Monday 30 July 2012

Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây 1 (Vương Trung Hiếu)

Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây (P.1)
Vương Trung Hiếu
Trước đây, trên Kiến Thức Ngày Nay (KTNN) có mục Chuyện Đông – Chuyện Tây của tác giả Huệ Thiên (An Chi). Mấy ngày nay, tình cờ vào vnthuquan.net chúng tôi thấy đăng lại một số bài viết trong mục Chuyện Đông - Chuyện Tây năm 1992 -1993. Tò mò chúng tôi đọc rồi giật mình vì nhận ra có những chi tiết “đáng ngờ” trong loạt bài ấy. Chúng tôi trích đăng lại ở đây một số nhận định của ông An Chi và nêu quan điểm của chúng tôi để bạn đọc đối chiếu, ngõ hầu làm sáng tỏ đôi điều về chữ nghĩa. Do trích từ bản sao trên mạng nên có thể một số chi tiết trong loạt bài ấy bị lỗi kỹ thuật, không chính xác như bản gốc trên KTNN. Bạn đọc nào phát hiện ra những sai sót so với bản gốc, xin vui lòng gởi email thông báo để chúng tôi kịp thời chỉnh sửa. Xin chân thành cám ơn.

KTNN 95, ngày 01-11-1992

AC (An Chi): Trước hết xin nói rằng đây là rể Đông sàng, dâu Nam giánchứ không phải là "Đông sàn" và “Nam giáng". Sàng là giường: vậy Đông sàng là giường phía Đông. Gián là khe núi: vậy Nam gián là khe núi phía Nam. Vế rể Đông sàng bắt nguồn ở tích Đông sàng thản phúc, nghĩa là nằm thẳng bụng trên giường phía Đông. Chuyện rằng nhà Vương Đạo có nhiều con trai chưa vợ nên Hy Giám mới cho người sang đọ để kén chồng cho con gái. Đám con trai nhà họ Vương biết thế nên anh nào cũng lăng xăng tìm cách làm cho khách để ý. Chỉ có Vương Hy Chi là nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra. Nghe người nhà thuật lại, Hy Giám biết Hy Chi ắt là rể quý, bèn chọn ngày lành tháng tất mà gả con gái cho. (…) Còn vế dâu Nam gián thì bắt nguồn từ lời của một bài trong Kinh Thi của Trung Hoa: Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tânnghĩa là đi hái rau tần bên khe núi phía Nam . Chỉ sự tần tảo của người con gái. Dâu Nam gián là con dâu chịu thương chịu khó. Truyện Lục Vân Tiên có câu:
Xem đà đẹp đẽ hòa hai:
Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng.

VTH (Vương Trung Hiếu): Phần giải thích trên có những chi tiết nhầm lẫn sau:

- Trong điển cố Đông sàng thản phúc 東床坦腹, quan Thái Uý  Si Giám 郗鑒 là người kén chồng cho con gái chứ không phải là Hy Giám. Si Giám chọn rể từ những học trò, con cháu của Vương Đạo王導 chứ không phải từ “đám con trai” của Vương Đạo. Bởi vì, cha của Vương Hi Chi 王羲之 là Vương Khoáng chứ không phải là Vương Đạo. Vương Đạo là bá phụ của Vương Hi Chi, tức anh của Vương Khoáng.

- Nếu chỉ căn cứ vào chi tiết: “Vương Hy Chi nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra” thì làm sao có thể biết đó là rể quý? Thật ra, nội dung điển cố cho biết Vương Hi Chi 王羲之nằm trên giường, ăn bánh và cầm cọ viết thư pháp, không quan tâm đến chuyện chung quanh. Đây mới là chi tiết khiến Si Giám cho rằng Vương Hi Chi có tài, xứng đáng là rể quý.  Đúng như dự đoán của Si Giám, Hi Chi là người học giỏi, có tài viết chữ đẹp, về sau làm đến chức Hữu Quân 右军. Ông còn là nhà thư pháp vĩ đại nhất thời Đông Tấn (317-420), được người đời sau tôn là Thư Thánh.

- “Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tân” là câu sai, viết đúng phải là Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, 于以采蘋, 南澗之濱 (trích từ bài  thơ Thái Tần 采蘋trong Kinh Thi 詩經).

- “Thể” không có nghĩa là “hái”. Những từ Hán có âm Hán Việt là “thể” (婇, 体, 躰, 體, 醍) đều không có nghĩa là “hái”.  Thái 采 mới có nghĩa là “hái”.

- Nam gián là cách viết sai, viết đúng phải là Nam giản. “Gián” không có nghĩa “khe núi”. Tất cả những chữ Hán có âm Hán Việt là  “gián” (谏, 瞷, 覸, 諫, 僩, 閒) đều không có nghĩa là “khe núi”. Giản 澗 mới có nghĩa là “khe, suối, dòng nước giữa hai núi”.  Vì thế, câu Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân có nghĩa là “Đi hái rau tần, ở khe suối phía Nam”.

