TP - Được phép của giáo sư (GS) Mai Quốc Liên, xin được cảo thơm lần giở tập tư liệu hồi ức của GS Nguyễn Văn Hoàn.
…Cuối năm 1959, Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học nhà nước bắt đầu tập trung cán bộ để chuẩn bị thành lập và đi vào hoạt động. Tôi đang làm cán bộ giảng dạy của Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội liền trở thành cộng tác viên của Nhóm Truyện Kiều thuộc một tổ nghiên cứu của viện có cái tên gọi tắt ngộ nghĩnh Cổ - Cận - Dân(Cổ đại, Cận đại, Dân gian).
Sau đó Viện Văn học có dự kiến sẽ đề nghị kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 nên từ đầu năm 1962 tôi được điều về làm cán bộ nghiên cứu của Tổ Cổ - Cận, mới tách ra từ tổ nói trên, do nhà văn Trần Thanh Mại làm tổ trưởng. Công việc đầu tiên của chúng tôi là dự thảo kế hoạch kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.
Ngày 2/2/1962, Viện Văn học mở Hội nghị, mời đại diện các ngành liên quan và các nhà văn, nhà nghiên cứu đến góp ý kiến cho bản dự thảo kế hoạch. Đến dự có khoảng 70 người, trong đó có các ông Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Ca Văn Thỉnh, Minh Tranh (Ủy ban Khoa học nhà nước), Nguyễn Xuân Trâm (Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam), các nhà nghiên cứu Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, nhà thơ Xuân Diệu, các GS Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Lương Ngọc, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn (Đại học Hà Nội) v.v...
Sau lời tuyên bố lý do của ông Hoài Thanh, Phó viện trưởng Viện Văn học, ông Nguyễn Khánh Toàn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước, đã khai mạc hội nghị.
Ông nói: “Việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du là một sự kiện lớn trong sinh hoạt văn học của nước ta đồng thời có ý nghĩa chính trị và tầm quan trọng quốc tế. Một kiệt tác là thành tích của một cá nhân, một thiên tài, nhưng đồng thời thể hiện bản lĩnh sáng tạo của một dân tộc. Kỷ niệm Nguyễn Du là một dịp khiến ta hiểu ta hơn, từ đó đề cao tinh thần tự hào dân tộc và từ thực tiễn quá khứ rút ra bài học để tiến lên. Kinh nghiệm Liên Xô: Kỷ niệm 100 năm Puskin đã tạo được một bước phát triển mới cho nghiên cứu văn học, sân khấu, điện ảnh... Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều có ý nghĩa quốc tế của nó. Khi thực dân Pháp mới chiếm nước ta, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đầu tiên được dịch và nghiên cứu, đến nay không riêng gì ở Pháp mà ở Liên Xô và nhiều nước khác trên thế giới đều có dịch và nghiên cứu Truyện Kiều. Mấy năm nay Hội đồng Hòa bình thế giới có sáng kiến kỷ niệm danh nhân văn hóa các nước nhưng ta chưa có danh nhân tiêu biểu nào chẵn năm, lần này chúng ta sẽ giới thiệu Nguyễn Du ra thế giới kỷ niệm. Từ nay đến 1965 chúng ta còn 3 năm chuẩn bị,
Thời gian còn lại không nhiều. Viện Văn học sẽ là đơn vị chủ chốt nhưng cần có sự phối hợp với các cơ quan khác, cần có một kế hoạch, một tổ chức, cần lập ngay Ban trù bị kỷ niệm để theo dõi, phối hợp việc thực hiện, kể cả việc phối hợp với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài”.
Tiếp đó ông Trần Thanh Mại, thay mặt Viện Văn học trình bày kế hoạch dự kiến và hội nghị thảo luận rất hào hứng.
Phản hồi đầu tiên đến từ tỉnh Hà Tĩnh, có thắc mắc là sao chưa kỷ niệm Trần Phú mà đã kỷ niệm Nguyễn Du. Ông Đặng Thai Mai đã viết thư cho lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, đề nghị cho biết rõ ý kiến đó, đồng thời đề nghị Hà Tĩnh chưa nên vội di táng mộ Nguyễn Du và xây dựng trường học trên phần đất đã dự kiến dành cho khu lưu niệm.
