Showing posts with label quan hệ Việt Trung. Show all posts
Showing posts with label quan hệ Việt Trung. Show all posts

Tuesday 14 June 2016

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông (Lê Thế Mẫu - Infonet)

(https://infonet.vietnamnet.vn/the-gioi/nga-chua-bao-gio-thay-doi-lap-truong-ve-tranh-chap-lanh-tho-o-bien-dong-165055.html)

Gần đây, trên một số báo của Việt Nam có đưa tin và đăng một số bài viết bình luận quan điểm của Nga về tình hình Biển Đông như “Nga gây 'sốc' tuyên bố không can dự tranh chấp ở Biển Đông và “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông”.

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông - ảnh 1

Đại tá Lê Thế Mẫu

Xuất phát từ một bài viết gây “sốc”

Gần đây, trên một số báo của Việt Nam có đưa tin và đăng một số bài viết bình luận quan điểm của Nga về tình hình Biển Đông như “Nga gây "sốc" tuyên bố không can dự tranh chấp ở Biển Đông (baomoi.com) “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông” (giaoduc.net.vn).

Đáng chú ý là bài viết của Hồng Thủy với tiêu đề “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông”, trong đó tác giả đưa ra nhận định gây “sốc” rằng, phía Nga “tiếp tục có xu hướng đánh tráo, đánh đồng khái niệm về các tranh chấp ở Biển Đông hòng bao che, chạy tội cho Trung Quốc trước thềm Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai và vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông”.    

Đây là nhận định có tính chất xuyên tạc quan điểm của Bộ Ngoại giao Nga, gây hoang mang trong dư luận và làm tổn hại đối với quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga mà vừa qua trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga Thủ tướng nước ta Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Cá nhân tôi, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng tuyệt đối vào nước bạn Nga”.

Thực chất vấn đề là gì?

Trước hết, cần khẳng định, đây không phải là “tuyên bố mới nhất về lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông” như tác giả Hồng Thủy nhận định trên giaoduc.net.vn, mà chỉ là sự tái khẳng định quan điểm nhất quán, trước sau như một, của Nga về các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, được đưa ra trong cuộc họp báo của Đại diện chính thức của Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova ngày 10/6/2016, trong đó chủ đề tranh chấp ở Biển Đông chỉ là một nội dung ngắn trong số 19 thông báo về hoạt động đối ngoại của Nga trong những ngày gần đây. Vì sao, Bộ Ngoại giao Nga lại phải tái khẳng định quan điểm này trong cuộc họp báo ngày 10/6/2016?

Đại diện chính thức của Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova giải thích: “Trong thời gian gần đây, chúng tôi đã từng lưu ý về những bài viết trên các phương tiện truyền thông, trong đó có những thông báo trích dẫn lời của các quan chức cấp cao của Nga rằng dường như Nga ngày càng dính líu sâu vào chủ đề về tình hình trên biển Nam-Trung Hoa (Biển Đông). Ngoài ra, trong những bài viết đó đưa ra sự khẳng định rằng chúng tôi đang nghiêng về ủng hộmột trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển này. Vì vậy, mặc dù đã rất nhiều lần đề cập tới chủ đề này, hôm nay chúng tôi muốn đưa ra lời bình luận riêng về vấn đề đó”.

Toàn văn bình luận của bà M.Zakharova về tranh chấp ở Biển trong cuộc họp báo ngày 10/6/2016

Để tiện theo dõi, chúng tôi xin dịch và đăng lại toàn văn bài bình luận của Đại diện chính thức Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova ngày 10/6/2016, được lấy từ trang web của Bộ ngoại giao Liên bang Nga:

Chúng tôi đang chú ý theo dõi sự phát triển tình hình ở Biển Đông. Chúng tôi coi đó là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới an ninh và sự ổn định trong toàn bộ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Nga không phải là một trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và sẽ không để bị lôi kéo vào các cuộc tranh chấp đó. Về nguyên tắc, chúng tôi không đứng về bất cứ bên nào (trong cuộc tranh chấp này). Chúng tôi tin tưởng rằng việc các lực lượng thứ ba tham gia vào các cuộc tranh chấp này chỉ có thể khiến cho tình tình trong khu vực này căng thẳng thêm.

 

Tất cả các quốc gia tham gia vào các cuộc tranh chấp lãnh thổ trong khu vực này cần phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc không sử dụng sức mạnh, cần tiếp tục tìm kiếm những cách thức giải quyết các vấn đề còn tồn đọng bằng các giải pháp chính trị-ngoại giao dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982 (UNCLOS), theo tinh thần của Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở biển Nam-Trung Hoa (DOC) mà Trung Quốc đã ký với ASEAN năm 2002, cũng như các nguyên tắc chỉ đạo thực thi DOC đã được các bên thống nhất vào tháng 7-2011. Chúng tôi cho rằng các cuộc tham vấn và đàm phán về các vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được thực hiện trực tiếp giữa các bên có liên quan trong khuôn khổ hợp lý do chính các bên xác định.

Xuất phát từ tình hình, yếu tố có ý nghĩa then chốt để giải quyết mâu thuẫn trong tiểu khu vực này có thể là xây dựng một cấu trúc an ninh mới dựa trên các nguyên tắc tập thể, không liên kết và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi đề xuất với tất cả các bên đối tác tích cực tham gia thực hiện sáng kiến do phía Nga đưa ra về việc nghiên cứu xây dựng các nguyên tắc củng cố an ninh và phát triển hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Về phần mình, chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)

Chúng tôi để nghị tuân thủ quan điểm cơ bản của Nga khi đưa tin hay viết bài về chủ đề này, không nên viện dẫn lập luận của tác giả này hay tác giả khác, mà là nên xuất phát từ quan điểm nhất quán trước sau như một của chúng tôi”.

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông - ảnh 2

Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Nga Maria Zakharova.

Bình luận về những điểm then chốt trong bài phát biểu của Đại diện chính thức Bộ Ngoại giao Nga

(1) Quan điểm nhất quán trước sau như một của Nga là “do không phải là một trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, nên Nga không đứng về bất cứ bên nào trong cuộc tranh chấp này” hoàn toàn trùng hợp với quan điểm của Mỹ cũng như nhiều nước khác về tranh chấp ở Biển Đông, hoàn toàn không có ý ủng hộ Trung Quốc như Bắc Kinh cố ý giải thích sai rằng Nga đứng về phía Trung Quốc.   

(2) Quan điểm của Nga vềviệc “các lực lượng thứ ba tham gia vào các cuộc tranh chấp này chỉ có thể khiến cho tình tình trong khu vực này căng thẳng thêm”. Quan điểm của Nga phản ánh một thực tế là, từ trước tới nay, tất cả các cuộc đàm phán về DOC, hay COC, hay tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đều chỉ được tiến hành trong khuôn khổ song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước khác có tranh chấp, hoặc trong khuôn khổ ASEAN-Trung Quốc.

(3) Theo quan điểm của Nga, “các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được giải quyết trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc không sử dụng sức mạnh, thông qua các giải pháp chính trị-ngoại giao, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là UNCLOS, theo tinh thần của DOC. Nga sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)”. Quan điểm này của Matxcơva đã gián tiếp lên án Trung Quốc bởi hành động của Bắc Kinh xây cất, tôn tạo các bãi đá ở Trường Sa do họ chiếm đoạt của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng DOC và UNCLOS. Hơn nữa, khi Nga nói tới “luật pháp quốc tế” thì trong đó không loại trừ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Như vậy, quan điểm của Nga hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ASEAN, quan điểm của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. Đương nhiên, xuất phát từ quan hệ Nga-Trung Quốc, Matxcơva chỉ yêu cầu “các bên tranh chấp tuân thủ DOC và UNCLOS”, mà không chỉ đích danh Trung Quốc. Cũng tương tự như vậy, các nước khác như Mỹ, Nhật Bản, EU cũng chỉ yêu cầu “các bên kiềm chế”, “không thay đổi nguyên trạng” ở Biển Đông, chứ không chỉ đích danh Trung Quốc.