- Câu “Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng” trích trong Lục Vân Tiên bị sai ở chữ “gián”, viết đúng phải là “giản”.

Lạm bàn: Thoạt nhìn, Đông sàng 東床 có nghĩa “là giường phía Đông”, nhưng nếu biết về nghi thức xưa của người Trung Hoa thì có thể hiểu khác hơn về hai chữ này. Ngày xưa, nơi ngủ của hoàng tử sắp kế vị vua thường được xây ở phía Đông (Đông cung), còn nơi ngủ của giới sĩ phu thường tuân theo nguyên tắc: giường đặt ở phía Bắc, còn đầu giường thì quay về phía Đông. Vậy, có thể hiểu đông sàng là “giường quay đầu về phía Đông” được chăng? Điều này có ghi rõ trong thiên Kí tịch lễ 既 夕禮, trích từ Nghi lễ 儀 禮: Sĩ xứ thích tẩm, tẩm đông thủ vu bắc dong hạ 士 處 適 寢, 寢 東 首 于 北 墉 下 (Phòng ngủ của kẻ sĩ, giường được đặt ở phía Bắc, đầu quay về phía Đông). Câu trả lời xin dành cho những bậc thức giả uyên bác về Hán học.

KTNN 96, ngày 15-11-1992

AC: Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gaulois). Người Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ Gallus trong tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là gallus, có nghĩa là con gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm gallus của tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm "người Gô-loa" lại vừa biểu hiện khái niệm con gà trống". Vậy cứ theo ngôn ngữ này, người ta có thể chơi chữ bằng đẳng thức: Người Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus). (…) Nếu ta biết rằng tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao người Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tượng cho dân tộc mình như thế.

VTH:  Trước hết, cần khẳng định rằng người Pháp không căn cứ vào tiếng Latin để chọn gà trống làm biểu tượng cho dân tộc mình và người Pháp không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Có lẽ người đầu tiên nhận thấy sự đồng âm của từ gallus là  Gaius Suetonius Tranquillus. Vào thời La Mã cổ đại,  trong bộ De Vita Caesarum, Suetonius đã nhận xét rằng trong tiếng Latin, gà trống (gallus) và người Gaulois (Gallus) là từ đồng âm. Tuy nhiên, kể cả ông và người Pháp cũng không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Cách chơi chữ này do chính kẻ thù của nước Pháp đặt ra từ thời Trung cổ nhằm để chế giễu người Pháp. Song, việc cho rằng gà trống là biểu tượng của dân tộc Pháp là điều không chính xác, vì thời đó gà trống không được xem là sự nhân cách hoá dân tộc của người Pháp và nó cũng không phải là con vật thiêng của người Gô –loa trong thần thoại của họ. Mặt khác, không có khái niệm “quốc gia Gô -loa”, chỉ có sự liên kết lỏng lẻo những quốc gia thuộc vùng Gaule (*). Oái oăm thay, những vị vua của nước Pháp vào thời kỳ ấy lại chấp nhận cách chơi chữ gallus và phát triển nó để củng cố vững chắc cho biểu tượng của Cơ Đốc giáo, đó là hình ảnh của con gà trống.  Trước khi bị bắt, Chúa Jésus có nói với thánh tông đồ Peter về tiếng gà gáy.  Tiếng gáy vào mỗi sáng được xem là biểu tượng chiến thắng hàng ngày của ánh sáng trước bóng tối và sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Ngoài ra, nó còn là sự biểu trưng cho thái độ thận trọng và sẵn sàng của người Công giáo đối với sự trở lại đột ngột của Chúa, hiện tượng phục sinh sau khi Chúa qua đời và sự phán quyết cuối cùng của nhân loại. Đó là lý do tại sao, trong thời Phục Hưng, gà trống trở thành biểu tượng của nước Pháp, vì nước này chủ yếu là người Công giáo. Gà trống đã trở thành hình ảnh Công giáo phổ biến trên những cái chong chóng chỉ hướng gió (weathervanes). Tóm lại, người Pháp chọn biểu tượng gà trống Gô-loa cho dân tộc mình không phải xuất phát từ tiếng Latin, mà vì chính họ là người Công giáo.

*
KTNN 96, ngày 15-11-1992

AC: Sở dĩ sách xưa không có tên Hồng Hà vì đây là một cái tên rất mới do chính người Việt chúng ta dịch từ tiếng Pháp, gọi nôm na hơn một chút là sông Hồng. Sông Hồng có đặc điểm nổi bật là nước của nó về mùa lũ thì rất đỏ, nên người Pháp dựa vào đó mà gọi nó là fleuve Rouge (sông Đỏ). (…) Vậy Hồng Hà hay sông Hồng chỉ là những "bản dịch" sang tiếng Việt của tiếng Pháp fleuve Rouge mà thôi. Xin phân biệt với Hồng Giang, một chi lưu xưa của sông Hồng, chảy qua tỉnh Hải Dương.

