Showing posts with label chính sách ngôn ngữ. Show all posts
Showing posts with label chính sách ngôn ngữ. Show all posts

Saturday 20 July 2013

Ai dốt?



Trong bài ChữViệt Gốc Pháp Còn Tồn Tại Đến Ngày Nay, Nguyễn Đức Tuấn có nhận xét như sau:
Số chữ Việt gốc Pháp có hơn trăm và hiện tại vẫn còn được sử dụng ở nhiều nơi, kể cả ở miền Bắc, nơi đả phá việc sử dụng tiếng nước ngoài. Bạn nên biết rằng sau khi Hồ Chí Minh lên nắm chính quyền, việc sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp bị cấm tuyệt đối, thuở ấy, miền Bắc rất cực đoan, những gì thuộc về thực dân đều bị kịch liệt đả phá. Thế nhưng vẫn có nhiều chữ lọt lưới. Lấy ví dụ: PHANH (cái thắng), LốP (vỏ xe), SăM (ruột xe), CUốC (chuyến đi bộ hay xe), Xà CộT (cái bọc đựng đồ phụ tùng), BI đôNG (bình nước), CồN (alcool)..., dân vẫn thản nhiên nói, không những thế, xí nghiệp Nhà nước còn sản xuất SăM, LốP, PHANH... và để nguyên xi các chữ đó trên bao bì.
ông kết luận luôn:
Thì ra có cả một tập thể dốt, thấy đó mà không biết gốc gác.

Thứ nhất, không có chuyện sau khi Hồ Chí Minh lên nắm chính quyền, việc sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp bị cấm tuyệt đối. Có chuyện đại học chỉ dùng tiếng Việt để giảng dạy không dùng tiếng Pháp, nhưng chuyện đó có gì xấu xa? Người Pháp đi rồi, cũng là chuyện tự nhiên nếu tiếng Pháp nhường chỗ cho tiếng Việt trên sách báo, giấy tờ, trong giao thiệp hàng ngày, cần ai phải ra lệnh cấm?

Thứ hai, có thể nghĩ rằng thuở ấy, miền Bắc rất cực đoan, những gì thuộc về thực dân đều bị kịch liệt đả phá. Nhưng từ ngữ gốc Pháp không thuộc về thực dân mà thuộc về từ vựng tiếng Việt. Có nhà ngôn ngữ học đầu ngành (Tập SanNghiên Cứu Văn Sử Địa số 26 (1957:68, Hồng Giao) chủ trương không dùng ghi đông (thay bằng tay lái), juýp (thay bằng váy), phờ-ri-dê (thay bằng uốn tóc)..., nhưng đây thực chất là thanh toán tập quán nói năng của một bộ phận dân cư (nói trắng ra là trí thức cũ), tiến đến thống nhất ngôn ngữ (thống nhất ý thức là chuyện sẽ bàn sau) không phải là chống những gì thuộc về thực dân. Vì vậy mà HồngGiao (1957:68) không thích đui xết, nhưng lại chấp nhận 12 ly bảy (li là một từ gốc Pháp, millimètre), không thích pu-lô-vơ nhưng chấp nhận áo len cộc tay (len cũng là từ gốc Pháp laine).

Hồng Giao (1957:68) không điên cũng không dốt. Ông không đả phá từ gốc Pháp. Ông đánh từ ngữ (gốc Pháp hay gốc gì cũng thế) của ai đó (trí thức cũ), nhưng ông ủng hộ từ ngữ (gốc Pháp hay gốc gì cũng thế) của chính ông (và các đồng chí của ông). Bởi vậy mới có chuyện giữ lại PHANH (cái thắng), LốP (vỏ xe), SăM (ruột xe), CUốC (chuyến đi bộ hay xe), Xà CộT (cái bọc đựng đồ phụ tùng), BI đôNG (bình nước), CồN (alcool)... Nhưng không phải các từ ngữ đó lọt lướicả một tập thể dốt, thấy đó mà không biết gốc gác. 

Tuesday 27 November 2012

Vấn đề chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt (Nguyễn Thiện Giáp)


2006/12/19, 17:46:10

Vấn đề chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt

• Nguyễn Thiện Giáp

1. Từ vựng chuẩn và chuẩn hoá từ vựng

Như trên đã chứng minh[1], gần một thế kỉ qua, từ vựng tiếng Việt đã lớn mạnh phi thường cả về chất lượng lẫn số lượng. Nhưng do đã được phát triển vào những thời kì khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau, nên từ vựng tiếng Việt hiện nay không khỏi còn những chỗ chưa thống nhất. Điều đó gây cản trở cho sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa học của chúng ta. Cho nên, chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
Nói đến chuẩn hoá từ vựng thì phải hiểu thế nào là chuẩn từ vựng. Theo chúng tôi, từ vựng chuẩn là những từ đã được trau chuốt, gọt giũa, đã được sàng lọc để phục vụ hữu hiệu nhất cho yêu cầu giao tiếp văn hoá của toàn dân tộc. Như vậy, chuẩn từ vựng được hình thành dần dần trong quá trình sử dụng. Chuẩn từ vựng không đứng yên tại chỗ mà cũng vận động phát triển theo thời gian. Chuẩn hoá từ vựng thuộc phạm trù quy phạm hoá (cordination) ngôn ngữ. Quy phạm hoá ngôn ngữ là kết quả nhận thức khoa học về những quy luật thể hiện chuẩn ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển ngôn ngữ, là sự tập hợp những quy luật về cách dùng từ và các hình thái trong mọi phong cách của ngôn ngữ văn hoá.
Nội dung của chuẩn hoá từ vựng bao gồm cả ba mặt:
  • Mặt ý nghĩa của từ ngữ
  • Mặt ngữ âm của từ ngữ
  • Mặt chữ viết của từ ngữ
Về mặt ngữ nghĩa, một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt chính xác nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm. Trước đây, có người đã dùng từ "mẹo" để diễn đạt khái niệm "ngữ pháp". Mặc dù từ "mẹo" ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu lầm nên không thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng đến nghĩa gốc của nó là "cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một hoàn cảnh nhất định để giải quyết việc khó", trong khi ngữ pháp lại là quy luật khách quan, không phải con người tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái niệm "ý nghĩa ngữ pháp" thì nếu nói "ý nghĩa mẹo" thì thật khó mà hiểu được. Để diễn đạt khái niệm "performative" nếu dùng thuật ngữ "ngữ vi" cũng dễ nhầm là phạm vi ngôn ngữ. Theo chúng tôi, thuật ngữ "ngôn hành" là thích hợp hơn.
Về mặt ngữ âm, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở phương ngữ Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì thế, đứng trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể  và nhâng dâng vànhân dândĩa và đĩagáo và gạo,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,... là chuẩn. Khi các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng thì từ của phương ngữ Bắc Bộ được coi là chuẩn. Chẳng hạn, giữa các từ  và đâunỏ và khôngchộ vàthấy,... thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn. Cần lưu ý là các tiêu chuẩn của cái gọi là chuẩn chỉ tồn tại ở giá trị xã hội của nó chứ không động chạm đến bản thân hệ thống cấu trúc của nó. Vì thế, những hình thức ngôn ngữ khác với chuẩn không phải là những hình thức "dưới chuẩn" hoặc "không chuẩn". Trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định vẫn có thể dùng nó. Thực tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương trong cả nước phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ vấn đề chính âm. Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là vô cùng quan trọng trong vấn đề này.
Về mặt chữ viết, chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng. Ngôn ngữ trước hết là để nói, nhưng trong thực thế giao lưu văn hoá và xã hội ngày nay, chữ viết có một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là cơ sở để bảo đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể nóicoong cháo, nhâng dâng, dô,... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân, vô,... Người miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâulồi với nồixung với sung,... nhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái nồi,...
Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật.