(4) Về sáng kiến mới của Nga việc “xây dựng một cấu trúc an ninh mới trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương dựa trên các nguyên tắc tập thể, không liên kết và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế”. Sáng kiến này đã từng được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Nga ở Sochi nhân kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Nga-ASEAN. Sở dĩ cấu trúc này phải tuân thủ nguyên tắc “tập thể” và “không liên kết” là để mở cửa cho sự tham gia của tất các bên có liên quan nhằm duy trì môi trường hòa bình, an ninh bền vững, hợp tác để phát triển trong khu vực, trong đó có cả các quốc gia đã từng tham gia liên minh quân sự như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines… Đây là một sáng kiến hay, phù hợp với đặc điểm chính trị và an ninh của khu vực này, đáp ứng lợi ích của tất cả các bên và do đó có tính khả thi cao.

Như vậy, xét từ quan điểm nhất quán của Nga về các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, không thể có chuyện Matxcơva “đánh tráo, đánh đồng khái niệm về các tranh chấp ở Biển Đông hòng bao che, chạy tội cho Trung Quốc trước thềm Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai và vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông”.

Thật khó giải thích về động cơ của những ai, không biết vì lý do gì, lại cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Nga về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, gây hoang mang trong dư luận, làm tổn hại tới quan hệ giữa hai nước trong bối cảnh chúng ta đang tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng tế, còn Trung Quốc lại đang ra sức cố tình giải thích và áp dụng sai về UNLOS, về DOC, cũng như cố tình xuyên tạc và bóp méo quan điểm của Nga và một số nước khác theo hướng “ủng hộ Bắc Kinh” trong vấn đề Biển Đông.

Thiết nghĩ, trong thời điểm hiện nay, chúng ta cần tranh thủ tất cả những ai có quan điểm tương đồng với Việt Nam để hình thành mặt trận rộng rãi ủng hộ chúng ta trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền ở Hoàng Savà Trường Sa trên Biển Đông-một cuộc đấu tranh không cân sức, lâu dài, khó khăn và phức tạp, chứ không nên có hành động gây chia rẽ Việt Nam với các bàn bè và đối tác, trong đó Nga lại là một đối tác chiến lược toàn diện.

Đại tá Lê Thế Mẫu

Tuesday 26 August 2014

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung Quốc trong những năm 1959-1969 (Tô Vĩnh - Văn Hóa Nghệ An)


Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung Quốc trong những năm 1959-1969

  •   TÔ VĨNH
  • Thứ tư, 01 Tháng 6 2011 00:14

KHI nói đến Hồ Chủ tịch trong mối quan hệ với đảng, chính phủ Trung Quốc (TQ) - hầu như ai cũng nhắc đến hai câu thơMối tình hữu nghị Việt – Hoa/ Vừa là đồng chí vừa là anh em; qua đó, gián tiếp và mặc nhiên khẳng định rằng đối với Bác Hồ, quan hệ Việt – Trung là một điều gì đó đã được mặc định, đương nhiên và, trong suy nghĩ và Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM), đó là sự thiêng liêng không cần phải bàn cãi?!
Có thể nói đây là một mối quan hệ đặc biệt và tế nhị cần phải nghiên cứu một cách kỹ càng. Bài viết nhỏ này trên cơ sở cứ liệu công khai đã có muốn đưa ra một phác thảo nghiên cứu rất nhỏ nhằm làm sáng tỏ những quan niệm - ứng xử - thái độ đúng và đủ của HCM đối với TQ trong một khoảng thời gian không dài nhưng hết sức quan trọng của Người – 10 năm cuối đời, tức là từ 1/10/1959 đến tháng 9/1969.
1. Điều đặc biệt và điềukỳ lạ là suốt 10 năm rất, rất quan trọng đó của sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta, HCM chỉmột lần duy nhất viết bài kỷ niệm ngày quốc khánh của nước CHNDTH – ngày 28/9/1959, nhân chuyến thăm TQ đồng thời kỷ niệm 10 năm ngày thành lập nước Cộng hòa công nông lớn nhất thế giới. Kể từ đó, cho đến khi từ biệt thế giới này, Chủ tịch HCM không bao giờ gửi thư hay điện mừng để chúc mừng quốc khánh nước CHND Trung Hoa.
2. Suốt 10 năm trời, Chủ tịch HCM chỉ một lần bàn về cách mạng TQ trong một bài viết nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng CSTQ, tháng 7/1961. ở bài viết này (báo Nhân Dân, 1/7/1961, số 2.658), Hồ Chủ tịch cho biết Người đã hai lần đứng trong hàng ngũ Đảng CSTQ. Một lần trong những năm 1924-1927, với chức danh là “tuyên truyền đối ngoại”, viết bài về Đảng CSTQ cho một bài báo bằng chữ Anh và, một lần, vừa là binh nhì trong Bát lộ quân, vừa là Bí thư chi bộ của một đơn vị ở Hành Dương (HCM, TT, T.10, tr. 365-368. NXB CTQG, H. 2002). Có một bài viết nữa về TQ nhưng đó lại là bài Trả lời Thư của các đảng phái dân chủ, các nhân sĩ dân chủ không đảng phái và Hội liên hiệp công thương TQ (T.11, tr.385).
3. Một điểm rất cần được nhấn mạnh là trong bài viết duy nhất về cách mạng TQ, Bác Hồ đã thẳng thắn ca ngợi chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô N. Khruchov: “cuộc đi thăm nước Mỹ của đồng chí Khơrútsốp (in liền trong nguyên bản, T.9, tr.511-512, sic) càng làm cho nhân loại tiến bộ nức lòng phấn khởi và tăng thêm tin tưởng vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới”. Hầu như ai cũng biết TQ luôn gọi Khruchov là "xét lại" và Liên Xô là "đế quốc xã hội". Thế nhưng, Hồ Chủ tịch vẫn thẳng thắn ca ngợi mối quan hệ Xô - Mỹ - nghĩa là không hề ngần ngại khi đụng chạm vào điều “khó nói” của các nhà lãnh đạo Trung Hoa!
Từ những dẫn liệu trên đây, chúng tôi nghĩ rằng rất nên đặt ra một số câu hỏi để làm rõ hơn về Chủ tịch HCM - đặc biệt, đây là thời điểm mà toàn Đảng toàn dân đang ra sức học tập và làm theo Tư tưởng, đạo đức HCM. Thứ nhất, không thể nói suốt 10 năm trời của cuộc cách mạng đầy nước sôi lửa bỏng của nhân dân ta mà Hồ Chủ tịch lại “quên” không gửi điện chúc mừng quốc khánh nước CHNDTH. Bằng chứng rất rõ là ở chỗ, ngay như những nước Mali hay Ghinê xa xôi, Hồ Chủ tịch vẫn gửi Điện mừng nhân dịp quốc khánh – ngày 1/10/1960 và  2/10/1963(!) (T.10, tr.212 và T.11, tr.143)...
Như vậy, nếu chúng ta đối chiếu với 4 bài viết về TQ trong 3 năm 1922-1924 so với một bài trong 10 năm thì sẽ thấy - hiểu khá rõ rằng, trong quan điểm của HCM, có không ít những điều Người (tuy không nói rõ ra) không đồng tình với cung cách hành xử của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh. Cách nhìn mẫn tiệp và sắc sâu ấy là điều mà chúng ta cần nghiên cứu và học tập. Không ngẫu nhiên mà những năm 1959-1969 là những năm TQ đang ủng hộ rất nhiều về cả tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta mà Chủ tịch HCM đã “quên” việc gửi thư cảm ơn hay điện mừng nhân dịp quốc khánh? Cách “quên” của thiên tài HCM buộc chúng ta phải suy nghĩ và, buộc tất cả những nhà nghiên cứu quan tâm tới vấn đề phải nhìn nhận một cách khách quan hơn, đúng đắn hơn. Những dẫn chứng trên phải chăng là những minh chứng về những điều thiêng liêng nhất về trí tuệ và tình cảm của một Nhân cách Vĩ đại - một Tầm nhìn Sắc sâu của một người con đáng kính của Đất Mẹ Việt Nam!