VTH: Hồng Hà không phải là cái tên dịch từ tiếng Pháp. Nó là tên con sông 红河 bắt nguồn từ Trung Quốc, được người Việt gọi theo âm Hán Việt là Hồng Hà. Chính người Pháp đã dịch cái tên Hồng Hà hoặc 红河 sang tiếng Pháp là fleuve Rouge (sông Đỏ). Theo Wikipedia, Hồng Hà bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam rồi đi ra biển Đông. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc gọi là Nguyên Giang 元江, đoạn đầu nguồn gọi là Lễ Xã Giang 禮社江. Đoạn trên lãnh thổ Việt Nam còn được người Việt gọi là sông Hồng hay sông Cái (người Pháp phiên tên gọi này thành Song-Koï). Sử Việt còn ghi tên Hồng Hà là Phú Lương. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Xin lưu ý, ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc cũng có một con sông khác với tên gọi là Hồng Hà 洪河, đây là chi lưu của Hoài Hà 淮河 (hay Hoài Thủy 淮水).

KTNN 99, ngày 01-01-1993
Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giángsinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này.

ACYule là hình thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại geol, với biến thể geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà tiếng Phần Lan láng giềng đã mượn và phát âm thành joulu. Theo Eric Partridge, hình thái cổ đại geol bắt nguồn từ một hình thái tiền thân là geol, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại còn có danh từ geola để chỉ tháng December (tháng Chạp dương lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. Còn geol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng geola, tức là ngày Giáng sinh.

VTH: Theo sử gia người Anh Bede (thế kỷ thứ 8),  trong lịch Anglo-Saxon có tháng geola hay giuli tương ứng với tháng 12 hoặc tháng 12 và tháng giêng trong dương lịch. Vì thế có thể khẳng định rằng Yule không chỉ là ngày lễ của tháng geola. Mặt khác, ngay từ lúc mới xuất hiện với tư cách là lễ hội, Yule  cũng không phải là từ dùng để chỉ ngày Giáng sinh của đạo Cơ Đốc.

Theo Wikipedia, Yule hay Yuletide là từ dùng để chỉ giai đoạn mùa đông và là lễ hội mà người Đức sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Ấn Âu (Germanic peoples) và vài dân tộc láng giềng khác tổ chức, xem như một lễ hội tôn giáo, về sau được đánh đồng với lễ Giáng sinh (Christmas, 25 tháng 12) của người Cơ Đốc giáo. Dấu tích xưa nhất cho sự kiện này là dựa theo lịch địa phương Đức (Germanic calendars). Vào thế kỷ thứ 4, Yule là tên tháng xuất hiện trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), gọi là  fruma jiuleis. Nhìn chung, Yule là một lễ hội hoạt động kéo dài từ giữa tháng 11 đến đầu tháng Giêng, giai đoạn tập trung nhất là vào khoảng giữa mùa đông (winter solstice). Những nhà nghiên cứu đã nối kết lễ này với thần thoại dân gian cổ Wild Hunt và thần Odin để tăng thêm hoạt động có tính siêu nhiên và sự kiện đêm Modranicht của người Anglo-Saxon ngoại giáo.

Xét về từ nguyên, Yule trong tiếng Anh hiện đại có nguồn gốc từ những chữ trong tiếng Anh cổ: ġéol hay ġéohol và ġéola hay ġéoli, với nghĩa cổ là “lễ hội Yule 12 ngày”, sau đó có nghĩa là nghĩa “mùa Giáng sinh” (Christmastide, từ 24/12 đến 06/01) và cuối cùng là nghĩa “tháng Yule”. Vì thế  ǽrra ġéola có nghĩa là giai đoạn trước lễ Yule (tháng 12), còn æftera ġéola là giai đoạn sau lễ Yule (tháng Giêng). Cả hai từ ġéol và ġéola được tin là có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Germanic và có cùng gốc với từjiuleis trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), từ jól trong  tiếng Đức cổ, từ jul trong tiếng Đan Mạch và Thụy Sĩ , từ jul hoặc jol và ýlir trong tiếng Na Uy (1). Tuy nhiên, gốc từ nguyên của Yule không còn dấu tích đáng tin cậy, mặc dù đã có một số nghiên cứu cố gắng suy đoán về những từ cùng gốc trong hệ ngôn ngữ Ấn Âu bên ngoài nhóm  Germanic (2). Danh từ Yuletide (mùa giáng sinh, mùa Nô en) được chứng thực lần đầu tiên vào khoảng năm 1475 (3). Ngày nay, trong những quốc gia nói tiếng Anh,Yule là từ được dùng trong phạm vi hẹp để nói về mùa Giáng sinh. Thí dụ, trong mùa Giáng sinh, có những tục lệ như  Yule log, Yule goat, Yule boar, Yule singing…, ngoài ra cũng có những thuật ngữ khác xuất phát từ chữ Yule.