Xây trường học trên phần đất khu mộ của Nguyễn Du? Chuyện động trời? Về sau hóa ra chuyện thế này. Dịp ấy, một đồng chí lãnh đạo Hà Tĩnh ra Hà Nội họp, đã đến thăm ông Đặng Thai Mai và nói: “Có chuyện chi mô anh, đó chỉ là một cách để Hà Tĩnh “vòi” Trung ương thêm kinh phí kỷ niệm Trần Phú, còn mần cụ mô trước thì có can chi mô vì cũng là danh nhân Hà Tĩnh cả!”.
Vấn đề Hà Tĩnh thế là được giải đáp, sau đó Viện Văn học lại nhận được tiểu luận Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du về truyện Kim Vân Kiều của ông Tôn Quang Phiệt, 91 trang đánh máy. Tác giả bản tiểu luận đã so sánh, đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để đi đến kết luận: Nguyễn Du đã phỏng dịch chứ không phải đã sáng tác ra Truyện Kiều, rồi kết thúc bằng mấy câu tập Kiều:
Rằng hay thì thật là hay!
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Rồi cụ Tôn Quang Phiệt thẳng thắn đề nghị không nên rầm rộ kỷ niệm Nguyễn Du bằng hai câu đậm hơi hướng Kiều thế này.
Dám xin gửi lại một lời:
Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau!
Có ý kiến cho rằng: Tiểu luận này phản ánh ý kiến của một đồng chí trong Bộ Chính trị. Kèm theo tiểu luận còn có một bức thư gửi đồng chí Tố Hữu:
“ Tôi muốn phổ biến bài này trong khi Viện Văn học đang chuẩn bị việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.
- Anh có đồng ý cho tôi đưa vấn đề này ra một cuộc nói chuyện và xuất bản công khai để tổ chức một cuộc thảo luận không?”.
Ở góc trái bức thư có lời ghi viết tay của thư ký đồng chí Tố Hữu:“Anh Lành ốm, không gặp được, đề nghị anh Mai (Đặng Thai Mai) gặp, trao đổi và do Viện định”.
Một vài cán bộ nghiên cứu trẻ trong Viện Văn học rất muốn đưa bài đó ra công khai để thảo luận nhưng ông Mai bảo:
“Trong tình hình hiện nay, để một câu chuyện văn chương làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết thì không đáng!”
Và yêu cầu cất bài đó vào ngăn tài liệu lưu trữ của viện.
Cuốn Kim vân kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (Trung Quốc).
Cũng xin nói thêm, cụ Tôn Quang Phiệt và cụ Đặng Thai Mai cùng quê Thanh Chương - Nghệ An, cùng học trường Quốc học Vinh và Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Gia đình ông Mai còn giữ một tấm ảnh cũ, chụp đội bóng đá trường Quốc học Vinh vào khoảng thập niên 1920, trong đó ông Phiệt là đội trưởng, mặc áo lương đen chít khăn đóng, đứng ở giữa, ông Mai mặc áo thủ môn ngồi bên cạnh. Với quan hệ thân thiết đó thật khó cho ông Mai đến gặp ông Phiệt để nói câu chuyện nghiêm túc trên đây.
Anh Hoài Thanh có sáng kiến cử tôi đi gặp ông Phiệt.
