Showing posts with label Việt Nam Cộng Hòa. Show all posts
Showing posts with label Việt Nam Cộng Hòa. Show all posts

Friday 3 December 2021

Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 đặt ở đâu?

 



Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đặt ở trại Trần Hưng Đạo, gần phi trường Tân Sơn Nhất, từ năm 1965 cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến. Thành Cộng Hòa, tức thành Ông Dèm, chưa bao giờ là địa điểm đặt Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Chính Trị Quốc Gia, tr.3) khéo tưởng tượng.

Monday 7 October 2019

Những cánh thư xưa mang dấu ấn KBC (Nguyễn Ngọc Chính - Hồi Ức Một Đời Người)

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2019


Những cánh thư xưa mang dấu ấn KBC

KBC là chữ viết tắt của "Khu Bưu Chính". Đây là một đơn vị quân bưu, chuyên về nhận và chuyển phát thư từ, điện tín của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mỗi KBC gồm có 3 chữ cái viết hoa, tiếp theo là 4 con số. KBC của QLVNCH được bắt đầu bằng số: 3, 4, 6 và 7.

KBC mang số nhỏ nhất: KBC 3001 (Tiểu đoàn 51 Pháo Binh). KBC mang số lớn nhất: KBC 7889 (Tiểu đoàn 475 Địa phương quân - Long Xuyên).
KBC của các đơn bị Bộ binh và Không quân không được thiết lập theo nguyên tắc nào cả. Riêng quân chủng Hải quân khi mới thành lập thì tất cả đều mang số 33 đầu và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến cũng mang số 33 vì TQLC lúc đó thuộc về Hải quân. Cho đến năm 1972-1973 các đơn vị tân lập của Hải quân và TQLC mới mang KBC giống bên Bộ binh.
Thông thường thì một KBC là 1 đơn vị quân đội. Nhưng có khi KBC lại có thêm chữ A hay B như trường hợp Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC 4091. Trung Tâm này được chia làm 2 là Liên Đoàn A và Liên Đoàn B. Bởi vậy, Quang Trung có 3 KBC: KBC 4091 là Bộ chỉ huy trung tâm, KBC 4091/A là Liên đoàn A và KBC 4091/B là Liên đoàn B.

Lại có trường hợp như Nha Quân Pháp (trực thuộc Bộ quốc Phòng), KBC 4386. Còn KBC 4386/A lại là Toà án Quân sự Sài Gòn. Cả 2 KBC trên đều ở cùng 1 doanh trại tại số 3A Bến Bạch Đằng, Quận 1 (sát cạnh với Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo).

KBC 4002 là Bộ tổng tham mưu/QLVNCH. Nhưng Bộ chỉ huy Quân Cảnh cũng nằm trong cùng doanh trại với Bộ TTM nên mang KBC 4002/QC một thời gian dài. Sau mới được cấp KBC riêng là KBC 4258.
Lại có trường hợp thường thấy ở các đơn vị tác chiến lưu động. Thí dụ, Tiểu đoàn 1 TQLC, KBC 3333. Tiểu đoàn đang đi ‘’hành quân’’ thì trên bì thư được ghi là KBC 3333/HQ.
Sau đây là KBC của một số Tiểu đoàn trừ bị nổi tiếng của QLVNCH. Các Tiểu đoàn Nhảy Dù có:

– Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù KBC 4563
– Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù KBC 4247
– Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù KBC 4794
– Tiểu đoản 4 Nhảy Dù (không thành lập)
– Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù KBC 4709
– Tiểu đoàn 6 Nhảu Dù KBC 4143
– Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù KBC 4919
– Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù KBC 3119
– Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù KBC 4804
– Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù KBC 3727

Các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến có:

– Bộ tư lệnh TQLC KBC 3331
– Tiểu đoàn 1 TQLC KBC 3333
– Tiểu đoàn 2 TQLC KBC 3335
– Tiểu đoàn 3 TQLC KBC 3337
– Tiểu đoàn 4 TQLC KBC 3339
– Tiểu đoàn 5 TQLC KBC 3357
– Tiểu đoàn 6 TQLC KBC 3300
– Tiểu đoàn 7 TQLC KBC 3340
– Tiểu đoàn 8 TQLC KBC 6618
– Tiểu đoàn 9 TQLC KBC 6626