*
(1): Bosworth & Toller (1898:424); Hoad (1996:550); Orel (2003:205).
(2) Proto-Germanic (thường viết tắt là PGmc.) hay Common Germanic là tiền ngôn ngữ của tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Germanic được tái thiết, thí dụ như tiếng Anh hiện đại,  tiếng Frisian, Hà Lan, Afrikaans, Đức, Luxembourgish, Đan Mạch, Na Uy, Icelandic, Faroese và Thụy Điển. Proto-Germanic là giai đoạn ngôn ngữ tạo thành hình thức sơ khai phổ biến nhất gần đây của nhóm ngôn ngữ Germanic. Proto-Germanic có nguồn gốc từ ngữ hệ tiền Ấn Âu (Proto-Indo-European - PIE).
(3): Barnhart (1995:896).

KTNN 100, ngày 15-01-1993

ACtư trong "tư niên” thì lại không liên quan gì đến tư trong "ngày tư ngày tết" cả. Nó là tư trong tư bề, tư mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứlà bốn. Tư bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tư mùa là suốt bốn mùa, nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lý từ bốn sang mọi, sangquanh trong nghĩa của tư bề, tư mùa đã dẫn đến cách hiểu sai lệch rằngtư có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, v.v.. Với cách hiểu sai lệch này, người ta đã nói tư niên mà hiểu là quanh năm.


VTH không phải là nghĩa biến âm của tứ (bốn), do đó nó không liên quan gì với chữ tư trong tư bề và tư mùa. Trong tiếng Hán, tư  thuộc bộ thảo, có nghĩa là “năm”. Chữ niên  thuộc bộ Can , cũng có nghĩa là “năm”. Chính từ sự giống nhau giữa  (năm) với niên (năm) nên người ta mới ghép chung thành “tư niên” (từ ghép đẳng lập), dùng để nhấn mạnh khái niệm thời gian nói chung là “năm”. Từ ghép đẳng lập kiểu này xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt. Thí dụ: bằng 朋 (bạn cùng chí hướng) vàhữu友 (bạn quen biết), gọi chung là bạn bè; Hiểm 險 và  trở 阻 đều là chỗ trọng yếu hay hiểm yếu, gọi chung là nơi trọng yếu hay hiểm yếu…

KTTN 103, ngày 01-3-1993
Tại sao người Việt Nam lại gọi người Trung Hoa là “Tàu”?

AC: Chúng tôi cho rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa là “quan”. Trong thời kỳ Bắc thuộc, nói chung quan cai trị là người Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng người Trung Hoa là tàu, nghĩa là quan. (…) Do quan niệm trên mà về sau tất cả mọi người Trung Hoa dù không làm quan – đây là tuyệt đại đa số - cũng được "vinh dự" gọi là Tàu.

VTH: Phần đầu bài viết, ông An Chi cho biết: “Đã có nhiều người liên hệ tên gọi này với từ tàu trong tàu bè. Xin chép Huình-Tịnh Paulus Của làm dẫn chứng: “Người An Nam thấy tàu bè khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nước Tàu, người Tàu” (Đại Nam quấc âm tự vị, t.II, Saigon, 1896, tr.346)”. Theo chúng tôi, đây là cách giải thích hợp lý, thế nhưng ông An Chi lại bác bỏ ý kiến này rồi khẳng định “tàu có nghĩa là quan” như trên. Chúng tôi không đồng ý cách giải thích của ông An Chi. Thứ nhất, chúng tôi không nghĩ rằng “tàu là âm cổ Hán Việt” (ông An Chi không có dẫn chứng về nhận định này); thứ hai, trên thực tế, người Hoa sinh sống tại Việt Nam không thích bị gọi là “người Tàu” hay “ Ba Tàu”, vì theo họ đó là hai cách gọi có tính chế giễu, miệt thị. (Nếu “tàu” có nghĩa là “quan” thì tại sao họ lại không thích chứ?).  Ngày xưa người Trung Hoa dùng tàu chở hàng hóa sang nước ta buôn bán khá nhiều nên dân ta thường gọi họ là “người Tàu” và gọi hàng hóa của họ là “hàng Tàu, đồ Tàu”.  Trong khi đó, quan niệm cũ trước đây ở nước ta là “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương”. Phải chăng, vì thế mà người buôn bán “bị” xem là có đẳng cấp thấp trong xã hội? Nếu thật vậy thì cách gọi “người Tàu”, có thể hiểu là chê người Hoa thuộc thành phần thấp kém nên họ không thích. Mặt khác, người Hoa là người Việt gốc Hoa, họ không muốn bị xem là “người lạ”, “người ngoại quốc” trên đất Việt Nam. Còn “Ba Tàu” xuất phát từ “ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu.” (trích từ mục Tạp vụ trong Gia Định báo, số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870).