Monday 17 February 2014

Báo Nhân Dân đưa tin chiến sự Việt Trung năm 1979 như thế nào?



Báo Nhân Dân số 9019 ra ngày 17 tháng 2 năm 1979 không có dòng nào về cuộc chiến. Ở vị trí trang trọng nhất của trang 1 là tin Đoàn đại biểu chính phủ ta đi thăm hữu nghị chính thức nước cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia. Cạnh đó là tin Đồng chí Trường Chinh tiếp đoàn đại biểu hội đồng Trung ương các công đoàn Tiệp Khắc. Xã luận trong ngày tán dương Sức mạnh đoàn kết vô địch của chúng ta.

Sang hôm sau báo mới bắt đầu đưa tin chiến sự phía bắc:
Rạng sáng 17-2-1979, nhà cầm quyền Trung Quốc huy động lực lượng lớn quân đội gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp mở cuộc tiến công xâm lược lãnh thổ nước ta trên toàn tuyến biên giới từ Phong Thổ, Lai Châu đến thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Từ đó trở đi tin luôn luôn chậm hai, ba ngày so với tình hình: báo ngày 20/2 đưa tin ngày 17 và 18/2, báo ngày 26/2 đưa tin ngày 23/2, số ra ngày 1/3 đưa tin ngày 27/2, số ra ngày 2/3 đưa tin ngày 28/2, số ra ngày 5/3 đưa tin ngày 2/3, số ra ngày 7/3 đưa tin ngày 5/3...

Bản tin ngày 18/2 có tính thời sự cao nhất (chỉ chậm một ngày so với tình hình) cũng là bản tin chung chung nhất, kiểu Các lực lượng vũ trang đã đánh trả quyết liệt, diệt nhiều tên địch, bắn cháy và phá hủy nhiều xe tăng địch, có thể dùng cho chiến trường Tây Nam cũng được mà để viết về một trận chống càn trước 1975 cũng không sai. Số liệu thành tích duy nhất nằm ở đoạn sau đây:
Tin đầu tiên cho biết : quân và dân các địa phương vùng biên giới đã chiến đấu hết sức dũng cảm, diệt nhiều tên Trung Quốc xâm lược, phá hủy và bắn cháy hàng chục xe tăng của chúng. Chỉ riêng quân và dân ở khu vực bản Quang, huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), đã diệt 250 tên, bắn cháy bốn xe tăng ; ở khu vực cửa Hữu Nghị, quân ta đã bắn cháy tám xe tăng ; ở Quảng Hòa, diệt bảy xe tăng.

Sang đến ngày 20/2 người đọc báo mới biết là chỉ trong hai ngày đầu của cuộc chiến (17 và 18/2) quân dân các tỉnh biên giới phía bắc diệt được 3500 tên giặc. Từ đó số liệu về tổn thất của địch tiếp tục tăng nhanh:
Ngày 19 diệt 1500 tên, ngày 20 diệt 2000 tên. Từ 17/2 đến 21/2 diệt 12000 tên. Cộng trừ tới lui có thể suy ra số địch bị diệt ngày 21 là 2000.
Ngày 22 diệt tiếp 1000 tên.
Số địch bị diệt tính đến 23/2 là 16000, tính đến 28/2 là 27000, tính đến 2/3 là 42000, tính đến 5/3 là 45000.

Không có bản tin nào đưa số thương vong của ta. 

Monday 2 September 2013

Ba lần Bác cười trước lúc đi xa (Vương Tinh Minh - Quân Đội Nhân Dân)

Ba lần Bác cười trước lúc đi xa

QĐND - Thứ Hai, 25/01/2010, 20:33 (GMT+7)
“...Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã rời xa chúng ta, nhưng hình ảnh ba lần nhìn thấy nụ cười hiền hậu của Người mãi khắc sâu trong tôi. Sự nhẹ nhàng thanh thoát, những ngôn ngữ, cử chỉ thân thiết của Người, tôi luôn mang theo suốt cuộc đời...”.
Là y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh, từ những năm 60 của thế kỉ trước, tôi làm công tác chăm sóc sức khỏe bên cạnh Thủ tướng Chu Ân Lai. Tiếp nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi được phân công vào đội ngũ chăm sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
Ngày 24-8-1969, trời Bắc Kinh oi nồng, không một chút gió. Đêm xuống, tôi giội ào một cái cho mát, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đột nhiên nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi vội dậy mở cửa. Thì ra là người của bệnh viện tới, nói rằng: “Có việc khẩn, lập tức lên đường”.
Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai đón Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người cùng Đoàn đại biểu Việt Nam thăm Trung Quốc năm 1955. Ảnh tư liệu.
Khi chúng tôi tới Đại lễ đường nhân dân, Thủ tướng Chu Ân Lai đang nói chuyện với các bác sĩ trong tổ công tác. Lúc này tôi mới rõ, chuyến đi của tôi là tới Việt Nam chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đoàn có giáo sư Lí Băng Kì, chuyên gia Khoa truyền nhiễm Bệnh viện Hiệp Hòa Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai dặn dò yêu cầu chăm sóc chu đáo sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông cũng nhắc nhở mọi người quan tâm tới sức khỏe của các giáo sư cao tuổi trong đoàn. Sau khi tiếp kiến Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi lên xe tới thẳng sân bay, chuyên cơ IL-18 đã chuẩn bị sẵn và rời Bắc Kinh đi Hà Nội ngay trong đêm.
Bác cười và nói: “Xin hoan nghênh, cảm ơn!”
Rạng sáng ngày 25-8 chúng tôi tới Hà Nội. Dưới ánh đèn mờ, vẫn có thể nhìn thấy cảnh tàn phá của bom Mỹ. Máy bay trực thăng của Việt Nam đưa chúng tôi tới Phủ Chủ tịch.
Ngày thứ hai ở Hà Nội, tức ngày 26-8, tổ y tế thứ ba của Trung Quốc cũng tới Hà Nội. Các thành viên trong tổ chữa trị đến từ các bệnh viện lớn của Bắc Kinh, Quảng Châu, trong đó có một số chuyên gia Trung y nổi tiếng Trung Quốc: Nhạc Mỹ Trung, Tôn Chấn Hoàn, Trương Hiếu, Lí Băng Kì, Cao Nhật Tân.
Căn phòng nơi Bác nằm trị bệnh rất đơn sơ. Diện tích không quá 20 mét vuông, trang bị cũng giản dị. Khuôn mặt Bác xương gầy. Bác đang nằm trên giường bệnh. Đây là lần đầu tiên tôi được đứng gần Bác, tâm lí không khỏi căng thẳng. Tổ trưởng tổ chữa trị Trương Hiếu chỉ vào tôi và giới thiệu với Bác: "Cô ấy là y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, tên là Vương Tinh Minh". Bác nhìn và nhẹ nhàng nắm tay tôi. Bác mỉm cười nói: "Xin hoan nghênh, cảm ơn!". Bác nhìn tôi, ánh mắt hiền từ, tôi vô cùng cảm động, hai hàng lệ đã trào mi chẳng biết tự khi nào.
Bác cười thay lời cảm tạ các y tá, bác sĩ
Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc hết sức quan tâm tới sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đích thân Thủ tướng lựa chọn những nhân viên ưu tú nhất, thậm chí từng thùng thuốc gửi cho Bác và ân cần hỏi han, kiểm tra, dặn đi dặn lại không được sơ sảy.
Bác Hồ và đồng chí Chu Đức tại Trung Quốc cuối tháng 1-1950. Ảnh tư liệu.
Tình hình sức khỏe của Bác ngày càng xấu. Ngày 31-8-1969, Thủ tướng Chu Ân Lai nhận tin, sức khỏe của Bác đã rất xấu. Chuyên gia nổi tiếng Ngô Giai Bình được phái đến Việt Nam, nắm tình hình cụ thể sức khỏe của Bác, lập tức về trong ngày để báo cáo với Thủ tướng Chu Ân Lai. Nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, chuyên gia Ngô Giai Bình cùng những người trong tổ cứu chữa ra đi với tinh thần cao nhất, quyết tâm chuyển "nguy" thành "an". Sau khi đã phái tổ y tế thứ ba tới Hà Nội, tiếp tục tổ y tế thứ tư được phái tới Hà Nội (tổ thứ tư tới nơi thì Bác đã ra đi).
Lúc này bệnh tình của Bác ngày càng nặng. Ăn ít, uống ít, cơ thể càng thêm gầy. Các chuyên gia, bác sĩ sau quá trình nghiên cứu thận trọng, tỉ mỉ đã quyết định truyền tĩnh mạch để khống chế nhiễm trùng, bổ sung dinh dưỡng và nước. Nhưng vấn đề đặt ra là cơ thể của Bác rất nhạy cảm với tiêm, vì vậy khó thực hiện. Chúng tôi đã đặt ra một phương án thực thi để phân tán sự tập trung chú ý của Bác. Khi nhận được sự đồng ý của Bác, cũng như sự cho phép của các đồng chí lãnh đạo Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành truyền tĩnh mạch. Hôm đó, nhiều đồng chí lãnh đạo của Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... đã có mặt. Việc đưa mũi kim truyền vào tĩnh mạch được tiến hành thuận lợi. Bác mỉm cười thay lời cảm tạ các y tá, bác sĩ.
Bác mỉm cười sau khúc hát của tôi
Ngày 31-8-1969, bệnh tình của Bác đột nhiên tăng lên. Hôn mê không tỉnh. Các chuyên gia bình tĩnh, kịp thời đưa ra biện pháp cấp cứu phù hợp. Bác sĩ Hồ Húc Đông xuyên kim vào tim Bác để bơm thuốc trợ lực tim. Thành công rồi! Chủ tịch Hồ Chí Minh từ từ tỉnh lại, Bác mở mắt ra, nhìn khắp một lượt các y, bác sĩ trong phòng. Mọi người cảm động không nói nên lời. Tổ trưởng Trương Hiếu lại gần bên Bác, khẽ gọi: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Người thấy trong mình hiện giờ thế nào? Còn chỗ nào chưa thấy thoải mái?". Bác khẽ lắc đầu, một lúc sau Bác ra hiệu muốn ăn một chút.
Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.
Sáng ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập. Người đã vĩnh viễn đi xa. Chúng tôi không cầm được nỗi buồn, nước mắt tuôn trào. Đứng bên giường bệnh của Người, vô cùng buồn thương… và từ biệt Người. Ngày 9-9-1969, toàn bộ tổ chữa trị đã cùng lãnh đạo và nhân dân Việt Nam tham gia lễ truy điệu được cử hành tại Hội trường Ba Đình. Hai ngày sau chúng tôi rời Hà Nội về nước. Để ghi nhận công lao của các bác sĩ, y tá trong các tổ y tế đã tham gia chữa trị cho Bác Hồ, Chính phủ Việt Nam đã tặng nhiều huân chương cao quý cho thành viên trong tổ y tế.
* Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, tháng 8-1969.
NGUYỄN HÒA biên dịch 