Tôi gọi điện thoại xin gặp bác Phiệt. Buổi sáng tôi đến số 10 phố Trần Hưng Đạo, bác hơi mệt, phải nằm trên giường tiếp chuyện tôi nhưng hai bác cháu vui vẻ trao đổi ý kiến về Truyện Kiều hầu như suốt cả buổi sáng, cuối cùng bác đồng ý là lúc này chưa nên công bố rộng rãi và tổ chức thảo luận về bài của bác. Lúc tôi ra về, bác lấy một gói sách đã gói sẵn để ở đầu giường đưa cho tôi và nói: “Mấy bản Kiều này bác không cần nữa nhưng với cháu thì chắc vẫn còn có ích”. Đó là một số bản Kiều quốc ngữ, in dưới thời Pháp thuộc. Đáng chú ý có một cuốn Kiều của Nguyễn Can Mộng, khổ nhỏ, mà theo ông Nguyễn Tường Phượng thì trước đây một số trí thức Hà Nội gọi một cách khinh thị là “bản Kiều cu ly xe” vì nó gọn, nhỏ, nên các cu ly xe kéo thường dùng để đọc trong lúc ngồi đợi khách!
Sau đó Viện Văn học được truyền đạt ý kiến của đồng chí Lê Duẩn:“Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.
Nhân dịp này tôi viết một bức thư kính gửi đồng chí Lê Duẩn trình bày ý kiến sau đây:
- Trong báo cáo Phong trào cách mạng dân tộc và Mặt trận dân tộc ở Nam Bộ từ cuộc Cách mạng tháng Tám đến ngày nay (1951), đồng chí có đề cập đến việc đánh giá Truyện Kiều và phê bình ý kiến của ông Hoài Thanh trong cuốn Quyền sống của con người trong Truyện Kiều (1949): “Lòng đau thương oán giận của cụ Nguyễn Du đâu có phải chỉ vì bọn phong kiến bất lực đê hèn. Chế độ phong kiến vẫn còn đẹp đẽ nguy nga với cụ. Cụ tức giận những bọn phong kiến bất lực mà cụ còn oán ghét một chế độ đương tiến lên, một chế độ thương mại... Vì bản chất giai cấp của cụ, cụ chỉ thấy mặt xấu của đồng tiền mà không thấy mặt tốt, mặt tiến bộ của nó. Đó là phần phản động củaTruyện Kiều”. Nhiều người nghiên cứu chưa hiểu rõ ý kiến này của đồng chí. Đề nghị nhân dịp kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí có bài phát biểu về Truyện Kiều.
Anh Đỗ Trình, thư ký riêng của đồng chí Lê Duẩn, đã trả lời tôi: “Bài đó anh Ba phát biểu đã lâu, nay anh cũng muốn phát biểu lại nhưng rất tiếc là không có thì giờ. Đề nghị Viện Văn học không in lại và công bố bài đó”.
Ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: “Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.
****
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu
TP - Làm Thư ký thường trực Ban trù bị kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, Giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn có nhiệm vụ phải thu thập tài liệu và theo dõi tình hình nghiên cứu Nguyễn Du ở trong nước và ngoài nước. Chúng tôi tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn…
Sưu tầm tài liệu ở Pháp và miền Nam nước ta rất khó khăn. May thay, giữa lúc đó Giáo sư J.Filliozat, Giám đốc trường Viễn Đông Bác cổ ở Paris, viết thư đến Viện Văn học đề nghị thiết lập quan hệ trao đổi sách báo thường xuyên giữa hai bên. Viện Văn học liền gửi đề nghị lên Ủy ban Khoa học nhà nước nhưng không được chấp thuận, thậm chí hồi đó có thời gian ta còn tạm đình chỉ cả việc dạy tiếng Pháp trong các trường học.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện thoại yêu cầu lên gặp một cơ quan cấp trên. Đồng chí phụ trách cơ quan đó truyền đạt cho tôi quyết định sau đây: “Do nhu cầu tài liệu cần cho việc kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí được phép lấy tư cách cá nhân trao đổi sách báo vềKiều với hai người quen biết ở Paris và Sài Gòn mà đồng chí thấy là thích hợp, nhưng không được tiết lộ việc này với ai, cũng không cần phải báo cáo với lãnh đạo Viện Văn học; khi nào có trục trặc thì lên đây báo cáo, cơ quan trên này sẽ tìm cách giải quyết”.
Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du khai mạc ngày 19/11 tại TPHCM. Ảnh: Hữu Huy.