KTTN 105, ngày 01-4-1993

Xin cho biết vắn tắt sự tích của ông Thần Tài.

AC: Theo truyền thuyết thì thần tài chính là Triệu Công Minh, người đã sống vào thời nhà Tần. Ông đã lánh đời mà dốc lòng tu tiên ở núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên soái, coi việc xua ôn đuổi dịch, cứu bệnh trừ tai. Lại nữa, phàm ai bị oan ức đến cầu cứu nơi ông đều được ông giúp làm cho sáng tỏ. Người buôn bán cúng ông để cầu tài cầu lộc cũng được ông giúp cho như ý muốn. Người ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, mình cỡi trên lưng một con cọp đen. Người ta cũng thường hay vẽ hình ông trên ảnh đăng (một loại đèn cù) và còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hoặc Triệu Công Nguyên Soái.

VTH: Cách giải thích trên có hai điểm chưa chính xác như sau: thứ nhất, người Việt Nam và Trung Quốc thờ nhiều vị thần tài chứ không phải duy nhất một thần là Triệu Công Minh. Thứ hai, Triệu Công Minh không phải là “Tài Bạch Tinh Quân”.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, tài thần (hay thần tài) được chia thành những nhóm sau:



- Văn tài thần文財神: gồm có Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君,Tỉ Can 比幹, Phạm Lãi 範蠡, Phúc Lộc Thọ Tam Tinh (Tam Đa) và Tài Hòa Hợp nhị tiên (hai nữ tài thần của người sản xuất đồ gốm sứ, chạm khắc gỗ, thợ nung vôi và người bán quạt).

- Vũ Tài thần 武財神: gồm có Quan Thánh Đế quân 關聖帝君 (tức Quan Vũ - 關羽, Quan Vân Trường  關雲長) và Triệu Công Minh 趙公明.

Thiên Tài thần 偏財神: gồm có Ngũ Hiển Tài thần 五顯財神 và Ngũ Lộ Tài thần 五路財神.

- Chuẩn Tài thần  准財神 : Lưu Hải Thiềm 劉海蟾.

- Các tài thần trong Phật giáo Mật tông: gồm có Hoàng Tài thần黄财神, Tài Nguyên Thiên Mẫu 財源天母, Ngũ Tính Tài thần 五姓財神 - còn gọi là Ngũ sắc tài thần 五色財神.
Ở đây, chúng tôi xin phép trình bày về hai vị tài thần có liên quan với bài viết của ông An Chi, đó là Triệu Công Minh và Tài Bạch Tinh Quân.

- Triệu Công Minh 趙公明: là Thần tài âm phủ, có gương mặt đen sạm, bộ râu rậm rạp, tay cầm chiếc roi sắt cưỡi trên lưng con cọp đen (gọi là Hắc Hổ Huyền Đàn 黑虎玄壇). Vị Thần tài này là một vị võ tướng có khả năng phục yêu trừ ma, có thể chiêu tài lợi thịTheo Đạo giáo, Triệu Công Minh là người Chung Nam Sơn 終南山, sống vào thời nhà Tần (秦朝). Ông sinh ngày mùng 5 tháng giêng, được Ngọc Hoàng Đại đế phong là Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Súy 正一玄壇元帥, do đó ông còn có tên gọi là Triệu Huyền Đàn. Nhưng theo “Phong Thần bảng”, Triệu Công Minh sinh vào thời Ân Thương 殷商, sống ở động La Phù 羅浮 núi Nga Mi 峨眉, được phong là Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân quân 金龍如意正一龍虎玄壇真君, thống lĩnh bốn bộ hạ là Nạp Trân Thiên tôn Tào Bảo 納珍天尊曹寶, Chiêu Tài Sứ giả Trần Cửu Công 招財使者陳九公, Chiêu Bảo Thiên tôn Tiêu Thăng 招寶天尊蕭升 và Lợi Thị Tiên quan Diêu Thiếu Tư 利市仙官姚少司. Bộ năm này có nhiệm vụ coi việc tài phú trong dân gian. Hiện nay, ở miền bắc Trung Quốc, phần lớn các cửa hàng đều thờ cúng Triệu Công Minh, còn miền nam thì đa số thờ Quan Công.

- Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君: là Thần tài trên trời. Tài Bạch Tinh Quân còn được gọi là Tăng Phúc Tài thần增福財神, một vị thần tài phổ biến và tôn quý nhất. Tương truyền ông là sao Thái Bạch 太白, thuộc Kim Thần 金神, có chức vụ trên trời là Đô Thiên Chí Phú Tài Bạch Tinh Quân, chuyên quản kim ngân, tiền tài. Ông là vị thần có vẻ ngoài phúc hậu, đầu đội mão Tể Tướng, mặt trắng, có 5 chòm râu dài, mặc áo hồng bào, thắt dây lưng ngọc đái, tay cầm một cái bồn chứa đầy vàng bạc, trên bồn có bốn chữ Chiêu Tài Tiến Bảo  招財進寶. (Có tài liệu cho rằng ông cầm thỏi vàng Nguyên Bảo trên bàn tay trái, bàn tay phải cầm cuộn sớ cũng ghi chữ Chiêu Tài Tiến Bảo hoặc tay cầm bảng Thiên Quan Tứ Phúc 天官賜福).

Vương Trung Hiếu

Y-éc-xanh là ai? (Thùy Ngân - Thanh Niên)

Tác-giả: Thùy-Ngân
Báo Thanh niên, 02/05/2012 3:08 GMT+7
Viết đúng, phát âm chính xác tên của một người là thể hiện sự tôn trọng, phép lịch sự trong giao tiếp. Đối với tên riêng nước ngoài, điều này thật sự càng có ý nghĩa. Có nhiều câu chuyện cho thấy tầm quan trọng của việc gọi đúng tên, đúng người.
Theo Dale Carnegie, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Đắc nhân tâm (How to win friends & influence people), một trong 30 nguyên tắc dẫn đến thành công là “Luôn nhớ rằng tên của một người là âm thanh êm đềm, thân thương và quan trọng nhất đối với họ”. Ông đã dẫn chứng trong lịch sử thế giới, nhiều người thành công vì biết rằng “mỗi cái tên dù đơn giản đến đâu, cũng chính là điều quan trọng và niềm vui của người ấy”.
Để khuyến khích sinh viên viết đúng tên riêng nước ngoài, cố Giáo sư Cao Xuân Hạo hay kể câu chuyện một chuyên gia ngôn ngữ học người nước ngoài thường yêu cầu mọi người hãy viết chính xác tên của ông. Ông có thể bỏ qua nếu tên bị đọc sai đôi chút nhưng không thể chấp nhận viết sai.
Nguyên tắc đơn giản nhưng quan trọng này dường như bị xem thường trong cách giáo dục của chúng ta. Lâu nay, từ sách giáo khoa (SGK) đến một số văn bản khác vẫn dùng lối phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt theo kiểu chữ viết một đằng, phiên âm một nẻo. Điều này dẫn đến hậu quả là chúng ta chẳng những đọc sai mà còn khó viết đúng tên riêng, địa danh tiếng nước ngoài.
Trong SGK hiện hành có vô số những trường hợp phiên âm và từ nguyên bản khó khớp nhau, thậm chí phần phiên âm sai so với nguyên bản. Có những trường hợp, nhiều khi để nguyên bản còn dễ đọc hơn cả phiên âm.
Trong sách tiếng Việt lớp 3, tập 2 hiện hành có những từ phiên âm khiến chúng ta vừa buồn cười vừa lo ngại cho con cái. Vì nếu quen đọc theo kiểu này, về sau nếu tiếp xúc từ nguyên bản làm thế nào học sinh có thể đọc đúng? Chẳng hạn tên bác sĩ Yersin được phiên âm thành Y-éc-xanh, tay đua xe đạp nổi tiếng thế giới Armstrong đọc là Am-xtơ-rông… Tên nhà bác học Edison chắc hẳn không khó để những người làm SGK phiên âm thành Ê-đi-xơn? Những người tên tuổi đã vậy, với những cái tên bình thường như Cô-rét-ti, Xtác-đi, Nen-li… người đọc đành “bó tay” nếu muốn biết từ nước ngoài. Buồn cười nhất là trong thời đại này mà vẫn phiên âm in-tơ-net cho từ internet! Chắc hẳn không ít người đã từng bối rối khi muốn biết từ tiếng Anh của các thành phố trong SGK môn địa lý như thành phố Lốt An-giơ-let, Côn-ca-ta, Xơ-un, Tê-hê-ran, Niu Đê-li, Gia-các-ta…
Cách phiên âm này có thể phù hợp trong một giai đoạn, khi nước ta chưa có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, trình độ dân trí còn thấp, mức độ hội nhập chưa cao… Ngày nay, tình hình đã khác. Theo chương trình giáo dục hiện hành, trẻ lớp 3 đã bắt đầu học ngoại ngữ. Chưa kể ở các thành phố lớn, trẻ đã tiếp xúc với ngoại ngữ (tiếng Anh) từ mẫu giáo, lớp 1 nên rất khập khiễng khi chúng ta vẫn dùng lối phiên âm theo kiểu mấy chục năm trước. Cuộc sống đã có quá nhiều thay đổi nhưng nhiều điều trong nền giáo dục của ta rất cũ, đứng im từ bao nhiêu năm qua. Khi đối tượng học sinh ngày nay đã tiếp xúc ngoại ngữ từ rất sớm, tiếp cận internet từng phút mà chúng ta vẫn dùng cách phiên âm từ nước ngoài theo kiểu đã tồn tại hàng mấy thập niên thì sẽ không tránh khỏi những bất cập. Chính vì thế dù SGK dạy vậy nhưng khi phải vận dụng trong thực tế, những người hiểu biết đều không theo cách phiên âm đã được dạy. Và nhiều văn bản chính thống khác vẫn không chuộng cách phiên âm của sách SGK.
Cần phải thay đổi. Theo cách nào đó thì những người quản lý giáo dục và nhà ngôn ngữ học nước nhà phải tính, nhưng chắc chắn người học ngày nay không thể chấp nhận những điều đã quá lạc hậu so với cuộc sống.