Về binh chủng Biệt Động Quân ngoài các đơn vị BĐQ biên phòng thì còn lại cũng là những Tiểu đoàn trừ bị. Sau này các đơn vị BĐQ biên phòng đổi thành Tiểu đoàn. BĐQ gồm có 17 Liên đoàn, mỗi liên đoàn có 3 Tiểu đoàn. Như vậy binh chủng BĐQ có trên 50 Tiểu đoàn. Sau đây là KBC của một số đơn vị BĐQ:

– Bộ chỉ huy BĐQ KBC 4205
– Tiểu đoàn 33 BĐQ KBC 3446 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 32 BĐQ KBC 3447 Phong Dinh
– Tiểu đoàn 51 BĐQ KBC 3505 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 52 BĐQ KBC 3506 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 37 BĐQ KBC 3507 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 38 BĐQ KBC 3508 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 39 BĐQ KBC 3509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 43 BĐQ KBC 3516 Vĩnh Long
– Tiểu đoàn 44 BĐQ KBC 3517 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 34 BĐQ KBC 4013 Sài Gòn
– Tiểu đơàn 31 BĐQ KBC 4272 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 35 BĐQ KBC 4400 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 36 BĐQ KBC 4454 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 42 BĐQ KBC 4533 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 60 BĐQ KBC 7508 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 61 BĐQ KBC 7509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 62 BĐQ KBC 7510 Kontum
– Tiểu đoàn 63 BĐQ KBC 7511 Pleiku
– Tiểu đoàn 64 BĐQ KBC 7512 Hậu Nghĩa
– Tiểu đoàn 65 BĐQ KBC 7513 Tây Ninh
– Tiểu đơàn 85 BĐQ KBC 7553 Chi Lăng
– Tiểu đoàn 86 BĐQ KBC 7554 Kiến Tường
– Tiểu đoàn 88 BĐQ KBC 7560 Kontum
– Tiểu đoàn 89 BĐQ KBC 7561 Quảng Đức
– Tiểu đoàn 90 BĐQ KBC 7562 Kontum
– Tiểu đoàn 91 BĐQ KBC 7563 Tây Ninh
– Tiểu đoàn 92 BĐQ KBC 7564 Phước Long
Ngoài các binh chủng trên còn có các đơn vị khác, tuy cùng màu áo nhưng là các đơn vị không trực tiếp tác chiến như tiếp vận, hành chánh, yểm trợ, pháo binh, quân y… Hoặc cấp cao hơn Tiểu đoàn là Liên đoàn, Lữ đoàn hay Chiến đoàn… tất cả đều có KBC riêng.
Dưới đây là một số KBC của binh chủng Hải Quân:

– Bộ tư lệnh Hải Quân KBC 3317
– Bộ tư lệnh hạm đội KBC 3328
– Trung tâm Huấn luyện HQ Nha Trang KBC 3318
– Trung tâm Huấn luyện HQ Cam Ranh KBC 3319
– Giang đoàn 25 Xung phong KBC 3303 Cần Thơ
– Giang đoàn 28 Xung phong KBC 3305 Long Xuyên
– Giang đoàn 21 Xung phong KBC 3321 Mỹ Tho
– Giang đoàn 51 Tuần thám KBC 3332 Cát Lái
Tại Quân khu 3 và Biệt khu thủ đô nếu thanh niên nhập ngũ thường được tập trung ở Trung tâm 3 Tuyển mộ và Nhập ngũ (Quang Trung) KBC 4113. Đài phát thanh quân đội được mang KBC 3168. Các quân nhân chuẩn bị du học, đa số là quân nhân của quân chủng Không quân và Hải quân thì hầu hết phải qua cánh cổng của Trường Sinh ngữ Quân đội ở Gò Vấp, KBC 3095.
Sau đây là KBC của một số trường và trung tân huấn luyện:

– Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC 4091
– Trường Bộ Binh Thủ Đức KBC 4100
– Trường Võ bị Đà Lạt KBC 4027
– Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế (Nha Trang) KBC 4311
– Trường Quân cảnh (Vũng Tàu) KBC 3042
– Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp (Bà Rịa) KBC 4432
– Trường Quân khuyển (Gò Vấp) KBC 4941
– Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn (Dục Mỹ) KBC 4926
– Trường Thiếu sinh quân (Vũng Tàu) KBC 4437

Các quân nhân thuộc Quân khu 3 và Biệt khu Thủ đô được biệt phái ngoại ngạch (như các công chức, giáo sư, chuyên viên…) hoặc chờ thuyên chuyển sau khi xuất viện (bị thương, bệnh…) hoặc chở giải ngũ thì quân số thuộc về Trung tâm Quản trị Trung ương KBC 4204.