2. Chuẩn hoá các từ ngữ thông thường

Đối với các từ ngữ thông thường, nổi lên là vấn đề cách viết và các đọc. Trường hợp có nhiều biến thể ngữ âm khác nhau, cách viết và cách đọc nên theo những quy định của Hội đồng Chuẩn hoá chính tả và Hội đồng Chuẩn hoá thuật ngữ năm 1983, như sau:
a. Khi thói quen đã làm cho mặt ngữ âm của từ biến đổi và ít nhiều có khác với từ nguyên (gốc Việt hoặc gốc Hán), thì cần phải căn cứ vào thói quen mà xác định chuẩn chính tả, bởi vì thói quen của đại đa số trong nhân dân là một tiêu chí có ý nghĩa quyết định. Ví dụ:
chỏng gọng (so sánh với chổng gọng)
đại bàng (so sánh với đại bằng)
b. Khi thói quen chưa làm rõ một hình thức ngữ âm nào có tính chất ổn định thì nên dựa theo tiêu chí về từ nguyên để xác định chuẩn hoá chính tả, tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hoá, đáng được coi trọng. Ví dụ:
trí mạng (so sánh với chí mạng)
Tuy nhiên, cần tránh truy từ nguyên một cách tuỳ tiện.
c. Khi trong thực tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác định được một chuẩn duy nhất thì có thể chấp nhận cả hai hình thức ấy. Ví dụ:
eo sèo – eo xèo
sứ mạng – sứ mệnh...
Hội đồng lưu ý rằng, trong các trường hợp trên, khi chuẩn chính tả đã được xác định, thì cần nghiêm túc tuân theo, đặc biệt ở sách giáo dục.
Khi đọc, giáo viên và học sinh cần cố gắng dựa vào chuẩn chính tả mà phát âm. Trong ngôn ngữ nói thì chưa yêu cầu cao về phát âm chuẩn bởi vì chuẩn hoá và thống nhất phát âm là một công việc phức tạp và lâu dài.
Trường hợp phát âm thống nhất nhưng chữ viết khác nhau, nên theo quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục năm 1980 như sau:
Các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống nhất bằng i, trừ uy (như: duy, tuy, quy...), ví dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị... Chú ý: i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, ví dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, ầm ĩ, im, yêu...
Đối với các từ ngữ thông thường, chuẩn hoá về mặt ngữ nghĩa được đặt ra đối với những sáng tạo mới (từ mới, nghĩa mới, cách dùng mới) chỉ được coi là hợp chuẩn khi nó bắt nguồn từ cơ cấu nội tại, từ xu hướng phát triển của bản thân tiếng Việt. Chúng ta có thể nói các phương tiện thông tin đại chúng thì cũng có thể nói các phương tiện giao thông đại chúngmáy đẻ, có thể coi là hợp chuẩn vì mô hình cấu tạo chúng đã có trong tiếng Việt: máy khoan, máy giặt...

3. Chuẩn hoá các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật

Các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật phải được coi là một bộ phận có tính chất riêng trong từ vựng tiếng Việt nói chung, bởi vì những khái niệm khoa học không phải là của riêng của người Việt mà là tải sản chung của các dân tộc nói các tiếng khác nhau. Xác định chuẩn mực cho bộ phận từ vựng này phải tính cả đến mối tương quan với dân tộc và quốc tế.
Tiêu chí nổi lên hàng đầu là phải đảm bảo tính chính xác của khái niệm. Nếu các thuật ngữ tự đặt ra trên cơ sở các yếu tố có sẵn của tiếng Việt không bảo đảm tính chính xác thì thà tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài còn hơn. Nếu các thuật ngữ tự đặt ra đảm bảo tính chính xác thì tất nhiên không cần tiếp nhận các thuật ngữ nước ngoài. Nếu tính chính xác của khái niệm được đảm bảo thì mặc nhiên thuật ngữ có được tính hệ thống và tính quốc tế về nội dung. Không nên câu nệ vào tính hệ thống và tính quốc tế về hình thức mà phương hại đến tính chính xác của thuật ngữ. Muốn thuật ngữ có tính chính xác, thì thuật ngữ nên có một nghĩa, tránh hiện tượng đồng nghĩa, đồng âm có thể gây lẫn lộn, hiểu lầm. Do vậy, theo chúng tôi, trong ngôn ngữ học, các thuật ngữ "nghĩa sở chỉ" (referentive meaning), "nghĩa sở biểu" (significative meaning), "động từ ngôn hành(performative verb), "tiền đề" (presuposition), "hành động tại lời" (locutationary act), "hành động ngoài lời" (illocutationary act), "hành động sau lời" (perlocutationary act),... thích hợp hơn các thuật ngữ: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, động từ ngữ vi, tiền giả định, hành động tạo lời, hành động ở lời, hành động mượn lời (hành động xuyên ngôn)...
Theo giáo sư Lê Khả Kế, những thuật ngữ tự tạo sau đây chẳng những dễ hiểu mà cũng chính xác và có hệ thống:
(sâu bọ) cánh cứng  coléoplère
(sâu bọ) cánh dadermaplere
(sâu bọ) cánh mànghymenoplère
(sâu bọ) cánh thẳngorthoplère
(sâu bọ) cánh úpplécoplère
(sâu bọ) hai cánhdiplère
đơn thứcmonôme
nhị thứcbimôme
tam thứctriôme
đa thứcpolyôme
Để thẩm định tính chính xác của thuật ngữ, cần nắm vững nội dung khái niệm mà thuật ngữ diễn đạt. Chỉ riêng các nhà ngôn ngữ học thì sẽ không làm nổi việc này mà cần có sự phối hợp giữa các nhà ngôn ngữ học với các nhà khoa học thuộc các ngành khác. Công việc cấp bách hiện nay là biên soạn các cuốn từ điển khái niệm chuyên ngành. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có điều kiện để chọn lựa hợp lí những thuật ngữ đang được sử dụng trên sách báo hiện nay.
Đối với những thuật ngữ tiếp nhận từ tiếng Hán, điều cần lưu ý là: Mặc dù chúng ta tiếp nhận các thuật ngữ khoa học từ tiếng Hán hiện đại nhưng chúng ta vẫn đọc theo âm Hán Việt và viết theo cách viết của chữ quốc ngữ. Vì thế, với người không biết chữ Hán, từ ngữ tự cấu tạo (trên cơ sở các yếu tố Hán Việt) và từ ngữ tiếp nhận của tiếng Hán không khác gì nhau bao nhiêu. Có lẽ trong một số trường hợp, trật tự các yếu tố trong thuật ngữ mới tiếp nhận không thuận với tư duy Việt Nam. Ví dụ: dân ý, dân chủ tập trung, hạ tầng cơ sở, thượng tầng kiến trúc... Trong trường hợp này, có thể đảo lại là:ý dân, tập trung dân chủ, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng...
Đối với các thuật ngữ tiếp nhận từ các ngôn ngữ Ấn-Âu, chủ yếu là từ tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức thì vấn đề nổi lên là chính tả và phát âm. Gần một thế kỉ qua, có hai xu hướng luôn luôn tranh chấp nhau:
  • Một là, xu hướng phiên theo âm là chính
  • Hai là, xu hướng phiên theo chữ là chính
Xu hướng đầu xem ngôn ngữ như một hệ thống thuần nhất, chỉ chấp nhận vần và con chữ tiếng Việt và cách viết rời từng âm tiết. Thuật ngữ phương Tây, khi vào tiếng Việt thì phải tuân theo cách viết và cách đọc của tiếng Việt. Những người ủng hộ xu hướng này cho rằng làm như vậy mới đảm bảo tính dân tộc và tính đại chúng của thuật ngữ.
Xu hướng thứ hai xem ngôn ngữ là một hệ thống của hệ thống, chuẩn hoá thuật ngữ phải tính tới tương lai, tới giao lưu quốc tế. Vì thế, trong khi duy trì những thói quen phát âm, ghép vần đã được quy định trong hệ thống chữ quốc ngữ, vẫn có thể dùng một số ít vần không hợp với cấu trúc âm tiết tiếng Việt, và một số chữ cái vốn không có trong hệ thống chữ cái tiếng Việt hiện nay.
Trên đây là nhận xét về mặt lí luận. Trong thực tế, còn có rất nhiều giải pháp nửa vời nữa. Cho nên, bức tranh về thuật ngữ ngoại nhập ở Việt Nam rất đa dạng. Cùng một thuật ngữ gốc, nhưng có nhiều dạng tồn tại khác nhau ở Việt Nam. Ví dụ:
  • an-đe-hít, anđêhit, an dê hit, aldehyd
  • gơ-lu-cô-dơ, glu-cô, glucô, glu-cô-da, glucos
  • pơ-rô-tít, prôtit, protit, protid
  • ...
Trong sự chuẩn hoá thuật ngữ khoa học gốc Ấn-Âu, cần tính tới sự phát triển của ngôn ngữ khoa học trong tương lai, tính tới sự phá triển của khoa học, kĩ thuật cũng như sự phá triển của nền giáo dục các cấp sẽ tạo nên những triển vọng mới về năng lực ngôn ngữ của nhân dân. Trên cơ sở những ý kiến tiếp nhận qua các cuộc hội thảo khoa học trong các năm 1979, 1980 tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Chuẩn hoá Chính tả và Hội đồng Chuẩn hoá Thuật ngữ năm 1983 cho rằng: “đối với những thuật ngữ vốn ở nước ngoài mà được dùng trong tiếng Việt thì sự quy định chính tả nên dựa trên hình thức phổ biến của những thuật ngữ ấy trên chữ viết. Trong ngôn ngữ khoa học, mà chủ yếu là ngôn ngữ viết, cần nhớ kĩ mặt chữ thuật ngữ và cần khai thác giá trị thông tin của nó. Đối với những thuật ngữ này, chính tả là chính. Về ngữ âm thì dần dần hướng dẫn để tiến tới có được cách phát âm thống nhất trong cả nước. Cụ thể, Hội đồng chấp nhận:
  • Các phụ âm đầu và tổ hợp phụ âm đầu vốn không có trong tiếng Việt, như: bl, br, cr, p, z, str, w
  • Các phụ âm cuối vốn không có trong tiếng Việt, như: d, d, f, g, j, l, r, s, v, w, z
Đối với những thuật ngữ đã được dùng phổ biến trong tiếng nước ngoài thì có thể dùng một hình thức đã thành thói quen trên phạm vi quốc tế. Hình thức ấy có thể được điều chỉnh, như có thể rút gọn, ví dụ: gram, lít, mét. Đó là những điều chỉnh có thể chấp nhận được, vì những thuận tiện nhất định và do những thói quen nhất định đã hình thành trong thực tiễn.
Trong sự điều chỉnh ấy, nên tránh lấy yêu cầu đồng hoá theo ngữ âm (và theo chữ viết) tiếng Việt làm tiêu chí chủ đạo. Đồng thời, yêu cầu chú ý đến mối quan hệ giữa các thuật ngữ trong toàn bộ hệ thống”(1).