Tôi vừa mừng vừa lo trước một sự cho phép như vậy và nghiêm chỉnh chấp hành.
Thế là từ năm 1963 tôi bắt đầu trao đổi sách báo với Tạ Trọng Hiệp, cộng tác viên của trường Viễn Đông Bác cổ Paris.
Trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn không đề cập gì về Tạ Trọng Hiệp. Nay xin bổ sung về người học trò kiêm cộng sự xuất sắc của GS Hoàng Xuân Hãn như sau:
Tạ Trọng Hiệp sinh ngày 18/10/1933 tại làng Thụy Khuê (làng Giấy), cạnh Hồ Tây, Hà Nội; từ trần hồi 21 giờ ngày 25/10/1996, vì bệnh ung thư, tại bệnh viện Kremlin Bicêtre, ngoại ô Paris. Hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 1970, Ðại học Paris VII muốn mở một ban Việt học. Tạ Trọng Hiệp sáng lập ra ban Việt học bắt đầu trường ở đường Censier rồi sau dọn sang đường Jussieu mà ông là GS Hán Nôm cho tới ngày mất. Ông là thành viên của Société Asiatique (Hội Á Châu).
Tủ sách của Tạ Trọng Hiệp cũng là một di sản văn hóa lớn lao cho giới nghiên cứu văn học. Tạ Trọng Hiệp làm việc âm thầm và những công trình của ông thể hiện phần lớn như những báo cáo cho Trung tâm nghiên cứu Khoa học Pháp.
Ông là vai chính trong việc phát hiện bộ Ðại Việt Sử ký Toàn thư, bản Nội các Quan bản.
Ông đã tham gia đắc lực vào việc hình thành Thư mục Di sản Hán Nôm từ đời Lý - Trần đến ngày nay.
Nhiều công trình nghiên cứu còn đang dang dở dưới dạng bản thảo chưa in, trong đó có chương trình Tuyển tập Văn bia Bi ký Việt Nam từ thời Lý Trần đến ngày nay. (Ðây là chương trình cộng tác giữa trường Viễn Ðông Bác cổ và Viện Hán Nôm Hà Nội- X.B)
Tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn: Thời gian này, tôi còn liên lạc qua một kênh khác với GS Nguyễn Văn Trung ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Kết quả trao đổi rất đáng hài lòng vì vị này cũng đang rất khát tài liệu xuất bản ở miền Bắc nước ta, còn các trục trặc thì không phải chờ đợi lâu mà xảy ra ngay:
Lần thứ nhất, tôi nhận được một giấy báo của bưu điện Hà Nội cho biết có một bưu phẩm gửi cho tôi đến từ Paris, nhưng tôi không được phép nhận vì toàn là ấn phẩm lạc hậu và phản động in ở Sài Gòn.
Tôi lên báo cáo với cơ quan trên và vài hôm sau thì nhận được gói sách đó. Nhân viên bưu điện ở đây dần dần quen mặt tôi nên việc gửi sách báo đi và nhận về theo luồng này trở nên thông suốt.
Lần thứ hai, một hôm đồng chí Phạm Huy Thông với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của ta tiếp một đoàn Hòa bình Mỹ, có một ông chuyển cho tôi một gói sách, đồng chí Phạm Huy Thông vốn là hiệu trưởng của tôi ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho thư ký chuyển gói sách đến cho tôi một cách tự nhiên, nhưng tôi thì cảm thấy cần viết ngay một bản tường trình, với các lý lẽ có thể nói được, gửi lên đồng chí Phạm Huy Thông, lúc đó là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, mới tách ra từ Ủy ban Khoa học nhà nước. Ít lâu sau gặp tôi, đồng chí nói: “Lúc đầu nhận được bản báo cáo của anh, tôi nghĩ là không cần thiết nhưng sau lại thấy anh làm thế là rất chủ động”.