Sau đây là một số KBC của quân chủng Không quân:

– Bộ tư lệnh Không quân KBC 3011 (Tân Sơn Nhứt)
– Đại đội Tổng hành dinh Không quân KBC 3009 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 1 Không quân KBC 3198 (Đà Nẵng)
– Sư đoàn 2 Không quân KBC 3126 (Nha Trang)
– Sư đoàn 3 Không Quân KBC 3004 (Biên Hòa)
– Sư đoàn 4 Không quân KBC 4652 (Phong Dinh)
– Sư đoàn 5 Không quân KBC 4324 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 6 Không quân KBC 3533 (Phù Cát)

***
Chỉ cần 3 chữ KBC mọi người sẽ có một nhịp cầu nối giữa quân nhân và người thân. Việc gửi thư của lính cũng hưởng nhiều ưu đãi của Bưu Điện, như cước phí gửi thư chỉ bằng phân nửa giá gửi thư thường của dân sự.
Quân đội cũng phát hành một số tem đặc biệt dành cho quân nhân, những con tem này không có giá tiền trên tem nhưng có giá trị gửi một lá thư đi. Ngoài ra, quân đội còn in thêm một số bao thư in sẵn tem trên đó để tiện lợi cho các chiến sĩ đang hành quân. Bao thư và tem được phát miễn phí cho các quân nhân hay gia đình của họ.
Những ai yêu thích nhạc vàng của VNCH một thời xưa cũ hẳn không lạ gì bài hát "Viết từ KBC", sáng tác bởi Hoàng Minh và Mạc Phong Linh:
"Từ KBC giá lạnh rừng sâu,
Anh gởi lời thăm người em yêu dấu
Qua bao ngày chúng mình xa nhau,
Chắc em để phấn son nhạt màu
Và buồn trong cả giấc chiêm bao...."
***






























***

Tuesday 9 April 2013

Có mấy tiểu đoàn Trâu Điên trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa?

Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa mang danh hiệu tiểu đoàn Trâu Điên từ tháng 4/1965. Lính Trâu Điên là lính (tiểu đoàn 2) Thủy Quân Lục Chiến, nhưng không phải lính (Thủy Quân Lục Chiến) nào cũng là lính Trâu Điên. Không hiểu sao báo Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh tìm được những hai tiểu đoàn Trâu Điên ở cầu Rạch Chiếc và nhà máy điện Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 trong khi tiểu đoàn Trâu Điên đã tan hàng sáng 29 tháng 3 ở Đà Nẵng.

Tuy nhiên nhà báo Đức Hiển nổ còn thua xa nhà thơ Hữu Thỉnh. Bản trường ca Đường tới thành phố (giải thưởng Hội Nhà Văn 1980) của ông này hồn nhiên hát như sau:
Giặc đổ xuống ba tiểu đoàn “trâu điên”
Bò theo chúng hai hàng máy ủi
Trận đánh lại bắt đầu mới nguyên
Súng lại nổ như chưa từng ác liệt
Quân Giải Phóng đánh nhau với một tiểu đoàn Trâu Điên là đủ điên rồi. Cùng một lúc nổ súng với ba Trâu Điên thì quả là chưa từng ác liệt.

Tuesday 11 September 2012

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: những từ đã đi vào quá khứ (Nguyễn Ngọc Chính)

Nguồn: http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/97/97



Ngôn ngữ là phương tiện trao đổi ý tưởng – suy nghĩ trong cuộc sống hàng ngày nên cũng phải thay đổi theo cách sống và lối sống của từng thời kỳ. Sự kiện tháng 4/1975 là một cột mốc thay đổi lớn nhất trong đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của người miền Nam, kéo theo sự mai một của một số từ ngữ vốn đã dùng quen hàng ngày.

Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính trị tại miền Nam cho nên những từ ngữ có liên quan đến ý thức hệ cũ dần dần đã đi vào quá khứ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Bài viết này có mục đích ghi lại những từ ngữ đã một thời phổ biến trong xã hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những gì cha ông đã thường nói trong cuộc sống hàng ngày.