Sunday 29 July 2012

Văn minh kinh xáng (Nhâm Hùng)


Biên khảo: NHÂM HÙNG 
Mở đầu kế hoạch khai thác lớn ở miền Hậu Giang, người Pháp tiến hành đào kênh xáng Xà No xuyên qua cánh đồng hoang vu rộng, lớn nằm giữa 2 tỉnh Cần Thơ - Rạch Giá. Với việc thi công cơ giới bằng 4 chiếc máy xáng, chỉ trong vòng 3 năm (1901-1903) công trình thủy nông được cho là lớn nhất Nam kỳ đã hoàn thành, mang lại nhiều lợi ích. Tính theo độ dài 34 km, mặt kênh rộng 60 m, chỉ cần mỗi bên đưa nước tưới tiêu vô sâu 1 km, thì sẽ cần gần cả trăm ngàn mẫu (ha) được hưởng lợi từ dòng kênh này.

Kênh xáng Xà No ngày nay. Ảnh: HIỀN THANH

Khởi đầu từ phía Vàm Xáng, ngay cái nôi miệt vườn Phong Điền - bờ Tây sông Hậu; lại sát chợ Cái Răng, gần thủ phủ Cần Thơ nên kênh xáng Xà No có thêm điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tác dụng. Trong một thời gian ngắn, đã làm thay đổi diện mạo một vùng đất úng ngập, ứ phèn quanh năm; sinh sôi biết bao giá trị mới trong phát triển kinh tế và nâng cao đời sống văn hóa.

Trong sách biên khảo “Tìm hiểu đất và người Hậu Giang” (NXB Phù Sa, 1959), Nhà Nam Bộ học Sơn Nam từng đưa ra khái niệm về “... một hình thức văn minh ngộ nghĩnh”, ông tạm gọi là “Văn minh kênh xáng” theo sau những dòng kinh mới đào bằng cơ giới. Xuất phát điểm của những nét “Văn minh kênh xáng” ấy, phải chăng từ vùng đất chịu ảnh hưởng của dòng nước Xà No, rồi lan tỏa khắp nơi?

Để góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề, ta hãy đi tìm những lý giải lần qua các “manh mối”:

* Văn minh trong mở mang kinh tế

Trước tiên là phương thức sản xuất nông nghiệp theo hình thức “điền”! Cần phân biệt rõ: kiểu đồn điền “thời đàng cựu” của Triều Nguyễn làm chức năng kinh tế kết hợp với quốc phòng (đồn + điền). Trong khi đó, hình thức “điền” dưới thời Pháp thuộc chỉ đơn thuần canh tác nông nghiệp, nó giống như “nông trại”, “trang trại” nhưng hầu hết đất đai đều khoán cho tá điền canh tác. kênh xáng Xà No đào xong, nhiều dạng điền theo đó ra đời như dân gian quen gọi:

- Điền Tây: vùng đất ruộng do người Pháp làm chủ, như: điền Tây Albert Gressier (nhiều người còn kêu là điền Tây Be, điền Ông Kho, điền Bảy Ngàn). Đây là điền lớn nhất trong vùng Xà No, canh tác gần 30.000 mẫu. Tại khu vực xã Nhơn Nghĩa, còn có điền Tây Duval và Guery sở hữu 2.500 mẫu.

- Điền hảng: tức khu vực đất ruộng do các công ty của Pháp đầu tư, quản lý, khai thác như điền của Công ty Đông Pháp, điền của Công ty Bat-tam-băng, điền của Ngân hàng Đông Dương v.v... diện tích chung khoảng 10.000 mẫu.

- Điền của người Việt, thường là ruộng đất của các ông Hội đồng, Phủ hàm, quan chức địa phương.