4. Chuẩn hoá các tên riêng (phần đầu)

Tên riêng là gì? Câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng không phải không có vấn đề. Trong các sách ngữ pháp phổ thông, người ta đã phân biệt danh từ chung và danh từ riêng. Danh từ chung là danh từ dùng để gọi những sự vật thuộc cùng một loại, danh từ riêng là những danh từ dùng để làm tên riêng để gọi tên từng sự vật, đối tượng riêng lẻ. Những tên người như: Hồ Xuân Hương, Ngô Văn Sở,... Những tên đất như: Nghệ An, Thanh Hoá,... Những tên sông như: Hồng Hà, Cửu Long,... Những tên công trình như: cầuLong Biên, chùa Một CộtTruyện Kiều,... Những tên gọi các sự kiện lịch sử như: Hội nghị Paris, Cách mạng Tháng Tám,... Đó đúng là những tên gọi của những cá nhân hoặc cá thể. Nhưng tên gọi của các dân tộc như Việt Nam, Lào, Ê-đê, Tày, Nùng,... lại chỉ một loại người, chứ không phải chỉ từng cá nhân mà vẫn lại được gọi là tên riêng. Trong thiên hà của chúng ta, chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, nhưng mặt trời, mặt trăng lại không được coi là tên riêng. Đến tên các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, như: Bộ Ngoại giao, Vụ Tổ chức Cán bộ, Chính phủ, Quốc hội,... thì ranh giới giữa cái chung và cái riêng là ở đâu? Có lẽ tên riêng nên được coi là những từ, ngữ dùng để gọi tên những thực thể vật chất và tinh thần có vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá–xã hội, tồn tại với tư cách là những cá thể trong tư duy của từng dân tộc. Đối với người Việt, đó là:
  • Những tên chỉ người, tên cá nhân, dân tộc,... Ví dụ: Nguyễn Trãi, Việt Nam,...
  • Những tên chỉ nơi chốn, núi, sông, hồ, tỉnh,... Ví dụ: (núi) Tản Viên, (sông) Hồng, (tỉnh) Nghệ An,...
  • Những từ ngữ chỉ công trình xây dựng và công trình văn hoá. Ví dụ: (chùa) Dâu, (cầu) Long Biên, Truyện Kiều,...
  • Những từ ngữ chỉ các cơ quan, tổ chức xã hội,... Ví dụ: Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo,...
  • Những từ ngữ chỉ từng thời kì, từng sự kiện lịch sử,... Ví dụ: (thời kì) Lí–Trần, Cách mạng Tháng Tám, Hội nghị Paris, Nghị quyết 8 BCHTWĐ,...
Cần phân biệt tên riêng tiếng Việt và tên riêng không phải tiếng Việt.
Đối với tên riêng tiếng Việt, vấn đề đặt ra là phải xác định các thành tố của tên riêng và cách viết hoa tên riêng như thế nào cho hợp lí.
Trước hết, phải nói về tên người, tên người Việt ở dạng đầy đủ gồm ba thành tố:
Tên họTên đệm
(không bắt buộc)
Tên cá nhân
NguyễnTrãi
VănChiến
TrầnThịMai
Yếu tố Thị được dùng để phân biệt giới tính, hễ là nữ thì có thể dùng Thị. Hiện nay có xu hướng bớt dùng từ Thị phân biệt giới tính. Phần đệm có xu hướng hoặc gắn với phần tên cá nhân để tạo thành tên ghép của cá nhân, như: Nguyễn Mĩ Hạnh, Nguyễn Thu Thuỷ hoặc gắn với tên họ để tạo thành họ ghép, ví dụ: một người bố họ Phan, mẹ họTrần thì có thể sẽ đặt tên con là Phan Trần Mĩ. Một họ phát triển thành nhiều chi, mỗi chi có thể lấy một từ khác nhau để phân biệt, ví dụ:
  • Nguyễn Văn Hạnh
  • Nguyễn Khắc Phục
  • Nguyễn Duy Thư
  • Nguyễn Hữu Vị
Có họ lại dùng tên đệm để phân biệt các hệ khác nhau, ví dụ:
  • Tôn Quang Phiệt
  • Tôn Gia Ngân
  • Tôn Tích Hải Đăng
  • Tôn Đức Hải Phong
Khi đặt tên, người ta thường gửi gắm nhiều tâm tư, tình cảm, ước vọng của mình vào đó, nhưng dù là tên đơn hay tên ghép, dù là họ đơn hay họ ghép, thì xét về bản chất cũng chỉ là dấu hiệu để phân biệt cá thể này với cá thể khác mà thôi. Vì vậy, cần viết hoa tất cả các âm tiết và không có gạch nối. Điều này đã được Hội đồng Chuẩn hoá Chính tả và Thuật ngữ quy định từ năm 1983, nên tuyên truyền rộng rãi để thực hiện thống nhất.
Về tên gọi chỉ nơi chốn (các địa danh), quan niệm về các thành tố của nó chưa hẳn đã thống nhất, nên cách viết hoa cũng không thống nhất. Chẳng hạn:
  • hồ Gươm hay Hồ Gươm
  • sông Hương hay Sông Hương
  • hồ Tây hay Hồ Tây
  • Tỉnh Hà Tây hay tỉnh Hà Tây
Chúng tôi nhận thấy, các từ Hồ trong Hồ Gươm, Hồ TâySông trong Sông HươngTỉnhtrong Tỉnh Hà Tây đều là danh từ chung, không phải là thành tố của tên riêng. Hiển nhiên, các danh từ chung có thể được dùng để cấu tạo tên riêng, nhưng khi đó nó không còn mang ý nghĩa ban đầu nữa. Ví dụ: núi Trường Sơn (sơn cũng là núi), sông Hồng Hà( cũng là sông), thị trấn Chợ Đồn, đảo Hòn Bóng, núi Hòn Rau, núi Hòn Đấu. Đã là tên riêng thì phải kết hợp được với một danh từ chung chỉ loại của nó ở trước. Ta không thể nói hồ Hồ Tây, hồ Hồ Gươm, hồ Hồ Than Thở,... nên chỉ Tây, Gươm, Than Thở mới là tên riêng.
Khi đã xác định rõ thành tố của tên riêng rồi thì tất cả các âm tiết trong tên riêng chỉ nơi chốn đều viết hoa như quy định của Hội đồng Chuẩn hoá Chính tả và Thuật ngữ.
Tên riêng chỉ các tổ chức xã hội cũng chưa được quan niệm thống nhất về các thành tố và cách viết của chúng. Hội dồng Chuẩn hoá Chính tả và Thuật ngữ năm 1983 quy định: Tên tổ chức, cơ quan chỉ viết hoa âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng làm tên. Ví dụ:
Trường đại học bách khoa Hà Nội
Trong thực tế, chúng ta còn gặp những dạng như:
  • Trường Đại học bách khoa Hà Nội
  • Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
  • trường Đại học bách khoa Hà Nội
  • trường Đại học Bách khoa Hà Nội
  • ...
Đối tượng biểu thị của nhân danh và địa danh là những cá nhân, cá thể riêng biệt, còn đối tượng biểu thị của những tên gọi cơ quan, tổ chức xã hội tuy cũng là những thực thể nhưng chỉ tồn tại với tư cách là những cá thể trong tư duy, cho nên những ý niệm được dùng trong tên chỉ cơ quan, tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong việc nhận diện, phân biệt cá thể này với cá thể khác. Trong khi các ý niệm được dùng trong nhân danh, địa danh chỉ bổ sung thêm sắc thái biểu cảm, hoặc văn hoá chứ không thể căn cứ vào đó để nhận diện đối tượng. Một người xấu xí vẫn có thể đặt tên là Mĩ, một người tham lam, ích kỉ vẫn có thể đặt tên là Thảo. Ý nghĩa của các từ ngữ trong tên riêng chỉ cơ quan, tổ chức xã hội về cơ bản vấn giống ý nghĩa của chúng trong khi sử dụng tự do. Các từ ngữ chỉ gắn kết với nhau để tạo thành một tên gọi cố định mà thôi. Do đó, yếu tố đầu tiên trong tên gọi chỉ cơ quan, tổ chức xã hội là những yếu tố chỉ loại đơn vị, như:bộ, cục, vụ, viện, đảng, đoàn, hội, uỷ ban, mặt trận, ban, trường,... Những yếu tố khác có giá trị hạn chế về mặt tính chất, chức năng, nhiệm vụ, địa điểm,... Tất cả các yếu tố ấy đều có giá trị như nhau trong việc phân biệt và nhận diện đối tượng nên mỗi chữ cái đầu của mỗi từ ngữ thể hiện những ý niệm ấy đều nên viết hoa.
Như thế, dạng đầy đủ của tên gọi phải là: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Trong ngữ cảnh nhất định, có thể tỉnh lược thành Trường Đại học Bách khoa, Trường Bách khoa, Bách khoa.
Tên các thời kì lịch sử, các sự kiện lịch sử, các danh hiệu tôn vinh cũng nên viết hoa theo cách đó. Ví dụ:
  • Anh hùng Lao động
  • Hiệp định Geneva
  • Hội nghị Paris
  • Huân chương Độc lập
  • (thời) Lí–Trần, (thời) Bắc thuộc
  • Nhà giáo Nhân dân
  • Nhà giáo Ưu tú
  • Trận Điện Biên Phủ
  • ...
Tên gọi các chức vụ như chủ tịch, thủ tướng, bộ trưởng, viện trưởng v.v... không phải là tên riêng nên không cần phải viết hoa. Trong thực tế, để biểu thị ý kính trọng, người ta có thể viết hoa âm tiết đầu của tên gọi chức vụ nhưng không nên đưa ra những quy định bắt buộc về điều này.