Chiêu hồi là một trong những từ ngữ của Sài Gòn xưa và sẽ dần dần đi vào quên lãng. Đây là một chương trình do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề ra để khuyến khích các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miềnNam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền được thực hiện dưới nhiều hình thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua những chương trình phát thanh và đài phát thanh [1].

Giấy thông hành

Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các cán binh, du kích trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy thông hành có cờ VNCH và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4 ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần dưới có nội dung như sau:

“MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh Phủ Quốc Gia các bạn sẽ được:
  • Đón tiếp tử tế
  • Bảo đảm an ninh
  • Đãi ngộ tương xứng
(Ký tên)
Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa

Bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm nhạc hiệu cho các chương trình phát thanh Chiêu hồi (Nghe Ngày Về qua giọng ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):

"Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao ngày xanh…”

Điều khá lý thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn là nhạc sĩ theo kháng chiến chống Pháp và đã từng là đội viên tuyên truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm 1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ý nhất. Năm 1948 Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật như một nhạc sĩ và cũng là một ca sĩ được Hà thành hâm mộ.

Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng, vượt thời gian như Mơ hoaNgày vềHương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con trai là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.

Báo Công an Nhân dân trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Mãi giấc mơ hoa” có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về: “Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”

Nhạc sĩ Hoàng Giác

Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánhhay hồi chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn Chính (con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến  và Vượt Trường Sơn, đã qua đời tại Texas năm 2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị tử hình vào ngày 30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan văn Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự…

Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà

Chiêu hồi ngoài ý nghĩa chính trị còn được dùng như động từ để chiêu dụai đó, chẳng hạn như: “Hắn đã ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy nước về làm việc dưới trướng”. Gần đây, trênhttp://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.

Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết: “Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…” (http://www.trantrungdao.com/?p=262).

Thuật ngữ “chém vè” cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miềnNamChém vè nguyên thủy có ý nghĩa ẩn mình dưới nước hoặc những nơi lùm bụi rậm rạp gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba (cua đinh) với hai càng rất khỏe còn gọi là . Hễ nghe tiếng động, hai  của nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.

Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán binh “giã từ vũ khí” để chuẩn bị “hồi chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh về ý thức hệ.

Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận xa M113, chú thích của NNC], bỏ chạy trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở đây chỉ thuần túy là ẩn núp.

Theo hồi ký “Chém vè giữa làng báo Sài Gòn” của nhà văn Nguyên Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong trường hợp này chỉ việc những cán bộ Cộng sản, sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài Gòn để “trường kỳ mai phục”, hoạt động trong lòng địch hay còn gọi là “nằm vùng”.

Nằm vùng” quả là một từ vừa gợi hình lại gợi ý. Đối với chính quyền VNCH, nằm vùng là một từ có ý miệt thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động bí mật cho Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản”. Mãi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm vùng mới dần dần lộ diện.

Theo cuốn Decent Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, có đến hàng chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm vùng” tại miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Họ có thể là một người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo đuổi công việc của mình nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố Sài Gòn còn đang trong thời kỳ hỗn mang.

Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ Sài Gòn, nổi bật nhất là nhân vật tình báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong khi chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn không biết ông còn là Đại tá trong Quân đội Nhân dân ở miền Bắc.

Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng sản nằm vùng”, ông thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu.

Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là cơ quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963, Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng.

Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật vì ngày càng nhiều nghi vấn ông là “Việt Cộng mằm vùng”. Phạm Ngọc Thảo bị chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục an ninh quân đội (Số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày 17/7/1965 khi mới 43 tuổi. 

Những năm hoạt động “nằm vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc được ngụy trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà tình báo. Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh vì ông hoạt động “đơn tuyến”. Mãi sau này, một số đồng đội đã sưu tầm tài liệu về ông và đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm 1987, nhà cầm quyền truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với quân hàm đại tá và mộ của ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).

Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy). Đối với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn không kém!

Tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) được mở đầu bằng câu: “Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng”. Nhân vật chính trong truyện, Nguyễn Thành Luân, chính là hình ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí danh Chín T. hay Chín Thảo.

Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia

Nhân vật “nằm vùng” thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng tình báo của Hà Nội với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn sống tại Sài Gòn dưới vỏ bọc ký giả làm việc tại Việt tấn xã, cộng tác với hãng thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí TimeNew York Herald TribuneThe Christian Science Monitor...

Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về Hà Nội 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin thu lượm cùng phân tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là người đã từng được đào tạo về ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan tình báo miền Nam cũng như miền Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.