Việc thứ ba còn rắc rối và tế nhị hơn, có một hộp các-tông nhỏ từ trường Viễn Đông Bác cổ Paris được gửi đến Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, rồi qua Bộ Ngoại giao ta cuối cùng đến Văn phòng Ủy ban Khoa học xã hội. Đồng chí Vụ trưởng Vụ Liên lạc đối ngoại Ủy ban Khoa học xã hội trao cho tôi một cái hộp nhỏ đó, trong đựng một bản vi phim (microfilm) bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Đến đây cũng mở thêm một cái ngoặc là trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn, có thể do khuôn khổ bài viết chưa có sự chú giải về nguồn tài liệu quý hiếm thời điểm ấy. Đó là bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Như nhiều người đã biết, bản Kiều quốc ngữ xưa nhất là bản Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm in vào năm 1875, bản Truyện Thúy Kiều do Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ hiệu khảo, bản Kim Vân Kiều do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải (1925), Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, bản Truyện Kiều Chú Giải do Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính và bình luận, bản Kim Túy Tình Từ do Phạm Kim Chi san định in năm 1917...
Bản cổ nhất được xác định là bản Liễu Văn đường in năm 1866.
Về thời gian Nguyễn Du viết Truyện Kiều, chưa có sách nào minh định rõ ràng? Nhiều tài liệu khẳng định chắc khừ, Nguyễn Du viết Kiều sau khi đi sứ Trung Hoa ở Yên Kinh về (tức là trong khoảng thời gian từ 1814 đến trước khi ông mất -1820). Có thể vin vào lý do là khi đi sứ Trung Hoa, Nguyễn Du mới đọc được truyện Vương Thúy Kiều trong tập Ngu Sơ Tân Chí của Đạm Tân Dư Hoài, và nhất là Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chăng? Cuốn ấy như nhiều người đã rõ, đây là quyển sách được viết theo thể văn xuôi mà từ nội dung, nhân vật của sách này Nguyễn Du đã viết thành Truyện Kiều. Người ta cho là thời của Nguyễn Du không dễ dàng gì một tác phẩmkhông mấy nổi tiếng như hai quyển trên (hai quyển Vương Thúy Kiều của Đạm Tân Dư Hoài, và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân) là những tác phẩm vốn chưa bao giờ được coi là nổi danh, là hot văn học Trung Hoa cỡ như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tam Quốc Chí... Vậy nên khó lòng hai quyển này lại sang được xứ Nam mình thời bấy giờ?
Kim Vân Kiều thích chú - Bản Kiều cổ được trưng bày tại triển lãm.
Xin trở lại bản Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh thị tân thuyênxuất bản năm Nhâm Thân (1872) đã được in tại Phật Trấn- Việt Đông bên Trung Quốc. Kể về năm in thì bản ấy ra đời sau bản Liễu Văn Đường tân san năm Bính Dần (1866) tới sáu năm.
Bản này đã được tái bản ba lần: Bảo Hoa các (1879), Văn Nguyên đường (1879) và Thiên Bảo lâu (1891). Các lần tái bản sau đều khắc đúng như bản in lần thứ nhất.
Năm 1884, Abel Des Michels, người đầu tiên dùng bản Duy Minh thịđể dịch Truyện Kiều sang Pháp ngữ, đã có nhận xét rằng, bản ấy có quá nhiều lỗi vì đã được giao cho những người thợ Trung Quốc không biết tiếng Nam (chữ Nôm) khắc ván in. Bản ấy chỉ được phổ biến ở miền Nam và Trương Vĩnh Ký cũng đã có tham khảo khi phiên âm Truyện Kiều lần đầu tiên sang quốc ngữ. Nhưng bản Duy Minh thịđã không được các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Bắc dùng làm tài liệu tham khảo. Mãi tới năm 1971, bản Duy Minh thị mới được ông Vũ Văn Kính dùng làm tài liệu để biên soạn quyển Đoạn trường tân thanh khảo lục nhưng ông cũng không chép theo bản này mà phần lớn đều theo bản Kiều Oánh Mậu (1902) và bản Quan Văn đường (1925).