4. Chuẩn hoá các tên riêng (phần cuối)

Đối với những tên riêng không phải tiếng Việt, cần phải nhận thức rõ bản chất và vị trí của chúng trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Rõ ràng các tên riêng không phải tiếng Việt là một loại từ đặt biệt hay một loại kí hiệu, không phải là bộ phận từ vựng được cấu tạo trong tiếng Việt. Yêu cầu chủ yếu trong việc chuẩn hoá lớp từ này là phải được ghi, được dùng chính xác nhất để bảo đảm sự liên hệ không gây nhầm lẫn với cá nhân, cá thể, đơn vị mang tên đó. Những quy định của Hội đồng Chuẩn hoá Chính tả và Thuật ngữ năm 1983, theo chúng tôi, về cơ bản là hợp lí. Cụ thể là:
  • Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng chữ cái Latin thì giữ nguyên dạng như trong nguyên ngữ, chỉ được bớt đi các dấu phụ. Ví dụ: Shakespeare, Paris, Wroclaw Petofi(lược dấu phụ ở chữ cái l và chữ cái o – Wrocław, Petõfi).
  • Nếu nguyên ngữ dùng thuộc một hệ thống chữ cái khác thì áp dụng lối chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin. Ví dụ: Majakovski, Moskva, Lomonosov (theo lối chuyển tự chính thức của Liên bang Xô Viết).
  • Nêu nguyên ngữ không dùng chữ viết ghi âm thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin (thường là cách phiên âm có tính phổ biến trên thế giới). Ví dụ: Kyoto.
  • Trong trường hợp trên thế giới đã quen dùng một tên riêng viết bằng chữ cái Latin mà có khác với nguyên ngữ (thường là tên một số nước, thành phố) thì dùng hình thức tên riêng phổ biến đó. Ví dụ: Hungary (trong nguyên ngữ làMaggarorszag), Bangkok (trong nguyên ngữ là Krung Thep hoặc Krung Pattannakosin).
  • Đối với những tên sông, núi thuộc nhiều nước (và do đó, có những tên khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau) thì dùng những hình thức tương đối phổ biến trên thế giới, nhưng trong những văn bản nhất định, có thể dùng hình thức của địa phương. Ví dụ: sông Danube có thể tuỳ văn cảnh mà được dùng dưới các dạng khác nữa: Donau (Đức), Duna (Hungary), Dunares (Rumani).
  • Những tên riêng hay bộ phận của tên riêng (thường là địa danh) mà có nghĩa thì chỉ dịch nghĩa khi đó là chủ trương chung của các ngôn ngữ thế giới. Ví dụ: Biển Đen, Guinea Xích Đạo.
  • Những tên riêng đã có hình thức quen thuộc thì nói chung không cần thay đổi. Ví dụ: Anh, Pháp, Hi Lạp, Bắc Kinh, Lỗ Tấn...
  • Tuy vậy, cũng có thể chấp nhận sự tồn tại hai hình thức của một số tên riêng trong những phạm vi sử dụng khác nhau. Ví dụ: La Mã (thành La Mã, đế quốc La Mã, chữ số La Mã) và Roma (thủ đô Roma).
Cũng như vấn đề chuẩn hoá thuật ngữ khoa học kĩ thuật, vấn đề chuẩn hoá các tên riêng không phải tiếng Việt đã được thảo luận sôi nổi, rộng rãi trong những năm qua và cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Dường như các nhà khoa học và giáo dục đều thừa nhận giải pháp phiên theo chữ viết là khoa học, có tác dụng đẩy nhanh giao lưu quốc tế. Nhưng vẫn còn nhiều người chưa thông suốt, vẫn cho cách làm đó không dân tộc và không đại chúng.
Như ta đã biết, thuật ngữ khoa học, kĩ thuật tự thân nó mang tính chất quốc tế, những khái niệm khoa học, kĩ thuật là tải chung của nhân loại. Về hình thức, dù phiên âm là a xít, a-xê-ti-len, at môt phe, at-spi-rin cũng không dân tộc gì hơn cách viết nguyên dạng: acid, acetilen, atmosphe, aspirin.
Những tên riêng không phải tiếng Việt, tuy không có tính quốc tế nhưng cũng không phải là bộ phận từ vựng đòi hỏi phải có sắc thái dân tộc. Phiên âm thuật ngữ và tên riêng nước ngoài thực chất là để dễ đọc, chứ không phải là để dân tộc hoá. Dễ đọc cũng không phải là cơ sở để dễ nhớ và dễ hiểu. Ngược lại, phiên âm dễ dẫn đến nhầm lẫn, thiếu chính xác. So sánh:
Arập Xê ut - Arập Xaudi - Ảrập Xaudi
Kim Đâng Sam - Kim Ong Sam
Kim Ơng Xom - Kim Young Sam
Ucren - Ucraine - Ucraina
Nhiều người nước ngoài tỏ ý không hài lòng khi tên riêng của họ được phiên âm không sát trên sách, báo của ta. Như vậy, dễ đọc mà làm sai lạc thông tin thì lợi bất cập hại, là không khoa học. Hơn nữa, dễ đọc cũng chưa hẳn là có tính đại chúng. Quả là đối với quần chúng còn ít biết ngoại ngữ thì việc đọc, nhớ, viết tên riêng nước ngoài theo nguyên dạng hoặc chuyển tự là khó. Nhưng quần chúng sẽ mãi thế sao? Với sự phát triển của giáo dục, của khoa học và kĩ thuật, quần chúng sẽ ngày càng quen thuộc với những gì mà hiện nay còn ít nhiều bỡ ngỡ.
