa ra các nguyên từ (etymon) sau đây cho từ nguyên của từ bù nhìn.
1. Trước nhất, một thân hữu có thông báo cho chúng tôi rằng đó là bồ nhân 蒲人, nghĩa là cái hình nhân kết bằng cỏ bồ. Đây rõ ràng là một nguyên mẫu lý tưởng rất đẹp cho từ bù nhìn. Cá nhân chúng tôi cũng đã ấp ủ cái ý tưởng ấy. Thằng bù nhìn là một thằng người giả kết bằng cỏ bồ dùng để dọa chim chóc hầu góp phần bảo vệ mùa màng thì nghe ra rất có lý. Tiếng Hán gọi bù nhìn là cảo nhân. Vậy đã nói được cảo nhân thì sao không nói được bồ nhân? Hiềm một nỗi, chúng tôi tìm mãi mà không ra được chứng cứ bằng văn liệu hẳn hoi của hai chữ bồ nhân. Bồ đoàn, bồ điếm, bồ luân, bồ phiến, bồ tịch, bồ tiên, bồ xa, v.v... , thì có mà bồ nhân thì không. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là cái cấu trúc bồ nhân đã không hề tồn tại trong tiếng Hán. Tuy nhiên, vì bản thân mình chưa tận mắt nhìn thấy nó nên trong trường hợp này chúng tôi đành phải nghĩ đến câu nói của J. Vendryes, rằng cáivraisemblable không phải bao giờ cũng vrai.
2. Chúng tôi muốn đưa ra cấu trúc danh từ tính tiếng Hán phù nhân 符人(= người bùa), căn cứ theo nghĩa của các cấu trúc bồ nhin, bồ din và mồ dìn mà A. de Rhodes đã cho trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh: «Những hình làm bằng rơm được các thầy phù thủy dùng để làm hại người khác» và «Hình bằng rơm mà các thầy phù thủy dùng làm bất cứ điều ác nào họ muốn để nhờ ma quỷ làm hại người khác»[5].
Cứ theo những lời giảng trên đây thì bù nhìn rất có thể có nghĩa gốc là «người bùa», tức là cái thứ hình nhân có công dụng như A. de Rhodes đã nói, rồi về sau mới chuyển nghĩa như đang được hiểu hiện nay. Bùa, âm cổ của phù 符, chuyển thành bồ/bù là chuyện có thể xảy ra, còn nhìn hẳn hoi là âm xưa của nhân. Vậy bù nhìn phù nhân không phải là chuyện không hợp lý. Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa tìm thấy được sự hiện diện của cấu trúc phù nhân trong thư tịch nên cũng phải dè dặt mà tạm gác trường hợp này lại.
3. Có thể đây là trường hợp của cấu trúc mạo nhân 冒人 (= người giả). Giả thiết mù là âm xưa của mạo hoàn toàn có thể tin tưởng được (so sánh: mạo 帽 ~ ) còn nhìn thì, như đã thấy, là âm xưa của nhân. Vậy mù nhìn (> bù nhin) ~ mạo nhân. Cấu trúc này đã được tiếng Tày-Nùng vay mượn thành mào nhền, cũng dùng với nghĩa là bù nhìn. Ngoài ra, ngôn ngữ này còn có cấu trúc mào làng, có nghĩa là hình nhân, trong đó làng là lang 郎 còn mào cũng mạo 冒. Nhưng chúng tôi cũng chưa tìm thấy cấu trúc này trong thư tịch bằng tiếng Hán.
4. Bù nhìn mù nhìn cũng thực sự thích hợp về nghĩa với mộc nhân 木人 (đồng nghĩa với mộc ngẫu – tượng gỗ) là một cấu trúc dễ dàng tìm thấy trong thư tịch. Sự chuyển nghĩa từ «tượng gỗ» sang cái nghĩa thường dùng của hai tiếng bù nhìn hiện nay hoàn toàn có thể giải thích được.
5. Nhưng cuối cùng, cái nguyên từ của bù nhìn mà chúng tôi chính thức lựa chọn là môn nhân 門人 , có âm xưa là mùn nhìnMùn là âm xưa của môn, một chữ thuộc vận bộ hồn (mà nhập thanh là một 没), một vận bộ gồm có nhiều chữ mà phần vần xưa cũng là -unđun (= đẩy) là âm xưa của đôn 敦 trong đôn đốc; đùn (= đẩy cho tụ lại thành đống), của đồn 屯 trong đồn tụđụn, của độn 囤 (nơi chứa thóc quay bằng phên liếp); hùn trong hùn hạp, của hỗn 混 trong hỗn hợpmút  trong mút mắt, của một 没 trong một thế (= suốt đời); đụt (yếu kém về trí khôn), của đột (đồng nghĩa với độn 鈍); ngút trongngút ngàn, của ngột 兀 (= cao); ... Trở lên là nói về mối quan hệ un - ôn giữa mùn và môn, còn về quan hệ thanh 2 ~ thanh 1 giữa hai yếu tố này thì cũng giống như trường hợp nhìn > nhin (nhân) đã nói trên kia. Cuối cùng mùn nhìn → mù nhìn chẳng qua là do một sự dị hóa phụ âm cuối của âm tiết thứ nhất từ [n] thành zéro vì trong cấu trúc này có đến bốn âm mũi (m-, -n, nh-, -n) trong đó âm cuối của tiếng thứ nhất và tiếng thứ hai đều là n.
Trên đây là nói về ngữ âm. Còn về ngữ nghĩa thì sự chuyển dịch từ cái nghĩa «người gác cửa» của môn nhân sang cái nghĩa «hình người bằng rơm đóng vai trò của người trông coi ruộng nương để dọa chim chóc» của mù nhìn không phải là điều gì khó hiểu trong ngữ học.
Từ trên đây suy ra, mù nhìn có trước bù nhìnmù nhìn và bù nhìn có trước mồ nhìn và bồ nhìn còn mù nhìn thì bắt nguồn từ tiếng Hán 門人 mà âm Hán Việt xưa là mùn nhìn. Ý kiến của chúng tôi về từ nguyên của bù nhìn là như thế, xin mạo muội nêu ra để thỉnh giáo ở các nhà chuyên môn. ●
(Tháng 2-1998)
* Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên - Huế, số 1-1998.
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 223-232.
[1] Nxb. KHXH. Hà Nội, 1983. tr.65
[2] Nguồn gốc các từ thằn lằn, bồ nhìn, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 12 (26), 1997, tr.26.
[3] Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1981, tr.33.
[4] Loại hình các ngôn ngữ, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1982, tr.167.
[5] Bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. KHXH, 1991.