Người đầu tiên đi sâu vào văn bản này là cụ Hoàng Xuân Hãn. Cụ cho biết: “Bản này in sai rất nhiều, cho nên không mấy ai để ý tới. Nhiều khi người ta cho là bản một người dốt chép lại, không ai để ý. Nhưng sự thực bản ấy là bản quý nhất. Về mặt niên đại, về chữ húy, chỉ có húy đời Gia Long không có húy đời Minh Mạng, thì biết rằng bản viết người ta theo đó để mà sao lại, chắc chắn đầu đời Gia Long. Bản ấy có nhiều sai lầm nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn” (X.B chú dẫn theo nguồn Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967).
Nhiều tư liệu quý tại triển lãm về Nguyễn DuKỷ niệm 250 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du, Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du đã được Sở VH-TT-DL TPHCM khai mạc tại TPHCM ngày 19/11. Triển lãm đã trưng bày nhiều tư liệu quý về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du cũng như các tác phẩm Truyện Kiều của nhiều thời kỳ. Trong đó đáng chú ý là 249 đầu sách viết về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Du bằng nhiều ngôn ngữ của các học giả nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Đào Duy Anh, Trương Tửu… thực hiện. Triển lãm kéo dài cho đến hết ngày 25/11.Trọng Thịnh
***
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Kỳ VI:
Bác Hồ với Truyện Kiều
TP - Tiếp mạch hồi ức của giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn: …Đối với tôi và một vài đồng nghiệp khác thì nhờ có nguồn trao đổi này (đã nói ở kỳ V) mà có tài liệu rất kịp thời đến từ Huế và Sài Gòn, còn trục trặc thì chưa dừng ở đây.
Sau khi Sài Gòn được giải phóng, năm 1978, tôi được cử đi học ở Ý, chờ đợi mãi, đã quá hạn học bổng mà vẫn chưa nhận được giấy phép của Bộ Công an cho phép xuất cảnh. Anh Đinh Lư, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, kiêm Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học xã hội, vốn là cán bộ hoạt động địch hậu, đã để lại một cái chân ở chiến trường Quảng Ngãi, cũng sốt ruột, đã phải thân hành lên Bộ Công an hỏi lý do và nhận được một câu trả lời xanh rờn: “Đồng chí này có liên hệ bất minh với phía bên kia”. Anh về gặp lại tôi với vẻ mặt lo lắng. Tôi kể sơ qua cho anh nghe về việc tôi được phép năm 1963 thì anh thốt lên: “Chế độ đơn tuyến!”. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe thấy thuật ngữ này. Hôm sau tôi nộp cho anh một số tài liệu cần thiết. Anh lại lên Bộ Công an và lúc về vui vẻ bảo tôi: “Bên công an họ khen anh lưu trữ tài liệu tốt”. Tôi nghĩ thầm trong bụng: Đó là do tôi học được từ “Đơ bê” ( Phòng Nhì- 2B) vì hay đọc tư liệu lưu trữ của mật thám thực dân Pháp.
Rồi đến một hôm đầu năm 1964, đồng chí Tố Hữu gọi điện thoại cho ông Đặng Thai Mai: “Xin báo anh biết, Bộ Chính trị đã thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du, thông qua một cách chóng vánh. Điều ngạc nhiên là Ông Cụ (Bác Hồ) đã phát biểu trước tiên. Ông có dặn: Đối với nhân vật Từ Hải thì đề cao vừa vừa thôi! Nhân vật này hèn! Anh Trường Chinh có nói đỡ: Từ Hải phạm tội đầu hàng nhưng đã phải trả giá chết đứng ở trận tiền! Ông Cụ lại bồi thêm: Không chết đứng ở trận tiền thì rồi cũng chết quỳ ở triều đường thôi”.