Có người nghĩ rằng chúng ta viết báo, viết sách chủ yếu là để người Việt Nam hôm nay đọc chứ không phải cho người Việt Nam trong tương lai hoặc người nước ngoài đọc. Vì thế, phiên theo ngữ âm sẽ lợi hơn. Nhưng một mẩu tin như: “Billy Crystal – chàng trai người Mĩ cao 2,30m – vừa được đạo diễn Michael Lehman mời đóng vai chính trong bộ phim Gã khổng lồ” (Tạp chí Truyền hình, số 13/1998) vẫn chẳng bị rơi vãi lượng thông tin nào mặc dù các tên riêng đều được giữ nguyên dạng. Dù không đọc được hoặc đọc sai hai tên riêng thì người ta vẫn hiểu có một người Mĩ cao 2,30m được một đạo diễn mới đóng phim Gã khổng lồ. Người ta chỉ cần nhớ hai tên riêng khi nào cần làm quen với họ, và khi đó chắc chắn cách viết nguyên dạng sẽ thuận lợi hơn.
Những điều vừa trình bày ở trên cần áp dụng nhất quán, triệt để trong các phong cách khoa học, chính luận, hành chính. Trong văn chương cũng như trong khẩu ngữ, vẫn có thể chấp nhận những tên riêng có hình thức phiên âm, đặc biệt là những tên riêng phiên âm có dụng ý tu từ.
Các thuật ngữ khoa học và các tên riêng không phải tiếng Việt chủ yếu được dùng trong văn viết, vì vậy trong khi không cự tuyệt phương thức phiên âm, chúng ta vẫn cần nhận thấy phương thức giữ nguyên dạng hoặc chuyển tự mới là quan trọng, về cả lí luận lẫn thực tiễn đều chứng tỏ chuẩn là cái gì không đứng yên tại chỗ mà luôn luôn vận động, phát triển. Muốn nắm bắt nó phải nỗ lực cố gắng, nếu không, chúng ta mãi mãi không bao giờ đạt đến chuẩn. Đây là vấn đề nhận thức của cả người viết lẫn người đọc, nhận thức của cơ quan truyền thông đại chúng và cơ quan quản lí nhà nước.
Các nhà văn hoá, nhà báo, nhà khoa học không phải ai cũng biết ngoại ngữ, mà có biết thì cũng chỉ biết một vài ngoại ngữ chính thôi. Vì thế, khi viết không nên dễ dãi, cần có trách nhiệm với từng từ, từng chữ mà mình viết ra, chữ nào cần tra cứu, phải tra cứu đến ngọn ngành rồi hãy viết.
Người đọc cũng vậy. Không nên nghĩ rằng mình là người nói tiếng Việt thì hiểu hết chữ nghĩa của tiếng Việt, đọc sách báo chỉ nhằm tiếp thu thông tin của văn bản mà thôi. Nếu nhận thức được rằng đọc sách báo không chỉ để tiếp thu thông tin mà còn là học thêm chữ nghĩa mà mình chưa biết (mà phần chưa biết lại là phần lớn) thì người đọc sẽ không ngần ngại, bỏ qua những gì lạ lẫm với mình.
Về phần chỉ đạo, đã đến lúc thành lập Hội đồng Chuẩn hoá tiếng Việt cấp nhà nước, sớm có những quy định thống nhất trong cả nước. Trường học và cơ quan thông tin đại chúng sẽ là nơi tuyên truyền và gương mẫu thực hiện những quy định chung đó. Ngành ngôn ngữ học có trách nhiệm biên soạn các từ điển thuật ngữ, từ điển tên riêng không phải tiếng Việt, từ điển chính tả để hướng dẫn cách viết và cách đọc thống nhất. Trước mắt, cần tìm hiểu và công bố rộng rãi nguyên tắc chuyển tự Latin của tất cả các hệ chữ viết trên thế giới để người sử dụng tiếng Việt có thể tra cứu dễ dàng.
Chuẩn hoá tiếng Việt là một công việc khó khăn, lâu dài, nhưng nếu chúng ta đồng lòng thì mọi trở ngại đều có thể vượt qua.

Monday 27 August 2012

Từ vựng không có tính chính trị thì có tính gì?

Nguyễn Hưng Quốc vừa đi một loạt ba bài trên VOA về tính chính trị của ngôn ngữ: (http://www.voatiengviet.com/content/tinh-chinh-tri-cua-ngon-ngu-1/1493822.html):
Chẳng biết ông ấy định lượng cách nào mà lại thấy từ vựng chỉ là một phần nhỏ của ngôn ngữ. Cũng không thấy ông ấy bảo ngữ pháp to hơn hay bé hơn từ vựng và ngữ âm kích thước ra sao.
Theo chỗ tôi được biết, từng lúc, từng nơi có thể giới nghiên cứu dồn sự quan tâm cho khía cạnh này hay khía cạnh khác. Dạo Nhà Nước đẩy mạnh chủ trương xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số thì số bài viết về ngữ âm xuất hiện nhiều. Đến khi cần xây dựng thuật ngữ khoa học thì các công trình về từ vựng, từ điển  lại trội lên... Nhưng nhìn chung, không một nhà ngôn ngữ học chuyên nghiệp nào dám viết một câu đại loại từ vựng (hay ngữ âm, hay ngữ pháp) chỉ là một phần nhỏ của ngôn ngữ.

Cũng chẳng có một nhà ngôn ngữ học nào chống đỡ nổi cái luận điểm cho rằng Ngôn ngữ, ở cấp độ từ vựng, không có tính chính trị. Tính chính trị của từ không nằm trong bản thân của các từ ấy. Tính chính trị chỉ có trong các cách sử dụng. Nghe na ná như Súng ống (hay dao búa hay thuốc độc hay phim heo hay gì gì đó cũng được) ở cấp độ vật thể, không có tính tội ác. Tính tội ác không nằm trong bản thân khẩu súng. Tính tội ác chỉ có trong các cách sử dụng. Nhưng trên đời này có cái gì được tạo ra để không được sử dụng? Có từ ngữ nào được tạo ra chỉ để đó cho mình mình biết, mình mình dùng cho mình mình nghe thôi không?