Ngày Sài Gòn đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đã rời Việt Nam theo chiến dịch di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đã đề nghị cấp trên cho ngưng công tác vì lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moscow - Hà Nội - Sài Gòn.

Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”, lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New York mà ông được mời với tư cách khách đặc biệt. Trong những năm cuối đời, có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những gì ông chứng kiến tại Việt Nam sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who Loved Us: “Dân chúng tại đây [Việt Nam] không được viết tự do. Đó là vì sao tôi không viết hồi ký”.

Năm 1978 Phạm Xuân Ẩn ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Sự kiện này được xem như một hình thức “cải tạo” và ông giải thích vì lý do đã “sống quá lâu trong lòng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.

Ông đã từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/1975 (Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm 1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xã, phụ trách bộ phận các phóng viên ngoại quốc làm việc trong cơ quan này). 

Phạm Xuân Ẩn và các con

Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng tình báo của Hà Nội cũng là một trường hợp “nằm vùng” ngay trong đầu não của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam, kéo dài từ năm 1954 đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Miền Bắc ca tụng ông là “điệp viên siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”.

Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đã từng sát cánh với Giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh, Phạm Ngọc Thảo trở thành một người tâm phúc, thường xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhất Cộng hòa có “bốn con rồng”:Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Hồng Long (Ngô Đình Thục), Thanh Long(Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn). Cố vấn Ngô Đình Nhu đã gọi Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ nhất Cộng hòa.

Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong nhóm tướng trẻ, tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc viên với Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm tìm chỗ dựa chính trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai trò này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị gia cả trong dân sự lẫn quân sự.

Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm mạng lưới tình báo A.22 (vốn là mật danh riêng của Nhạ) được hình thành và phát triển.Thành công ngoạn mục nhất của cụm tình báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng thống Thiệu.

Tháng 8/1968, tướng Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một phần cho Hà Nội trước khi ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.

Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại

Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ trong quân lực VNCH, cũng đã có vài trường hợp “nằm vùng”. Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội Mỹ.

Sự gia tăng bất ngờ về số khóa sinh tại trường SNQĐ khiến nhà trường phải tuyển thêm quân nhân có khả năng tiếng Anh từ các đơn vị về để đào tạo thành giảng viên. Đại úy Q. thuộc thành phần bổ xung đó. Q. về trường khi đã đeo lon Đại úy từ một đơn vị chiến tranh chính trị. Anh là một sĩ quan hiền lành, ít nói nhưng sau ngày 30/4/75 bạn bè cũ mới “bật ngửa” khi biết anh thuộc hàng ngũ… bên kia chiến tuyến.

Sau thời gian cải tạo tôi trở về Sài Gòn gặp lại Q. khi đó là nhân viên hành chánh của trường Đại học Kinh tế. Tôi tiếp xúc với anh một cách dè dặt trong một vài buổi họp mặt các anh em giảng viên cũ. Sau đó Q. biến mất khỏi các cuộc gặp gỡ, có lẽ vì không chịu nổi những xầm xì, bàn tán về vai trò “nằm vùng” của mình.

Trường hợp “nằm vùng” thứ hai ở trường SNQĐ là Thiếu úy NCD, một người được tuyển thẳng từ Thủ Đức về trường. Cũng như Đại úy Q., Thiếu úy D. là người ít nói và hầu như rất ít giảng viên trong trường để ý đến người thanh niên “trầm lặng” này. Có một số anh em giảng viên nói chính Thiếu úy NCD đã “tiếp quản” trường SNQĐ những ngày đầu tháng 5/75.

Sau này hành tung của viên thiếu úy “nằm vùng” được sáng tỏ: anh của NCD là một cán bộ cao cấp. Được coi là một trí thức Marx-Lenin, Viện sĩ NCT (Sáu Quang), anh ruột NCD, là nguyên Bí thư Thành Đoàn giai đoạn 1977 - 1981, Trưởng Ban quản lý Khu Chế Xuất – Khu Công Nghiệp đầu tiên của thành phố, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài và hiện là Viện phó Viện khoa học công nghệ Phương Nam (thuộc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam). Có người anh như vậy nên thiếu úy NCD không “nằm vùng” mới là chuyện lạ!