Tôi bỗng nhớ lại nhiều câu chuyện chứng tỏ sự yêu quý của Bác Hồ đối với Truyện Kiều. Anh Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, có lần kể với tôi, lần nào đi công tác nước ngoài Bác cũng nhắc anh Vũ Kỳ đem theo cho Bác một quyển Kiều, nhưng lịch làm việc ở nước ngoài thường rất căng, anh không bao giờ thấy Bác có thì giờ đọc Truyện Kiều vào ban ngày, có thể Bác chỉ tranh thủ đọc trước khi đi ngủ. Nhưng những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.
Tác phẩm truyện Kiều dịch sang tiếng Pháp. Ảnh: Hữu Huy
Đồng chí Tố Hữu nói: “Bộ Chính trị đã chính thức thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du năm 1965. Thực hiện chủ trương đó chúng ta cần chú ý các việc sau:
1. Thứ nhất phải đánh giá Nguyễn Du cho thật đúng mức. Nghĩa là không quá cao mà cũng đừng quá thấp. Từ trước đến nay đánh giá Nguyễn Du thường có hai khuynh hướng đó nhưng nói chung thì đề cao nhiều hơn, nhất là về phương diện nghệ thuật. Nói nghệ thuật của Nguyễn Du cũng nên phải lời, phải lẽ, nói cho có căn cứ. Cái gì của Nguyễn Du, cái gì không phải của Nguyễn Du. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là ở đâu.
Về phương diện nội dung, không thể đòi hỏi Nguyễn Du như chúng ta ngày nay nhưng không phải mọi cái hay của Nguyễn Du đã được nói đầy đủ và sâu sắc.
Nên đọc lại và suy nghĩ về những cái xưa nay người ta đã viết về Nguyễn Du. Nên tranh thủ nghe ý kiến của các đồng chí lãnh đạo hiện nay, ít nhất nghe cho được ý kiến của bốn anh: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Nên tổ chức phỏng vấn. Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều rất đáng mở ra một cuộc thảo luận.
2. Giới thiệu Nguyễn Du ra nước ngoài thế nào cho người nước ngoài thấy được giá trị của Nguyễn Du. Chú ý đừng để gây ra ngộ nhận, nhất là trong tình hình hiện nay. Các tác giả lớn xưa nay hay mắc nạn! Các thế lực xấu luôn khai thác để kiếm lợi.
Cũng nên quan tâm đến sự cân đối. Cân đối giữa danh nhân văn hóa và danh nhân chính trị. Cân đối trong một địa phương. Từ Nguyễn Du có ý kiến đã nêu Trần Phú, nhưng còn Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu nữa”.
Sau khi có chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc kỷ niệm Nguyễn Du, mọi công việc liên quan đều được xúc tiến khẩn trương, trong đó đặc biệt nhất là việc chuẩn bị các tài liệu bằng ngoại văn, nhất là một bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Từ năm 1962 ông Phan Nhuận, kiều bào ở Paris, đã nhận dịch vì ông đã dịch rất thành công Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch. Nhưng Phan Nhuận mới dịch được 128 câu thì đột ngột từ trần, ông Đặng Thai Mai lại đề nghị ông Nguyễn Khắc Viện dịch tiếp nhưng phải cho kịp trước ngày kỷ niệm. Ông Nguyễn Khắc Viện nhận lời nhưng cũng nêu điều kiện phải cho phép anh dịch Kiều theo quan niệm riêng của anh. Ông Mai vui vẻ nhận lời. Trong quá trình hoàn thành bản dịch, ông Nguyễn Khắc Viện đã đăng bài Le Kiều: Trésor littéraire des Vietnamiens trên tạp chíLa Pensée của Pháp số 119, tháng 2/1965, kèm theo hai đoạn dịchKiều của anh. Căn cứ vào hai đoạn trích này ông Đào Duy Anh đã gửi thư đến các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng Thai Mai và Hoài Thanh nói rằng: “Tôi thấy hai đoạn ấy dịch đã không sát mà còn nhiều điểm sai và tôi trộm nghĩ rằng những đoạn văn dễ ấy mà còn dịch không đạt như thế thì không rõ những đoạn văn khác tinh tế và khó hơn sẽ dịch ra sao?”.