Con dao được tạo ra đã mang sẵn những đặc tính để người ta dùng nó vào mục đích sát thương. Dù anh không cầm dao giết người, con dao vẫn mang những đặc tính ấy và vẫn là một vật nguy hiểm. Từ ngữ cũng vậy. Anh chưa nói, chưa viết nhưng từ ngữ đó vẫn có những đặc tính vật lý và tâm lý khiến cho đó không phải là một mớ âm thanh (hay một chuỗi ký tự) hỗn độn, vô nghĩa. Nếu tính chính trị chỉ có trong các cách sử dụng thì hãy thử làm chính trị với tiếng xe máy hay tiếng chó sủa xem sao. Từ ngữ nếu bản thân không có tính chính trị thì có khác gì với tiếng xe máy và tiếng chó sủa? Dùng cái nào chẳng được?

Nguyễn Hưng Quốc không nên đặt và giải quyết lại những vấn đề đã được từ vựng học nghiên cứu cặn kẽ, thấu đáo. Hãy để công việc ấy cho các nhà từ vựng học.

Friday 15 June 2012

Về bản dự thảo Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí nhà nước (Nguyễn Văn Khang)

Về bản dự thảo Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí nhà nước

Tác-giả: Nguyễn-Văn-Khang
Sáng ngày 18 tháng 5 năm 2006, tại trụ sở Viện Ngôn ngữ học 36 Hàng Chuối – Hà Nội, Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – PGS.TS Trần Đức Cường – đã chủ trì buổi họp báo giới thiệu bản Dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí Nhà nước và việc công bố Dự thảo này trên báo chí để tranh thủ ý kiến góp ý. Tới dự có đại diện của Bộ Văn hoá và Thông tin, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, các báo Nhân Dân, Lao Động, Tiền Phong, Người đại biểu nhân dân,… Để giúp cho mọi người có thể tham gia góp ý kiến cho bản Dự thảo, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống xin giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Văn Khang về nội dung có liên quan đến bản Dự thảo này.
I. Vấn đề đặt ra
Như đã biết, vấn đề cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt cho đến nay còn chưa thống nhất. Hiện chưa có một văn bản quy định mang tính pháp lí về mặt Nhà nước cho chính tả tiếng Việt nói chung và tên riêng nước ngoài nói riêng. Vì thế, cũng là điều dễ hiểu khi mỗi ấn phẩm tiếng Việt phải tự chọn cho mình cách xử lí và dẫn đến sự không thống nhất về cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài giữa các ấn phẩm cũng như trong một ấn phẩm.
Gọi là chọn vì thực tế từ trước đến nay cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt xuất hiện ở mấy kiểu dưới đây:
1. Phiên:
Phiên được thực hiện trên cơ sở cách đọc cách viết của nguyên ngữ. Hiện tại có hai cách phiên, đó là “phiên âm” và “phiên chuyển“.
Nói một cách đơn giản, “phiên âm” là phỏng theo cách đọc (âm đọc) của nguyên ngữ, còn “phiên chuyển” là phỏng theo âm đọc kết hợp với mặt chữ (cách gọi quen thuộc là “kết hợp giữa phiên âm và chuyển tự”). Ví dụ: thành phố California, nếu phiên âm phải là Ke-li-pho-ni-ơ, còn nếu theo cách phiên chuyển thì là Ca-li-pho/phoóc-ni-a. Cả hai kiểu phiên trên được thể hiện như sau:
- Viết rời, gồm: (1) Viết rời có dấu chữ, dấu thanh và có gạch nối. Ví dụ: Niu-oóc, Ken-nơ-đi, Bu-sơ, Vác-sa-va, A-rập/ Ả-rập; (2) Viết rời có dấu chữ, dấu thanh và không có gạch nối. Ví dụ: Niu Oóc, Ken Nơ Đi, Ả Rập.
- Viết liền, gồm: (1) Viết liền có dấu chữ, dấu thanh. Ví dụ: Arập, Clintơn, Vácsava; (2) Viết liền không có dấu thanh. Ví dụ: ArâpNiuooc.
2. Viết theo nguyên dạng:
Giữ nguyên cách viết của nguyên ngữ, gồm:
- Viết nguyên dạng cho các tên riêng Âu Mĩ. Ví dụ: Bush, New York, Italy.
- Viết nguyên dạng phiên âm La-tinh của tiếng Hán cho các tên riêng Trung Quốc. Ví dụ: Li Tie, Hao Haidong.
3. Dịch ra tiếng Việt: Các tên riêng nước ngoài được dịch nghĩa sang tiếng Việt. Trường hợp này không nhiều nhưng không phải là không có. Thường đó là một số địa danh được dịch nghĩa sang tiếng Việt. Ví dụ: Mũi Hảo Vọng < The Cape of Good Hope, Biển Đen [Hắc hải < 黑海< Чёрное море, Biển Đỏ [Hồng Hải < 红海< Red river, Thái Bình Dương < 太平洋 < Pacific Ocean.
4. Sử dụng Hán Việt: Các tên riêng được viết và đọc theo Hán Việt, bao gồm:
- Các tên riêng của Trung Quốc. Ví dụ: Bắc Kinh < 北京Quảng Đông < 广Chu Ân Lai < 周恩来.
- Các tên riêng Âu Mĩ (không phải của Trung Quốc). Ví dụ: Thổ Nhĩ Kỳ < 土耳其 < TurkeyLuân Đôn < 伦敦 LondonBa Lan <  < Poland, Nhật Bản < 日本 < JapanTriều Tiên <  < KoreaKim
Nhật Thành < 
金日成 < Kim II Sung. Đây là cách xử lí dựa vào cách xử lí của tiếng Hán.Sở dĩ nói “dựa vào” là vì, bên cạnh việc chuyển bằng âm Hán Việt, trong một số trường hợp tiếng Việt còn có cách sử dụng đơn tiết hoá như Tiệp, Anh, Bồ,… mà tiếng Hán không sử dụng như vậy.
5. Chuyển tự: Trường hợp này áp dụng cho tiếng Nga. Đó là cách chuyển con chữ theo kiểu tương ứng 1:1. Ví dụ: Lomonosov < ломоносов.
II. Cơ sở lựa chọn
1. Nhận xét đánh giá
Theo cách nhìn “trong mỗi cái được luôn có một cái mất” thì có thể thấy, mỗi cách xử lí trên đều có những ưu điểm (cái được) nhưng theo đó đồng thời là những bất cập (cái mất). Chẳng hạn:
Đối với cách phiên có ưu điểm chung là người Việt ở trình độ phổ thông có thể đọc được, viết lại được, nhớ được và nhiều khi có thể sử dụng linh hoạt theo hướng đơn tiết hoá (ví dụ:Hiện đang học ở Mát). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là chọn cách đọc nào để phiên và phiên như thế nào cho thống nhất (như phiên theo “nguyên ngữ” nào?). Ví dụ: Einstein Albbert sẽ phiên là Ai-en-stai-nơ An-bet (theo tiếng Đức) hay là Anh-xtanh An-be (theo tiếng Pháp)?; Phiên theo cách đọc nào (tiếng Anh Anh, tiếng Anh Mỹ hay tiếng Anh Ca-na-đa,…)? Đây chính là nguyên nhân dẫn tới sự không thống nhất, tạo ra nhiều biến thể của cùng một tên riêng. Về mặt ngôn ngữ học, có một khó khăn đặt ra trong cách phiên là việc tách âm tiết. Chẳng hạn, trường hợp Philippines có thể có hai cách “tách” âm tiết tạo ra hai cách đọc khác nhau:Phi-li-pin < Phi/li/ppines và Phi-líp-pin <Phi/lip/pines; Trê/Chê-sni-a < че/чня và Tréc-ni-a/Chếch-ni-a < чеч/ня .
Đi vào từng kiểu nhỏ trong cách phiên lại có thể thấy, mỗi một cách phiên có những sự “được-mất” khác nhau. Chẳng hạn:
- Phiên âm thì gần với cách đọc nguyên ngữ của tên riêng, còn phiên chuyển (kết hợp giữa phiên âm với chuyển tự) thì lại sử dụng được lợi thế về mặt văn tự của người Việt nhưng lại “xa” với cách đọc theo nguyên ngữ.