Với những câu chuyện “nằm vùng” điển hình ở mọi cấp chính quyền miền Nam kể trên, quân đội miền Bắc ngày càng tiến dần đến thủ đô và người Sài Gòn ngỡ ngàng trước biến cố 30/4/1975. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” có lẽ là một trong những triết lý thâm thúy nhất được rút ra trong cuộc chiến vừa qua.

===  

Chú thích:

[1] Chương trình Chiêu hồi phát động dưới thời Đệ nhất Cộng hòa vào đầu năm 1963 theo hai mô hình mẫu của Phi Luật Tân và Mã Lai Á: chương trình EDCOR của Philippines để chiêu dụ lực lượng cộng sản Hukbalahap và chương trình của Sir Robert Thompson thuộc quân đội Anh để bình định tại Malaysia.

Chương trình này trực thuộc Bộ Công dân vụ của Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu và một thời mang tên Phong trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm đường. Sau năm 1963 thì phân ban Chiêu hồi trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965 thì chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi riêng để điều hành hệ thống chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của bốn vùng chiến thuật, mỗi tỉnh có một Ty Chiêu hồi.

Huy hiệu ngành Chiêu hồi

Năm 1967 chính phủ đưa ra chính sách Đại đoàn kết. Theo đó thì các thành phần hồi chánh không những được giúp đỡ để tái định cư và đoàn tụ cùng gia đình mà còn được trưng dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên kia chiến tuyến. Chính sách này chưa mấy hiệu quả thì sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 xảy ra. Biến cố này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an ninh bất ổn, nhưng đến năm 1969 thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt tổng số 47.023 người trong năm 1969.

Trong thời gian từ năm 1963 đến 1973 chương trình Chiêu hồi thâu nhận hơn 194.000 người hồi chánh, tức là loại được bấy nhiêu quân đối phương khỏi chiến trường. Người Hồi chánh được chuyển vào 1 trong hơn 200 trại để “học tập chính trị” trong thời gian từ bốn đến sáu tuần. Cùng lúc đó họ được phát quần áo và thức ăn, đến khi xuất trại thì trả về nguyên quán hoặc định cư ở những vùng ấn định. Một số được kết nạp vào Cục Tâm lý chiến. Ngày 18/2/1973 Bưu chính VNCH cho phát hành con tem "Chiêu hồi" với giá tiền10 đồng để kỷ niệm người hồi chánh thứ 200.000.

Tem Chiêu-Hồi của VNCH

[2] Nguyên Hùng là một trong số những nhà văn, nhà báo “nằm vùng” hoặc “thiên Cộng”. Trong số này phải kể đến Vũ Bằng, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Thiếu Sơn, Lý Văn Sâm... Sau này còn được bổ sung thêm một đội ngũ trẻ hơn và giữ những vai trò gây tác động trong đời sống báo chí và chính trị miền Nam như Huỳnh Bá Thành (còn được biết đến qua tên Họa sĩ Ớt trên báo Điện Tín), Cung Văn, Hoàng Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc Thạch, Hoàng Minh Phương, Kỳ Nhân...

[3] Phạm Ngọc Thảo (1922-1965) cùng 12 người từ miền Nam được cử ra Sơn Tây để theo học Khóa 1 trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào năm 1946. Khi ra trường, Thảo được điều về Phú Yên với nhiệm vụ giao liên. Trong thời gian này, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ vào Nam, đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.

Thảo được giao nhiệm vụ Trưởng phòng Mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – là tổ chức tình báo đầu tiên của miền Bắc ở Nam Bộ. Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được “tập kết” ra Bắc. Cũng có một số ít cán bộ đã được lệnh bí mật ở lại để “nằm vùng”, trong đó có PNT ở lại miền Nam để hình thành “lực lượng thứ ba” theo lệnh của Lê Duẩn.  

Dưới vỏ bọc của một giáo sư, Thảo về dạy học tại trường Nguyễn Trường Tộ, Vĩnh Long, thuộc giáo phận của Giám mục Ngô Đình Diệm, anh của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo, ông đã từng làm lễ rửa tội cho Thảo và coi như con nuôi. Chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với “cố vấn” Ngô Đình Nhu để vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.

Nhờ chính sách “đả thực, bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với chính nghĩa quốc gia của Ngô Đình Diệm, PNT đã khôn khéo công khai hết quá khứ theo kháng chiến của mình, chỉ trừ một điều không nhận là Đảng viên Đảng Cộng sản. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang cấp bậc Đại uý “đồng hóa”.