Monday 27 May 2013

Trung đoàn pháo phòng không đầu tiên và ngày truyền thống Bộ đội cao xạ (Trần Hải Đăng)


Trung đoàn pháo phòng không đầu tiên và ngày truyền thống Bộ đội cao xạ
02.03.2011 08:23
Xem hình
Để chuẩn bị đội ngũ cán bộ và vũ khí, trang bị cho kế hoạch xây dựng, phát triển các binh chủng, Đảng và nhà nước ta đã làm việc với Đảng, chính phủ Liên Xô, Trung Quốc đề nghị hai nước giúp đỡ ta vũ khí và đào tạo cán bộ. Trong lần sang làm việc với trung ương Đảng và chính phủ Liên Xô, phía Việt Nam đề nghị bạn giúp ta trang bị Vũ khí cho một trung đoàn pháo phòng không.
Tháng 10 năm 1952, được sự thoả thuận của trung ương Đảng và chính phủ Trung Quốc, sự giúp đỡ của nhân dân và quân giải phóng Trung Quốc, quân đội ta cử một đoàn cán bộ sang Nam Ninh học về không quân. Đoàn gồm 33 người, do đồng chí Nguyễn Tâm Trinh phụ trách. Nhưng do tình hình cụ thể lúc đó, Quân đội ta chưa có điều kiện xây dựng không quân nên toàn bộ đoàn cán bộ chuyển sang học phòng không.
Ngày 26/1/1953, một đoàn cán bộ gồm 114 người do đồng chí Nguyễn Quang Bích, Trần Văn Giang phụ trách được Đảng và Quân đội cử sang Trung Quốc học về phòng không tại Trường sỹ quan Cao xạ tại Thẩm Dương. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, tổng Tham mưu trưởng Quân đội trực tiếp giao nhiệm vụ cho đoàn. Tại Thẩm Dương, các học viên được học nguyên tắc chiến thuật của Đại đội, Tiểu đoàn và Trung đoàn Pháo phòng không trong chiến đấu độc lập và chiến đâu hiệp đồng, chi viện và bảo vệ bộ binh trong chiến đấu tiến công và phòng ngự. tài liệu học tập dựa vào giáo trình huấn luyện của Hồng quân Liên Xô và kinh nghiệm tác chiến phòng không của Giải Phóng quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Triều Tiên.
Ít lâu sau, một đoàn cán bộ học về phòng không gồm 70 đồng chí do đồng chí Hoàng Khải Tiến, Đinh Thịnh và Lê Văn Thiêm phụ trách lên đường sang Tân Dương (TQ).
Trung tuần tháng 3.1953 thực hiện chỉ thị của Tổng Quân uỷ và Bộ trưởng BQP, đồng chí Phan Phúc Tường, cục trưởng cục quân lực triệu tập một số cán bộ chuẩn bị phương án tổ chức, biên chế của trung đoàn pháo phòng không để trình lên Tổng quân uỷ và Bộ tổng tư lệnh.
Theo phương án, đây sẽ là trung đoàn phòng không chủ lực đầu tiên của Quân đội ta. Trung đoàn sẽ có số quân đông, gồm những cán bộ, chiến sĩ được chọn lọc, có nhiều Đảng viên để đảm bảo chất lượng cao. Số cán bộ, chiến sĩ này được tập trung ở một địa điểm trong nước, sau đó hành quân sang Trung Quốc, hợp với các đoàn cán bộ đã sang trước học về Phòng không để xây dựng một trung đoàn phòng không mạnh, trang bị pháo phòng không 37mm do Liên Xô chế tạo. Trung đoàn sẽ được huấn luyện cơ bản trong một thời gian nhất định ở Trung Quốc, sau đó căn cứ vào tình hình cụ thể sẽ về nước tham gia chiến đấu. Dự kiến tổ chức, biên chế của Trung đoàn gồm 6 tiểu đoàn hoả lực, một tiểu đoàn lái xe kéo pháo, thợ sửa chữa và cơ quan trung đoàn với 3 ban: tham mưu, chính trị, cung cấp. trung đoàn mang phiên hiệu 367 ( với ý nghĩa trung đoàn đầu tiên sử dụng pháo phòng không 37mm gồm 6 tiểu đoàn hoả lực) để thống nhất phiên hiệu với các đại đoàn bộ binh (đều có số đầu là 3 như: 308, 304..)
Từ cuối tháng 3/1953 theo lệnh điều động của Bộ, một số cán bộ từ các cơ quan và đơn vị chủ lực của Bộ, nhiều chiến sĩ quê ở Khu 3, Khu 4 mới tình nguyện ra nhập quân đội tập trung lên căn cứ địa Việt Bắc. Đồng chí Ngô Từ Vân và một số cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp nhận số cán bộ chiến sĩ này.
Ngày 1/4/1953 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Ký quyết định số 06/QĐ thành lập trung đoàn Pháo phòng không 367. Theo quyết định, trung đoàn được biên chế:
- sáu tiểu đoàn hoả lực mang các phiên hiệu 381, 383, 385, 392, 394, 396, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội pháo phòng không 37mm( 12 khẩu) và một đại đội sung máy phòng không 12,7mm (12 khẩu)
- một tiểu đoàn lái xe kéo pháo, xe vận tải và thợ sửa chữa.
- cơ quan trung đoàn gồm 3 ban : tham mưu, chính trị, cung cấp.
Với quyết định thành Lập trung đoàn pháo phòng không 367, lực lượng long cốt của binh chủng chiến đấu mới – binh chủng pháo cao xạ - của Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức ra đời. Trong hoàn cảnh 1 nước, 1 quân đội chưa có không quân thì binh chủng Pháo phòng không lại càng rất quan trọng. Trung đoàn 367 là một trong những đơn vị được trang bị tương đối hiện đại của Quân đội ta, sẽ làm cơ sở và nòng cốt cho việc phát triển lực lượng phòng không to lớn sau này. Sự ra đời của bộ đội pháo phòng không đánh dấu một bước trưởng thành của quân đội ta trên con đường tiến lên chính quy, hiện đại.
Từ đây, ngày 1 tháng 4 hàng năm trở thành ngày truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cao xạ Việt Nam.
Từ chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử đến công cuộc chống chiến tranh phá hoại, bộ đội pháo cao xạ đã giăng lưới lửa, trừng trị hàng nghìn máy bay chiến thuật đế quốc nhăm nhe xâm phạm, gây tội ác trên bầu trời miền Bắc.
Với ý chí “Thà hy sinh chứ nhất định không rời mâm pháo”, bộ đội Pháo cao xạ đã bất chấp nguy hiểm, hy sinh sẵn sàng “kéo địch về mình, chia lửa với bạn” và ghi nên những chiến công hiển hách.
Phát huy truyền thống hào hùng từ thời chiến, bộ đội pháo cao xạ thời kỳ mới không ngừng tập luyện, làm chủ khí tài, góp phần cùng các lực lượng phòng không - không quân, giữ vững bình yên của bầu trời Tổ quốc.
 