- Phiên theo cách viết có dấu chữ và có gạch nối tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố tạo thành chính thể tên riêng, giúp cho người ở bậc phổ thông có thể đọc được và viết được, thậm chí nhớ được. Song, đối với hình thức của cả văn bản thì không phù hợp cho lắm và cũng không kinh tế, tiết kiệm cho ấn phẩm (vì có gạch nối).
- Phiên theo cách viết có dấu chữ và không có có gạch nối thì ngoài ưu điểm như trên còn có ưu điểm nữa là phù hợp về hình thức văn bản tiếng Việt, kinh tế cho ấn phẩm (vì không có gạch nối), nhưng lại khó khăn trong nhận diện “tính hoàn chỉnh” của một tên riêng. (Ví dụ: Ken nơ đi ra khỏi phòng làm việc).
- Phiên theo cách viết liền có ưu điểm về nhận diện tên riêng, kinh tế cho ấn phẩm, nhưng ở một số trường hợp sẽ gặp khó khăn trong việc nhận diện âm tiết khi đọc. (Ví dụ: Campuchia: Cam/pu/chia, Cam/pu/chi/aGiamahiria: Gia/ma/hi/ri/a, Giam/a/hi/ri/a, Gia/ma/hi/ria,…). Phiên theo cách viết liền không dấu sẽ còn có thể gặp phải một số trường hợp khó đọc hoặc có thể đọc theo nhiều cách khác nhau.
Đối với cách sử dụng nguyên ngữ thì ưu điểm lớn nhất của cách này là đảm bảo được “tính trung thực” của tên riêng và tiện lợi cho người xử lí thông tin (nhất là đối với báo chí hiện nay cần phải xử lí nhanh thông tin để đưa tin). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất gặp phải là, đối với người ở trình độ phổ thông không thể “tự đọc” lên được và nếu có viết lại thì chỉ còn cách là “vẽ lại chữ”. Ngay cả những người gọi là “có trình độ” đi chăng nữa thì biết được ngoại ngữ này chắc gì đã biết ngoại ngữ kia, thậm chí ngay cả tên riêng của ngôn ngữ mà mình biết chưa chắc đã đọc lên được, viết lại được. Đấy là chưa kể đến việc phải làm rõ khái niệm nguyên ngữ là như thế nào.
2. Thái độ ngôn ngữ đối với các cách xử lí trên
2.1. Điều tra thái độ ngôn ngữ của người sử dụng đối với các cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài hiện đang xuất hiện trong tiếng Việt nhằm chỉ ra ở một chừng mực nhất định, tính khuynh hướng của việc “chấp nhận” một cách viết, cách đọc nào trong số các cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài hiện nay. Sở dĩ chỉ dừng lại ở “chừng mực nhất định” và “tính khuynh hướng của việc chấp nhận” là vì, như trên đã nêu, thái độ ngôn ngữ của người sử dụng là một nội dung rộng lớn, liên quan đến hàng loạt các nhân tố mà do nhiều lí do, trong điều tra của chúng tôi chưa thể bao quát hết được. Đối tượng điều tra của chúng tôi tập trung chủ yếu vào những người đang tham gia công tác quản lí hành chính như một số cán bộ ở cấp phường, quận thuộc TP. Hà Nội; một số cán bộ từ cấp xã đến cấp huyện, cấp tỉnh của tỉnh Thái Bình; một số cán bộ ở các địa phương đang học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Để tiện cho việc so sánh, đối chiếu, chúng tôi cũng tiến hành điều tra một số cộng tác viên khác như giáo viên, học sinh, v.v… Cách điều tra là trực tiếp bằng phiếu trong đó nội dung điều tra được thiết kế bằng những câu hỏi.
2.2. Dưới đây là tổng hợp kết quả điều tra đã qua xử lí:
Nội dung 1Ý kiến chung về cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài xuất hiện trong tiếng Việt: a) Viết bằng tiếng nước ngoài; b) Viết bằng tiếng Việt; c) Viết bằng tiếng Việt và có chú thích bằng tiếng nước ngoài; d) Viết bằng tiếng nước ngoài và có chú thích bằng tiếng Việt. Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp a (những người có trình độ đại học và trên đại học, sinh viên chuyên ngữ); Xu hướng nghiêng về giải pháp b và c (những người có trình độ phổ thông).
Nội dung 2Nếu viết tên riêng bằng tiếng Việt thì cho biết ý kiến về các dạng viết dưới đây: a)Viết có gạch nối và có dấu; b) Viết liền có dấu; c) Viết liền không dấu. Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp a.
Nội dung 3Ý kiến về cách viết thống nhất tên riêng nước ngoài trên sách báo: a) Chỉ nên có một kiểu viết; b) Nhất loạt viết tên riêng bằng tiếng Việt; c) Nhất loạt viết tên riêng bằng tiếng nước ngoài; d) Tuỳ mỗi loại sách báo mà chọn các dạng viết cho phù hợp. Kết quả điều tra: 1/ Xu hướng nghiêng về hai giải pháp tương đương nhau là d (sinh viên chuyên ngữ, cán bộ xã, quận) và a (sinh viên không phải chuyên ngữ, cán bộ hưu trí, cán bộ phường);2/ Xu hướng nghiêng về giải pháp c (so với b).
Nội dung 4Ý kiến về việc chọn cách viết trong cùng một cuốn sách/tờ báo: a) Thống nhất một cách viết; b) Tuỳ từng mục. Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp a.
Nội dung 5Ý kiến về cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài bằng tiếng Việt: a) Viết và đọc dựa vào âm; b) Viết và đọc dựa vào mặt chữ.Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp b.
Nội dung 6Ý kiến về cách viết, cách đọc các tên riêng tiếng Hán: a) Bằng âm Hán Việt; b) Bằng cách phiên từ âm La-tinh. Kết quả điều tra: Xu hướng hầu hết đồng ý với giải pháp a.
Nội dung 7Nếu viết và đọc tên riêng tiếng Hán bằng phiên âm La-tinh thì xin cho biết ý kiến về cách viết, cách đọc sau: a) Viết và đọc bằng cách phỏng âm; b) Viết nguyên theo phiên âm tiếng Hán và đọc theo cách đánh vần của tiếng Việt. Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp b.
Nội dung 8Ý kiến về cách viết, cách đọc tên các tổ chức nước ngoài: a) Dịch ra tiếng Việt; b) Viết theo nguyên dạng; c) Dịch ra tiếng Việt và để nguyên dạng trong ngoặc đơn; d) Để nguyên dạng và phần dịch ra tiếng Việt đưa vào trong ngoặc đơn. Kết quả điều tra: Xu hướng nghiêng về giải pháp c.
Nội dung 9Ý kiến về cách đọc khi tên riêng nước ngoài được viết theo nguyên dạng: a) Đọc phỏng theo âm; b) Đọc theo cách đánh vần của tiếng Việt. Kết quả: Xu hướng nghiêng hẳn về giải pháp b.
III. Giải pháp lựa chọn trong bản Dự thảo Quy định
1. Từ phân tích trên cho thấy, việc lựa chọn một giải pháp mang tính tối ưu đối với cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài hiện nay để có thể vừa thoả mãn được yêu cầu về học thuật vừa thoả mãn được nhu cầu về thực tế sử dụng (cho mọi tầng lớp trong xã hội và các loại văn bản khác nhau) là hết sức khó khăn. Vì thế, trước mắt, Quy định này giới hạn sử dụng trong các văn bản quản lí nhà nước nhằm tạo ra sự thống nhất trong cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài.