PNT còn được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị, Vĩnh Long, và sau đến tháng 10/1956 gia nhập đảng Cần Lao, phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên. Trong hàng ngũ Quốc gia, Thảo đã viết 20 bài báo trên tạp chí Bách Khoa nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo....

Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và nâng cao tên tuổi của PNT. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị tại Phủ tổng thống, thực chất là cơ quan mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, PNT được thăng thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.

Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá Bùi Dzinh và Trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất nhằm lật đổ chính phủ của Tướng Nguyễn Khánh. Hội đồng tướng lãnh cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Khi biết tin quyền lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.

Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự “thay đổi chế độ”. Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.

[4] Phạm Xuân Ẩn (1927-2006), sinh tại xã Bình Trước, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa quân sự và quân đội từ Pháp sang Việt Nam và từ ViệtNam về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam.

Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. Năm 1953 tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), PXA được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1957, PXA qua Mỹ học ngành báo chí trong 3 năm và khi về nước ông làm việc tại Sở Nghiên cứu Chính trị của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, PXA làm việc cho Hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1965 đến năm 1976 ông là phóng viên người Việt chính thức và duy nhất của tuần báo Time tại Sài Gòn, ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor...

Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh, sau khi biết tin PXA là một điệp viên, bực tức nói rằng: “Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó”. Một phóng viên khác, Peter Arnett, mềm mỏng hơn: “Tôi không biết phải xử lý ra sao đối với Phạm Xuân Ẩn. Tôi hiểu anh là một người Việt Nam yêu nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện nghề nghiệp... Trong hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó tôi lại nghĩ ra rằng chẳng qua đó là công việc riêng của anh”.

McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở châu Á nói: “Tôi có căm giận Phạm Xuân Ẩn không sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh? Hẳn nhiên là không. Tôi nghĩ Việt Nam là quê hương của anh. Nếu tình thế đổi ngược lại, chắc tôi cũng sẽ làm như anh mà thôi. Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp của tôi và là một phóng viên sáng giá. Phạm Xuân Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường về hiện tình chính trị Việt Nam, và đáng chú ý là những tin tức tài liệu của anh chính xác một cách lạ thường”.

[5] Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002), tên thật Vũ Đình Long, sinh tại Thái Bình, tham gia Việt Minh sau ngày Toàn quốc kháng chiến, gia nhập đảng Cộng sản năm 1947, năm 1951 trở thành Thị ủy viên của thị xã Thái Bình. Bị kỳ thị vì xuất thân gia đình gốc địa chủ và Công giáo nên đã bỏ Việt Minh, về sống ở quê ngoại tại Phát Diệm, Ninh Bình.

Tại Ninh Bình, VNN tham gia Tổng bộ tự vệ Phát Diệm do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo. VNN trở thành phụ tá của hai vị thầy tu khét tiếng chống Cộng này. Di cư vào Nam năm 1954, VNN tiếp tục phụ giúp việc đạo cho linh mục Hoàng Quỳnh tại giáo xứ Bình An (Sài Gòn) cho đến ngày bị bắt.

Theo tiết lộ của Tiền Phong Online, VNN đã từng là một trong 300 đại biểu kháng chiến được mời về dự Hội nghị chiến tranh du kích đồng bằng Bắc Bộ: “Sau vài lần gặp gỡ, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn anh vào hàng ngũ những người tiên phong làm công tác tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài, anh được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh phái vào Nam hoạt động”.

Tại trại giam, VNN viết bản tường trình phân tích nguy cơ đe dọa chế độ mà Ngô Tổng thống đã dày công vun đắp” đã khiến Ngô Đình Cẩn, sau đó là cả Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm quan tâm và chú ý. VNN đã khéo léo tiết lộ cho anh em họ Ngô biết rằng tất cả những ý kiến trong tờ trình đều là chính kiến của Giám mục Lê Hữu Từ. Đánh giá rất cao trách nhiệm và sự sâu sắc của bản báo nguy chế độ, anh em Diệm - Nhu đã mời Vũ Ngọc Nhạ về làm cố vấn.

Thâm nhập vào nền Đệ nhất Cộng hòa, VNN nhanh chóng liên kết với các đồng chí nằm vùng” của mình như Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe... hình thành nên một mạng lưới tình báo (lưới A.22) nắm giữ các vị trí chóp bu trong chính phủ Sài Gòn để khai thác tin tức chiến lược.