Thursday 22 November 2012

VẤN ĐỀ “SÁCH PHONG” TRONG QUAN HỆ BANG GIAO GIỮA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC (Nguyễn Thị Mỹ Hạnh)

VẤN ĐỀ “SÁCH PHONG” TRONG QUAN HỆ BANG GIAO GIỮA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC


Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận xét rất đúng khi nói rằng: "Trong việc trị nước, hoà hiếu với nước láng giềng là việc lớn…Nước Việt ta có cả cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nhân dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối ngoại thì xưng vương, vẫn chịu phong hiếu, xét lý thế lực phải như thế”[1; 135].
"Xét lý thực phải như thế" - đó là cách nói của Phan Huy Chú. Nếu chúng ta nói theo cách nói ngày nay thì có thể hiểu đó là chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại với đại đế quốc phong kiến Trung Quốc thửa trước. Cái "lý" mà Phan Huy Chú đề cập đến ở đây thực chất là: nếu con "cá lớn" Trung Quốc mà định "nuốt" con "cá bé" Việt Nam thì chúng ta sẵn sàng "tiếp đón" và "tống tiễn" nó đi. Khi nó ra đi rồi thì chúng ta lại cư xử mềm mỏng, mềm mỏng nhưng ngoan cường, không yếu hèn để buộc các triều đại phong kiến Trung Quốc phải tôn trọng mình. Đây như đã thành một nguyên tắc chi phối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc suốt các triều đại phong kiến. Nguyên tắc ấy là xuất phát điểm cho mọi hoạt động ngoại giao của nước ta thời bấy giờ, trong đó có hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt Nam với Trung Quốc.
Có thể nói, trong thời đại phong kiến, vấn đề "sách phong" là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cách việc "triều cống") để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa các vương triều phong kiến Việt Nam và Trung Quốc. Chúng ta có thể xem đây là "một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên thế giới chỉ thấy có trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một thí dụ điển hình, với tất cả tính chất phức tạp, nhiều mặt của nó"[3;49].
Nói đến vấn đề “sách phong” giữa các triều đại phong kiến Việt Nam với Trung Quốc nhưng thực tế hoạt động cầu phong ấy chỉ thực sự bắt đầu thực hiện từ thế kỷ X (từ thời Ngô Xương Ngập), sau khi Việt Nam đã thoát ra khỏi ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc, giành lại được nền độc lập hoàn toàn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc là, chỉ khi nào bị thất bại về mặt quân sự, phải trao trả chủ quyền đất nước cho Việt Nam thì Trung Quốc mới chịu phong vương cho nước ta. Chính Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng đã chỉ rõ đặc điểm này:"Nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc, nhưng danh hiệu còn nhỏ, không được dự vào hàng chư hầu triều hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vương, chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ sách phong của Trung Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước"[1, 136].
Vậy là xét về thực chất, việc Trung Quốc phong vương cho Việt Nam trước hết là công nhận vị trí độc lập của Việt Nam theo điển lễ đã được xác định của Trung Quốc với các nước có quan hệ triều cống và thụ phong. Và đối với Việt Nam, nước có biên giới ngay sát đại đế quốc phong kiến Trung Quốc, lại đã từng bị Trung Quốc xâm chiếm hàng ngàn năm, thì việc cầu phong luôn được sử dụng như một phương sách ngoại giao để giữ mối quan hệ hoà hiếu với nước láng giềng Trung Quốc.
Hoạt động cầu phong ấy kéo dài đến thời vua Tự Đức (triều Nguyễn), bởi đến năm 1885 với hoà ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung Hoa thì đã chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc.
1. Nguyên nhân của hoạt động cầu phong trong quan hệ bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc thời phong kiến
Có thể nói, dưới thời đại phong kiến ở nước ta, các vị vua sau khi giành được chính quyền đều có mong muốn xin phong vương với Trung Hoa. Cái lý buộc các vua phong kiến Việt Nam xin phong vương cũng như các triều vua trước đó là ở cái thực tế: Việt Nam là một nước nhỏ, sát cạnh ngay một quốc gia phong kiến Trung Hoa lớn gấp nhiều lần, lại thường xuyên có mưu đồ thôn tính Việt Nam. Vì thế, để đảm bảo an ninh, để có thể duy trì quan hệ hoà hiếu với nước láng giềng khổng lồ ấy, các vua nước ta phải có đường lối đối ngoại "mềm dẻo", "lấy nhu, thắng cương", giả danh "thần phục", cầu phong Trung Quốc.
Hơn nữa, khi cầu phong Trung Quốc, bên cạnh lợi ích dân tộc, các vị vua ở nước ta còn tính đến lợi ích giai cấp dòng họ mình, bởi ngay từ đầu họ đã nhận thấy sự cần thiết phải khẳng định chính thống, hợp pháp hoá sự tồn tại của triều đại mình, để ổn định "nhân tâm" và cũng là để làm chỗ dựa hậu thuẫn bảo vệ quyền lợi lâu dài của dòng họ. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải sớm được "thiên triều" Trung Quốc phong hiệu.
Không những vậy, các vị vua dưới thời phong kiến nước ta cũng nhận thức sâu sắc được cần có sự phong vương của Thiên triều để khẳng định vai trò của mình với các nước trong khu vực. Có như vậy mới thực hiện được ý muốn của các triều đại phong kiến Việt Nam: tự coi mình như một "Trung Quốc" nhỏ hơn ở phía Nam đối với các nước chư hầu, ngang hàng với nước Trung Quốc ở phía Bắc. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ nét dưới thời nhà Nguyễn.
Trong khi đó, bản thân Trung Quốc cũng sẵn lòng chấp nhận việc cầu phong của các vị vua nước ta vì một mặt nó là phương tiện giao hảo, duy trì không để quan hệ giữa Trung Quốc - Việt Nam bị cắt đứt, mặt khác để cốt giữ lấy cái quan hệ giữa "thiên triều" Trung Hoa với "phiên thần" Việt Nam như là một nhu cầu thiết thân về cả lợi ích chính trị lẫn kinh tế của mình. Do đó, sau những đoàn sứ bộ của nước ta sang cầu phong, các vua Trung Quốc đã cử sứ sang ban sắc phong cho các vua Việt Nam.
Vì những lí do ấy, suốt từ thời Ngô (từ Ngô Xương Ngập) đến thời Nguyễn, các vị vua phong kiến Việt Nam ngay khi lên ngôi, việc đầu tiên là xin phong vương của các hoàng đế Trung Hoa.
2. Nội dung của hoạt động cầu phong giữa Việt Nam với Trung Quốc thời phong kiến
Sau đây là bảng thống kê việc các vua nước ta cử sứ giả sang Trung Quốc cầu phong và việc vua Trung Quốc ban sắc phong cho ta từ triều Ngô (bắt đầu dưới thời Ngô Xương Ngập) đến triều Nguyễn (Theo Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, 1967-1972. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH, tập 1,2,3,4; Phan Huy Chú, 1961.Lịch triều hiến ch­ương loại chí - Bang giao chí, bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội; Quốc sử quán triều Nguyễn, 1993.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 tập và Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962-1978. Đại Nam thực lục, Nxb KHXH, gồm 38 tập.)