2. Với đối tượng, phạm vi như vậy, Dự thảo Quy định gồm 07 điều với các nội dung cơ bản mang tính giải pháp như sau:
a. Tên riêng nước ngoài xuất hiện trong các văn bản quản lí nhà nước được viết và đọc theo cách viết cách đọc của chữ quốc ngữ-phiên chuyển ra tiếng Việt: Viết rời từng âm tiết, có dấu chữ, dấu thanh, có gạch nối giữa các âm tiết, tận dụng khả năng ghi âm của chữ quốc ngữ.
Giải thích bổ sung:
- Chỉ dùng các con chữ ghi ở âm cuối là -p, -t, -c, -ch, -m, -n, -ng, -nh (mà không sử dụng các con chữ khác như -v, -r, -l,…). Ví dụ: Hum-bôn < Humboldt.
- Có sử dụng thêm các con chữ kép như pl, xt, cr,…. Ví dụ: Cô-xta Ri-ca < Costa Rica.
- Đối với tên riêng của các ngôn ngữ có chữ viết không thuộc hệ chữ La-tinh (A-rập, Nhật, Triều Tiên,…) hoặc được tiếp nhận qua ngôn ngữ trung gian thì dựa vào dạng La-tinh hoá chính thức của ngôn ngữ đó để xử lí. Ví dụ: Y-a-xơ A-ra-phát < Yasser ArafatKim Tê Chung < Kim Dae Jung.
- Đối với tên riêng nước ngoài mới xuất hiện hoặc có cách viết, cách đọc xa với nguyên dạng thì chú thêm dạng La-tinh hoá và để trong ngoặc đơn. Ví dụ: Áp-đu-ra-man Oa-hít (Abdurraman Wahid).
- Đối với tên riêng tiếng Nga và các ngôn ngữ có chữ viết thuộc hệ Xla-vơ thì căn cứ vào dạng viết để xử lí. Ví dụ: Pu-tin < ПУТинVôn-ga < волга.
- Giữ nguyên một số tên riêng quen dùng. Ví dụ: Mát-xcơ-vaAnh-xtanh (không sửa là Mô-scơ-va, Ai-en-stai-nơ).
b. Đối với tên riêng tiếng Hán thì sử dụng cách đọc Hán Việt và viết theo chính tả tiếng Việt.
Giải thích bổ sung: Trường hợp chưa xác định được cách đọc Hán Việt thì xử lí theo a.
cĐối với tên riêng ở dạng tắt thì viết như nguyên ngữ, đọc theo tên gọi chữ cái quốc ngữ.
Giải thích bổ sung:
- Trường hợp không thuộc hệ chữ La-tinh thì căn cứ vào dạng viết để xử lí như ở a; trong trường hợp cần thiết thì dịch ra tiếng Việt. Ví dụ: BBC đọc là “bê bê xê”; КГБ chuyển thànhKGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia).
- Sử dụng thêm các con chữ w, f, j, z. Ví dụ: G.W. Bu-sơ, WTO.
- Thống nhất một số cách đọc: w “vê kép”; o, e “o/ô, e/ê” (tuỳ từng trường hợp cụ thể cũng như theo thói quen người Việt). Trong một số trường hợp có thể đọc liền (âm tiết), ví dụ: FAOđọc là “phao”.
dĐối với tên tổ chức nước ngoài ở dạng đầy đủ, phải dịch ra tiếng Việt. Ví dụ: Asia-Pacific Economic Cooperation > Hợp tác kinh tế châu Á.
eĐối với tên sản phẩm hàng hoá nước ngoài, tên hãng, công ti nước ngoài, các biểu tượng thương mại,… thuộc quyền sở hữu công nghiệp đã được pháp luật bảo hộ thì giữ nguyên như đã đăng kí; có thể ghi thêm cách đọc và để trong ngoặc đơn.
IV. Trao đổi
1. Dự thảo Quy định này giới hạn: Phạm vi sử dụng trong văn bản quản lí nhà nước (VBQLNN). Mục tiêu là tạo sự thống nhất cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong VBQLNN, tạo sự thuận lợi cho đông đảo mọi người trong việc tiếp nhận VBQLNN và góp phần giữ gìn sự trong sáng và chuẩn hoá tiếng Việt. Phương châm là đảm bảo phù hợp với các quy tắc, thói quen đọc, viết tiếng Việt, phù hợp với thực tế sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài ở Việt Nam; Bảo đảm có tính ổn định và kế thừa, không gây xáo trộn một cách không cần thiết; Qua thực tế sử dụng sẽ từng bước lựa chọn được cách viết, cách đọc tốt nhất; Bảo đảm có tính khả thi cao, thuận lợi cho việc soạn thảo và tiếp nhận các VBQLNN hiện nay.
2. Dự thảo Quy định này đã được gửi tới các bộ, ngành để lấy ý kiến góp ý. Cho đến nay, Dự thảo đã nhận được nhiều ý kiến “phản hồi”. Có thể tóm tắt một số nội dung chủ yếu như sau:
2.1. Cần làm rõ: Dự thảo này giới hạn trong phạm vi “văn bản quản lí nhà nước” hay “văn bản của các cơ quan nhà nước”, hay “văn bản chính thức của các cơ quan nhà nước”. Một số ý kiến cho rằng, sao lại chỉ giới hạn phạm vi như vậy mà không “mở rộng phạm vi sử dụng”. Một số ý kiến đề nghị không dùng “Quy định” mà nên dùng “Nghị định của Chính phủ”, “Quy chế về…” dưới dạng quyết định do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
2.2. Hầu hết các ý kiến đồng tình với giải pháp của Dự thảo và cho rằng, giải pháp này phù hợp với tình hình hiện tại và đề nghị sớm ban hành. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị sử dụng giải pháp khác: “nên viết liền các âm tiết, có dấu thanh, không có dấu gạch nối giữa các âm tiết, tách rời họ-tên-tên đệm”.
2.3. Một số ý kiến đề nghị, cần có những quy định cụ thể hơn. Ví dụ: Cần có phân biệt tr và t-r (khi cùng viết là tr); cần quy định rõ khi nào thì đọc liền, khi nào thì không; không cần dấu thanh vì nếu có dấu thì chủ yếu là dấu sắc; Chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên;…
2.4. Cần bổ sung thêm trong Quy định: Nghiên cứu thêm về quy định cách viết tên tiếng Việt trên các văn bản, ấn phẩm tiếng nước ngoài do Việt Nam thực hiện (ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); Trong các văn bản đối ngoại thì viết theo nguyên dạng (ý kiến của UBNN Thành phố Hà Nội); Cần phân nhóm, chẳng hạn, đối với nhóm văn bản quản lí hành chính và tài liệu nghiên cứu khoa học thì cần chú trọng mở ngoặc dạng nguyên ngữ, còn nhóm văn bằng, chứng chỉ,… thì giữ nguyên cách viết ở dạng gốc hoặc dạng La-tinh hoá để tránh nhầm lẫn (ý kiến của Bộ Tư pháp); Về lâu dài nên chuyển dần tên Trung Quốc theo cách đọc Hán Việt sang phương án dựa vào La-tinh (ý kiến của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội); Các danh từ cá biệt, biệt lệ cần có bảng danh mục riêng;…
3. Có thể nhận thấy, việc Chính phủ đề nghị đăng báo Dự thảo Quy định nhằm tiếp tục lấy ý kiến rộng rãi là một dịp tốt để những người quan tâm vừa có thể hiện ý kiến của mình đồng thời vừa biết được thái độ ngôn ngữ của xã hội. Chúng tôi cho rằng, nội dung của bản Dự thảo Quy định này là một trong các vấn đề của chuẩn hoá tiếng Việt, vì thế, cần đặt nó trong cái “khung chung” của chuẩn hoá để xem xét như tính tự giác, tính tương đối, tính uyển chuyển, tính giai đoạn cùng thói quen xã hội,… và có thể coi đây là kết quả của sự lựa chọn mang “tính trội” trong các lựa chọn.
Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 6 (128)/2006, trang 1–6.