Tiếp theo còn có thư phê bình của ông Trần Quốc Nghệ và Trần Đình Đàn gửi từ Hà Tĩnh ra. Ông Đặng Thai Mai đã bảo Văn phòng Viện Văn học gửi các bản góp ý kiến ấy cho anh Nguyễn Khắc Viện tham khảo. Anh Viện đã trả lời: “Tôi nhận thấy, đây không phải là ông Anh và tôi đã hiểu khác nhau những câu, những chữ trích ra, nhưng thực tế là do hai bên đã áp dụng một quan niệm, một phương châm dịch khác nhau”.
Minh họa Kiều của Nguyễn Tư Nghiêm.
Đồng chí Trường Chinh còn tổ chức một cuộc tọa đàm tại nhà riêng về Truyện Kiều với một số nhà nghiên cứu và nhà văn. Tại Hội nghị thảo luận về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học trong hai ngày 17 và 18/8/1965, đồng chí cũng đến dự và phát biểu: “Đồng chí Đặng Thai Mai có đặt vấn đề tôi sẽ phát biểu về Truyện Kiều trong một buổi nào đấy. Đó là một trách nhiệm rất nặng đối với tôi, vì tôi không có nhiều thì giờ để nghiên cứu. Nhưng tôi rất thích và chú ý đến kiệt tác này. Rồi đây nếu có ý kiến gì xét ra bổ ích cho các đồng chí thì tôi sẽ xin phát biểu, còn nếu không thì phát biểu làm gì, tốt hơn là như cụ Lê Thước nói hôm qua “dựa cột mà nghe” thì hơn. Tôi đến đây chủ yếu là học tập các đồng chí, nghe các đồng chí phát biểu tôi thấy sáng tỏ thêm nhiều vấn đề. Xin cám ơn các đồng chí”.
Sau đó đồng chí đã có cuộc nói chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học (20/10/1965).
Trong hoàn cảnh đất nước ta còn bị chia cắt và có chiến tranh phá hoại của Mỹ, chúng ta vẫn tổ chức thành công sự kiện kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 và đã gây được ảnh hưởng tốt trong dư luận trong nước và quốc tế. Đồng chí Charles Fourniau, phóng viên thường trú của báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp, từ Hà Nội đã gửi bài Một nhà thơ và chiến tranh về Paris đăng trên báo Phê Bình Mới số 175, tháng 4/1966 mạnh mẽ khẳng định bản lĩnh và ý chí của nhân dân Việt Nam: “Trong lúc những máy bay siêu âm, một trong những thành tựu phức tạp nhất của kỹ thuật hiện đại còn tung bom xuống Tiên Điền, làng quê của Nguyễn Du, ở giờ phút mà nhân dân Việt Nam nổi tiếng, bất chấp tất cả, vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ dân tộc của mình. Toàn thế giới thấy rõ chính nghĩa ở về bên nào, tự do và hòa bình ở về bên nào”.
Trong hoàn cảnh đất nước ta còn bị chia cắt và có chiến tranh phá hoại của Mỹ, chúng ta vẫn tổ chức thành công sự kiện kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 và đã gây được ảnh hưởng tốt trong dư luận trong nước và quốc tế. Đồng chí Charles Fourniau, phóng viên thường trú của báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp, từ Hà Nội đã gửi bài Một nhà thơ và chiến tranh về Paris đăng trên báo Phê Bình Mới số 175, tháng 4/1966 mạnh mẽ khẳng định bản lĩnh và ý chí của nhân dân Việt Nam: “Trong lúc những máy bay siêu âm, một trong những thành tựu phức tạp nhất của kỹ thuật hiện đại còn tung bom xuống Tiên Điền, làng quê của Nguyễn Du, ở giờ phút mà nhân dân Việt Nam nổi tiếng, bất chấp tất cả, vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ dân tộc của mình. Toàn thế giới thấy rõ chính nghĩa ở về bên nào, tự do và hòa bình ở về bên nào”.
_____________________
(Còn nữa)
Những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.