Tên các
triều đại
Nước ta sang Trung Quốc
cầu phong
Sắc phong của hoàng đế
Trung Quốc ban cho vua Đại Việt
1. Triều Ngô
- Ngô Quyền chưa sang xin phong vương.

- 954: Ngô Xương Ngập sai sứ sang vua Nam Hán là Lưu Xưởng xin phong vương.
- Phong làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ.
2. Triều Đinh
- 972: Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang Tống xin phong vương.
- Phong Đinh Tiên Hoàng làm Giao chỉ quận vương.
- Phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư tĩnh hải quân tiết độ sứ An nam đô hộ.
- 975: Phong Đinh Tiên Hoàng làm Nam Việt Vương và Đinh Liễn làm Giao chỉ quận vương.
3. Triều Lê
- 980: Lê Đại Hành sai 2 sứ thần là Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ sang xin vua Tống phong Vương.
- Vua Tống không cho.

- 985: Vua sai sứ sang Tống xin lĩnh chức Tiết trấn.
- Vua Tống phong Lê Đại Hành chức Tiết trấn.
- 986: Vua Tống sai sứ sang phong cho Lê Đại Hành chức Kiểm hiệu thái bảo sử trì tiết đô đốc Giao Châu chư quân sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, Giao châu quản nội quan sát xử trí đằng sứ, kinh triệu quận hầu.
- 988: Vua Tống phong cho làm Kiểm hiệu thái uý.
- 993: Phong làm Giao chỉ quân vương.
- 997: Phong làm Nam Bình vương kiêm thị trung.
- 1010: Phong Lý Thái Tổ chức Kiểm hiệu thái phó, Tỉnh hải tiết độ sứ quan sát sứ, xử trí sứ, An Nam đô hộ, Ngư sử đại phu, Thượng trụ quốc giao chỉ quận vương.
Sau thêm Đồng binh chương sự.
- 1012: Phong thêm: Khai phủ nghị đồng tam ti.
- 1014: Phong thêm Bảo Tiết Thủ Chính công thần.
- 1018: Phong thêm: Kiểm hiệu thái uý.
- 1022: Phong thêm Kiểm hiệu Thái sư.
- 1028: Phong thêm Thị Trung Nam Việt vương.
- 1028: Phong cho vua Lý Thái Tông làm An Nam đô hộ giao chỉ quận vương.
- 1032: Phong thêm: Đồng Trung Thư môn hạ bình chương sự.
- 1034: Phong thêm Kiểm hiệu thái sư.
- 1038: Phong vua làm Nam Bình Vương.
- 1055: phong Tăng Thị Trung Nam Việt Vương.

- 1055: Vua Lý Thánh Tông sai sứ sang Tống cáo tang.
- 1055: Sách phong vua Lý Thánh Tông làm Kiểm hiệu thái uý tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ giao chỉ quận vương.
- 1064: Phong thêm: Đồng trung thư môn hạ bình chương sự.
- 1068: tiến Nam Bình Vương.
- 1074: phong vua Lý Nhân Tông làm Giao chỉ Quận vương.
- 1086: phong vua làm Nam Bình Vương.
- 1130: Phong vua Lý Thần Tông làm Giao chỉ quận vương.

- 1138: Vua Lý Anh Tông sai sứ sang Tống cáo tang Thần Tông.
- 1138: Phong vua Lý Anh Tông làm Giao chỉ quân vương.
- 1175: Đặc cách phong vua làm An Nam Quốc Vương([1]).
- 1177: Phong vua Lý Cao Tông làm An Nam Quốc Vương.
5.Triều Trần
- 1229: Vua Trần Thái Tông sai sứ sang thăm nước Tống.
- 1229: Phong vua Trần Thái Tông làm An Nam quốc vương.

- 1261: Vua Trần Thánh Tông sai sứ sang thăm nước Mông Cổ.
- 1261: Vua Mông Cổ phong vua Trần Thánh Tông làm An Nam Vương.
- 1262: Nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc vương, gia phong thượng hoàng làm An Nam đại vương.

- 1290: Thượng hoàng (Thánh Tông) băng, sai Đình Giới sang báo tang và xin phong.
- 1368: Vua Trần Dụ Tông sai sứ sang thăm nhà Minh.
- Nhà Nguyên không cho sứ sang phong.

- 1368: Vua Minh Thái Tổ phong cho vua Trần Dụ Tông làm An Nam Quốc Vương.
6. Triều Hồ
- 1403: Hồ Hán Thương sai sứ sang Minh xin cầu phong.
- 1403: Nhà Minh phong Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.
7. Triều Lê sơ
- 1427: Vua Lê Thái Tổ sai người dâng biển cầu phong cho Trần Cảo.
- 1429: Vua Lê Thái Tổ sai sứ sang xin sách phong.

- 1434: Vua Lê Thái Tông sai sứ sang báo tang Thái Tổ và cầu phong
- 1427: Nhà Minh Phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương.


- 1431: phong vua Lê Thái Tổ quyền thự An Nam Quốc sử.

- 1435: Quốc vương đem sắc cho vua Lê Thái Tông quyền coi việc nước.

- 1442: Vua Lê Nhân Tông sai sứ sang báo Tang Thái Tông và cầu Phong.
- 1460: Vua Lê Thánh Tông sai sứ sang cầu phong.

 - 1497: Vua Lê Hiến Tông sai sứ sang báo tang Thánh Tông và cầu phong.
- 1504: Vua Lê Dục Tông sai sứ sang báo tang Hiến Tông và cầu phong.
- 1510: Vua Lê Tương Dực sai sứ sang cầu phong.



- 1462: Phong vua Lê Thánh Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1499: Phong vua Lê Hiến Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1506: Phong vua Lê Dục Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1513: Phong vua Lê Tương Dực làm An Nam Quốc Vương.
8. Triều Mạc.
- 1540: Mạc Đăng Dung sai sứ mang hàng biển sang Yên Kinh cầu phong.
- 1540: Phong cho Mạc Đăng Dung làm Đô Thống Sứ, ấn bạc nha môn tòng nhị phẩm, ấn khắc chữ: An Nam Đô Thống Sứ Ti.
9. Triều Lê Trung Hưng
- 1597: Vua Lê Thế Tông sai sứ sang cầu phong.