Tuesday 24 April 2012

Hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ do đâu mà ra? (An Chi - Bách Khoa Tri Thức)



An Chi: Có ý kiến cho rằng thổ mộ là do tiếng Pháp tombereau mà ra. Ý kiến này không đúng vì người Pháp ở Sài Gòn và Nam kỳ trước đây chỉ gọi xe thổ mộ là boîte d’allumettes (= hộp quẹt) hoặc tac-à-tac, “có lẽ vì khi chạy, vó ngựa chạm mặt đường trải đá nghe (...) “tắc tắc” (tách tách)”, như Vương Hồng Sến đã cho biết trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (Nxb Văn hóa, 1993). Họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là “tombereau”.
Lại có ý kiến cho rằng thổ mộ là do thảo mã mà ra vì đây là xe chở cỏ cho ngựa ăn (ở đồn Tây) thời trước. Ý kiến này cũng lạ: người ta khó mà biết được tại sao thảo mã lại có thể trở thành “thổ mộ”. Huống chi, bản thân hai tiếng thảo mã đã là tiếng Việt, dù là đọc theo âm Hán Việt. Hay là người đề xướng cách giải thích này muốn liên hệ đến âm Quảng Đông của hai tiếng thảo mã là tshổu mạ chăng? Thổ mộ quả có na ná với tshổu mạ trong tiếng Quảng Đông nhưng dân Quảng Đông thì có liên quan gì với sự hoạt động ở các đồn Tây thời trước? Huống chi tshổu mạ (- thảo mã) chỉ có nghĩa là con ngựa bằng cỏ hoặc con “ngựa cỏ” tức ngựa hoang (?) chứ đâu phải là “xe chở cỏ cho ngựa ăn”.
Chỉ có cách hiểu thổ mộ là ngôi mộ bằng đất thì mới thật sự phù hợp để giải thích nguồn gốc của hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ mà thôi: cái thùng xe thổ mộ với cái mui khum khum của nó rất giống với hình một nấm mộ bằng đất.