- 1637: Vua Lê Thần Tông sai sứ sang cầu phong.
- 1598: phong vua Lê Thế Tông làm An Nam Đô Thống Ti Đô Thống Sứ.
           - 1647: Phong cho Thần Tông (lúc này là Thái thượng hoàng) làm An Nam Quốc Vương.
- 1651: Phong cho chúa Trịnh là Phó Quốc Vương.
- 1667: Phong vua Lê Huyền Thông làm An Nam Quốc Vương.
- 1683: Phong vua Lê Hy Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1719: Phong vua Lê Dụ Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1734: Phong vua Lê Thuần Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1761: Phong vua Lê Hiển Tông làm An Nam Quốc Vương.
- 1778: phong Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
10. Triều Tây Sơn
- 1789: Vua Quang Trung cử sứ bộ sang xin phong vương.
- 1792: Vua Quang Toản cho sứ sang báo tang và xin sắc phong.
- 1789: Phong vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.
- 1792: Phong vua Quang Toản làm An Nam Quốc Vương.
11. Triều Nguyễn
- 1802: Vua Gia Long cử sứ bộ do Lê Quang Đinh làm chánh sứ sang xin phong vương
- 1820: Vua Minh Mạng cử sứ bộ do Ngô Thì Vị làm chánh sứ sang báo tang vua Gia Long và xin phong vương cho vua Minh Mạng
- 1841: Vua Thiệu Trị cử sứ bộ do chánh sứ Lê Văn Phúc sang báo tang vua Minh Mạng và xin phong vương cho vua Thiệu Trị
- 1848: Vua Tự Đức cử sứ bộ báo tang vua Thiệu Trị và xin phong vương cho vua Tự Đức
- 1804: Vua Thanh cử người mang cáo, sắc, ấn đến làm lễ tuyên phong cho Gia Long

- 1822: Vua Thanh cử người mang cáo, sắc làm lễ tuyên phong cho Minh Mạng

- 1842: Vua Thanh cử người mang sắc để làm lễ sách phong cho Thiệu Trị


- 1849: Vua Thanh cử người mang sắc thư làm lễ sách phong cho Tự Đức
Qua bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy: việc xin phong vương của các triều đại phong kiến nước ta bắt đầu từ khi nước ta giành lại được độc lập chủ quyền từ thế kỷ X dưới thời Ngô, qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn Tây Sơn; Nguyễn, việc xin phong vương theo quy định là một việc đặc biệt hệ trọng trong quan hệ ngoại giao giữa nước ta với Trung Quốc mà hầu như không một triều đại nào ở nước ta bỏ qua.
Cứ theo thông lệ bình thường, khi nước ta có vua qua đời, vua mới lên nối ngôi lại cử một sứ bộ sang Trung Quốc báo tang và một sứ bộ sang xin phong vương. Hai sứ bộ này do hai vị quan cao cấp đứng đầu và cùng đi trong một đoàn. Về phía Trung Quốc, sau khi vua nhận được biểu của vua Nam thì cũng cử 2 bộ sứ bộ, một phong vương cho vua mới và một sang tế vua đã chết, trong đó có một trong hai vị chánh sứ làm trưởng đoàn chung. Theo sự thống kê của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, chúng ta thấy: sứ thần được mà Trung Quốc cử sang có thể là một vị quan cao cấp trong triều như Thượng thư, Thị lang, hay cũng có khi là các quan đầu tỉnh biên giới gần nước ta như Tổng đốc Lưỡng Quảng hay Tuần phủ. Các sứ thần do vua Trung Quốc cử sang mang sắc phong cho vua nước ta, nếu là triều đại mới lên nắm quyền thì được ban cho cả ấn vàng - tượng trưng cho quyền lực của Thiên triều. Tiếp đó, việc phong vương sẽ diễn ra theo nghi thức, thủ tục rất long trọng tại kinh đô (thời Đinh, Lê là ở Hoa Lư, các đời sau diễn ra ở Thăng Long; đến thời vua Tự Đức dưới triều Nguyễn diễn ra ở kinh đô Huế) từ việc đón tiếp sứ bộ Trung Hoa, các nghi lễ phong vương đến việc ban thưởng và chiêu đãi sau lễ thụ phong của các vị vua phong kiến nước ta. Cụ thể:
Khi nhận được tin phái đoàn Trung Quốc mang sắc thư và quốc ấn của vua Trung Quốc sang phong vương, các vua phong kiến nước ta lúc này đều cử những quan chức cấp cao của triều đình làm hậu mệnh sứ cùng với hàng nghìn lính và các tuỳ tùng lên tận Nam Quan để đón. Trên đường đến nơi làm lễ phong vương, hàng loạt trạm hay còn gọi là các công quán được dựng lên. Đó là những ngôi nhà sang trọng cho phái đoàn và tuỳ tùng nghỉ chân. Tiêu biểu như công quán ở Đồng Đăng thời vua Minh Mạng (triều Nguyễn). Đây là một nhà vuông, hai phía phải và trái đều có thêm nhà phụ, mỗi nhà có 5 phòng chính, hai nhà ngang và một nhà có 5 phòng chính và 2 phòng ngang. Tất cả đều lợp ngói. Ngoài ra còn có nhà để cúng bái, 2 trại lính [4;23-44]. Qua đó để thấy sự đón tiếp rất long trọng các sứ bộ Trung Hoa của nước ta.
Đến lễ phong vương cho các vua phong kiến nước ta, các nghi lễ diễn ra theo một trình tự chặt chẽ trong không khí rất long trọng. Sau đây xin trích một đoạn tả cảnh lễ phong vương của sứ bộ nhà Thanh cho các vua Nguyễn được giám mục Pellesin ghi lại và được Cadiere dẫn ra trong bài viết của mình ở cuốn: "Những người bạn cố đô Huế" năm 1916.
Hoàng đế (Trung Hoa) chỉ định một Chánh sứ và một Phó sứ. Khi đến biên giới An Nam, vua (An Nam) sẽ cử những vị quan đến đón họ và có trọng trách chờ đợi họ một cách cung kính. Các quan An Nam lễ kính cẩn đón nhận cái tráp rồng đựng những phong phẩm của hoàng đế, có nghĩa là phải quỳ ba lần, lạy chín cái (đầu đụng vào đất) trước cái tráp.
Quan An Nam phải quỳ một lần, lạy ba lạy trước vị Phó đại diện của hoàng đế.
Khi đoàn đến địa phận An Nam thì các giấy tờ từ triều đình Trung Hoa, và các đồ vật từ hoàng đế Trung Hoa gửi đến phải được cất giữ tại nhà khách dành cho phái đoàn Trung Hoa.
Sau khi làm thủ tục quỳ lạy thường lệ trước các phong phẩm ấy, các đại diện An Nam phải lạy ba lạy trước các đại diện Trung Hoa và đại diện Trung Hoa không được miễn cho các đại diện An Nam khỏi phải lạy.
Vào ngày như đã ấn định, tuyên đọc các tờ sách phong, thì vua An Nam cùng thái tử và quan chức sẽ đến nhà khách của các đại diện ở để làm lễ đón rước các văn kiện của hoàng đế và cái tráp rồng. Sau khi đã lễ bái theo thủ tục trước các phong phẩm, thì vua tự về cung và tờ sách phong đựng trong tráp rồng cũng như các tặng phẩm từ hoàng đế sẽ được đặt vào một cái xe riêng và đưa về hoàng cung.
Đoàn sứ giả Trung Hoa được dẫn đầu bởi cờ hiệu hoàng đế, trống và nhạc công, họ đi qua cửa chính và theo sau là các vật phẩm để trao gửi; họ bước lên các tầng cấp của điện vua mà ở giữa đã đặt sẵn một hương án và hai bên cạnh có hai bàn khác nữa. Bàn giữa là nơi đặt các tặng vật do hoàng đế Trung Hoa gửi sang.
Vua, thái tử cùng các quan lại An Nam làm lễ trước các vật ấy bằng ba quỳ, chín lạy và sau đó đến quỳ trước bàn đã đặt tờ phong sắc để nghe đọc tờ này. Khi đọc xong thì tờ sắc được đặt trở lại trên bàn và vua lại quỳ ba quỳ lạy chín lạy rồi đứng dậy. Các sứ giả Trung Hoa cáo từ, vua và đoàn tuỳ tùng tiễn chân họ đến tận ngoài rồi trở về cung…”[7;306].
Rõ ràng chúng ta thấy các vua nước ta đã phải "nhún nhường", thực hiện những nghi lễ vô cùng long trọng và mệt nhọc để nhận được sắc phong của hoàng đế Trung Hoa.
Sau lễ thụ phong ấy, các vị vua dưới thời phong kiến nước ta còn ban thưởng và chiêu đãi rất hậu cho các sứ thần Trung Hoa. Ví như: vua Minh Mạng sau lễ thụ phong đã chiêu đãi phái đoàn Trung Hoa một bữa cỗ thượng hạng (30 món), sáu bàn thứ phẩm (40 món) và 29 bàn hạng ba (30 món mỗi bàn). Ngoài ra còn có thêm 16 món ăn tráng miệng; không những thế, vua còn tặng quà rất hậu: 10 nén bạc mỗi nén 10 lạng, 4 livre quế hạng tốt, 20 tấm vải hoàng bố; 20 tấm vải bông. Ngoài số quà đó còn có thêm: 2 sừng tê giác, 1 đôi ngà voi, 1 bộ li rượu bằng vàng, 2 livre trầm hương [8;90-92]… Đó là chưa kể đến số quà của các quan chức chỉ định như đại diện biếu cho các sứ thần Trung Hoa trên đường về đến Nam Quan.
Có thể thấy, từ việc đón tiếp sứ bộ Trung Hoa, việc thực hiện những nghi lễ phong vương long trọng đến việc ban thưởng và chiêu đãi sứ thần Trung Hoa sau lễ thụ phong là cả một sự "nhún nhường" của các vua nước ta với mục đích nhận được sắc phong của hoàng đế Trung Hoa. Mặt khác, chính sự "nhún nhường", mềm dẻo này cũng đã toát lên được tầm quan trọng của việc xin phong vương từ hoàng đế Trung Hoa của các vua triều Nguyễn như thế nào? Một mặt nhằm cốt giữ quan hệ hoà hiếu giữ hai nước, mặt khác đảm bảo tính chính thống, hợp thức hoá sự lên nắm quyền của mình, phục vụ cho quyền lợi giai cấp dòng họ về lâu dài. Đó là phương cách giả danh "thần phục", nhún nhường với Trung Quốc mà triều đại nào ở Việt Nam cũng áp dụng trong ứng xử với Trung Quốc.
Song dù được quy định nghiêm ngặt, nhưng qua theo dõi diễn biến việc sách phong, cầu phong của các vua Đại Việt như bảng thống kê trên chúng ta thấy, việc thực hiện ra sao là tuỳ thuộc vào tương quan so sánh lực lượng giữa Trung Quốc và nước ta cũng như vào tiềm lực và vị thế của bản thân hai nước. Từ Đinh Tiên Hoàng đến Quang Trung, sau khi lên ngôi hầu hết đều sai sứ sang Trung Quốc xin cầu phong, nhưng trong rất nhiều trường hợp, chính "Thiên triều" Trung Quốc chủ động sai sứ sang sách phong chứ các vua nước Nam không sang cầu phong. Điển hình như các vua triều Trần nhường ngôi nhau, chưa sang cầu phong: Trần Thái Tông (1225 - 1258), Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Nhân Tông (1279 - 1293). Hay khi mới dựng nước, nhà Đinh, Lê chỉ được phong làm Kiểm hiệu thái sư, Giao chỉ quận vương rồi tiến dần lên Nam Bình Vương. Đến thời Lý, vua Lý Anh Tông mới là vị vua đầu tiên được nhà Tống phong làm An Nam Quốc vương và cũng lần đầu tiên nước ta được gọi bằng quốc hiệu An Nam…Qua đó để chúng ta thấy tương quan lực lượng giữa hai nước có tác động như thế nào tới quan hệ bang giao. Hay nói cách khác quan hệ bang giao cũng là tấm gương phản ánh thế và lực của mỗi quốc gia.
               *
*
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng triết học Trung Hoa mà chủ yếu là Nho giáo, các vị vua thời phong kiến Việt Nam đều đã tự đặt quyền lực “trời” ban cho mình dưới quyền lực của “Thiên triều” Trung Hoa và xem đó như là một điều hợp lẽ trời trong quan hệ giữa nước lớn với nước nhỏ. Các vua nước ta lúc này dù xưng là hoàng đế với thần dân trong nước, song với họ nếu chưa được Thiên triều công nhận qua “sách phong” thì cũng vẫn chưa có sự đảm bảo giá trị hợp pháp trong mắt người dân và các nước lân cận. Do vậy, từ thời Ngô Xương Ngập (triều Ngô) đến thời vua Thiệu Trị (triều Nguyễn), các vua đều phải xin phong vương sau khi lên ngôi, thậm chí các vua triều Nguyễn tuy đóng đô ở Phú Xuân (Huế) nhưng đều phải thân chinh ra Thăng Long để làm lễ tuyên thụ. Riêng đến thời Tự Đức (triều Nguyễn) thì nghi lễ tuyên phong đã được diễn ra ở Huế với những nghi thức trang trọng, tốn kém theo đúng thứ tự nghi lễ cổ xưa. Điều đó đã minh chứng rõ nét rằng: các vua nước ta đều tuân theo sự phân định ngôi thứ một cách rõ ràng: “chư hầu” thì phục tùng “Thiên tử” cho đúng phép, đúng lễ.
Bề ngoài thì như vậy, song ta nên hiểu thực chất của việc sách phong, triều cống này ra sao?
Trong tư tưởng của các triều đại phong kiến nước ta - đại diện cho cả dân tộc Việt Nam lúc này cũng giống như tư tưởng của người Việt Nam hàng nghìn năm qua luôn hiểu khái niệm “độc lập” có nghĩa là đất nước hòa bình, không có ngoại xâm, phương Nam và phương Bắc cương giới phân định rõ ràng, còn “lệ thuộc” được hiểu là bị mất độc lập, bị ngoại bang xâm chiếm đất đai, lãnh thổ và bị đè nén, áp bức trên mọi lĩnh vực. Nếu chúng ta đối chiếu cách hiểu trên với việc sách phong, triều cống thời bấy giờ thì rõ ràng là việc thực hiện sách phong, triều công của các triều đại phong kiến Việt Nam với Trung Hoa lúc này xét về cơ bản là không xâm phạm vào nguyên tắc “độc lập”, tức là sẽ không bị “lệ thuộc” theo cách hiểu như trên. Thực tế cho ta thấy danh hiệu “quốc vương” mà Trung Hoa phong cho các vua nước ta chỉ mang tính chất tượng trưng mà thôi. Các vị vua dưới thời phong kiến Việt Nam ngoài thì xưng vương nhưng trong nước lại xưng đế với thần dân. Hơn nữa, tuy danh nghĩa là “Thiên tử” đứng đầu “Thiên hạ” song thực tế thì Trung Quốc không được biết gì nhiều về những công việc nội trị của Việt Nam, ngoài những thông báo mang tính nghi lễ ngoại giao việc vua này lên ngôi, vua khác băng hà… Không những vậy, chúng ta còn dễ dàng nhận thấy hễ khi Trung Quốc có ý đồ xâm lấn đất đai biên giới, lãnh thổ hay khi an ninh biên giới bị đe doạ thì các triều đại phong kiến nước ta đều kiên quyết đánh trả bằng mọi phương tiện quân chính trị, ngoại giao, quân sự…
Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà Tsuboi trong Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa đã nhấn mạnh rằng: "Lịch sử của đất nước Việt Nam cũng là lịch sử của sự khẳng định độc lập với Trung Hoa"[9;43]. Điều này đúng không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình. Qủa thật, lịch sử Việt Nam đã hằn sâu dấu ấn của cuộc chiến đấu chống đế quốc Trung Hoa. Song sang thời bình ông cha ta đã thực hiện một tập tục khôn khéo, kéo dài hàng ngàn năm bắt đầu từ Khúc Thừa Dụ là "Độc lập thật sự, thần thuộc danh nghĩa" để ngoại giao được với một nước như Trung Quốc, để giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng không nằm ngoài mục đích tối cao ấy.

Tài liệu tham khảo
[1] Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chương loại chí - Bang giao chí, Bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội.
[2] Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, 1967-1972: Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH, tập 1,2,3,4.
[3] Tạ Ngọc Liễn, 1995. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XV - dầu thế kỷ XVI. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Thế Long, 2005. Bang giao Đại Việt triều Nguyễn. Nxb Văn hoá thông tin.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962-1978. Đại Nam thực lục, Nxb KHXH, gồm 38 tập.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1993. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 tập.
[7] Trích tập san Những người bạn cố đô Huế năm 1916, 1993. Nxb Thuận Hoá.
[8] Trích tập san Những người bạn cố đô Huế năm 1917,1993Nxb Thuận Hoá.
[9] Yoshiharu Tsuboi, 1992. Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885. Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội.


([1]) Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí….Sđd, tr138: Nước ta xưng là An Nam bắt đầu từ đó.
ThS Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Khoa Việt Nam học, ĐHSPHà Nội