Mặc dù các chủ điền luôn có các thủ đoạn bóc lột, vơ vét nhưng có thể nói: hình thức canh tác trong các điền vùng kênh xáng Xà No, đã cho thấy những bước tiến mới, mang lại hiệu quả rõ nét:

Để mở rộng diện tích ruộng đất hai bên bờ kênh, các chuyên gia nông nghiệp Pháp cho đào tiếp: cứ cách 500 m, xẻ 1 kênh nhỏ; cách 1.000 m đào một con kênh lớn hơn theo lối đào “xôm lươn” để điều hòa dòng chảy. Vô sâu 1.000 m, đào nối bằng những con kênh sườn, khép kín các khu đất như những ô bàn cờ. Nhờ phương pháp thủy lợi này, việc tưới tiêu nhanh chóng, góp phần biến đất hoang thành đất thuộc, mở rộng thêm diện tích, gia tăng năng suất, sản lượng lúa.

Khi ổn định sản xuất, khoảng từ 5-10 năm sau ngày đào kênh xáng Xà No, các chủ điền mạnh dạn đầu tư cho ngành công nghiệp xay xát lúa gạo. Điển hình nhất là nhà máy xay lúa Ông Kho (Bảy Ngàn) với hệ thống kho lớn đặt trên diện tích rộng gần 2 mẫu, công suất xay mỗi ngày đến 300 tấn. Có tài liệu nói đây là Nhà máy xay xát lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Lần hồi các nhà máy xay Vàm Xáng, Vị Thanh tiếp tục ra đời. Đặc biệt, tại chợ Cái Răng - người Hoa kiều bỏ vốn lập hàng chục nhà máy xay bên cạnh các chành lúa khổng lồ, được mua gom từ phía Rạch Giá, Bạc Liêu và vùng lân cận theo kênh xáng Xà No đưa về xay xát, rồi chở lên Chợ Lớn xuất cảng. Do bước phát triển mới này - chợ Cái Răng trở thành một đô thị công nghiệp lúa gạo đầu tiên ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ đứng sau Chợ Lớn.

Nhịp nhàng với sự phát triển nông, công nghiệp - hoạt động thương mại gắn với kênh xáng Xà No cũng nhanh chóng lớn mạnh, theo xu thế kinh tế hàng hóa. Mỗi điền Tây, điền Ta đều có đoàn ghe chài, ghe tam bản luồn sâu vô làng, xóm mua gom lúa gạo. Riêng điền Tây Be có đến 30 ghe chài lớn. Từ chợ Cái Răng, các chủ nhà máy, chủ chành lúa, ghe chài, thương lái, nhân công có mặt khắp vùng nông thôn, theo kênh xáng Xà No đi mua gom lúa gạo, cạnh tranh với các điền.

Sinh hoạt mua bán lúa gạo nhộn nhịp, khiến một bộ phận nông dân tách ra làm công nhân, thợ thuyền, phu khuân vác; một bộ phận khác vừa sản xuất, lại vừa kiêm thêm nghề mua bán khi mạng lưới chợ hình thành. Chỉ tính dọc theo kênh xáng Xà No, đến giữa thế kỷ XX, đã xuất hiện nhiều khu chợ sung túc như: chợ Vàm Xáng (lập năm 1907), chợ Một Ngàn, chợ Bảy Ngàn, chợ Cái Nhum, chợ Hỏa Lựu v.v... Đáng kể là do nhu cầu kinh tế phát triển, chợ trên bờ quá tải đã thúc đẩy sự ra đời của chợ nổi Cái Răng, tiếp sau là chợ nổi Phong Điền. Lúc này, trên các sông, kênh, rạch quanh vùng... ghe thương hồ luôn có mặt, sẵn sàng cung ứng cho mọi người các hàng hóa thiết yếu. Tại các ngã ba, ngã tư sông, nơi dân cư đông đúc, nhiều ghe, xuồng đi bán đồ ăn, thức uống, chè, cháo, bánh, trái... tạo nên một nghề đặc trưng: nghề “bán vàm”!

Chỉ sau một thời gian ngắn, vùng kênh xáng Xà No đã trở thành một địa bàn chiến lược, đi đầu trong mở mang, phát triển miền Hậu Giang trên cả ba lĩnh vực gắn kết một cách liên hoàn giữa nông nghiệp, công nghiệp và thương mại - dịch vụ.

* Văn minh cư trú và lối sống người kênh xáng - Hậu Giang

Kênh xáng Xà No đào tới đâu, mọi người kéo nhau tới đó dựng lều, giành đất mặt tiền cất nhà ở để thuận tiện cho việc sinh sống, làm ăn. Khi các kênh ngang, kênh sườn đào tiếp sâu vô hai bên bờ, số người đến lập nghiệp càng đông đảo, tạo thành làng xóm ở dọc theo mặt tiền các con kênh, gọi là đất bờ xáng. Lần hồi, đất bờ xáng càng có giá trị, bởi sự “liền canh, liền cư”, lại cao ráo, thích hợp với nghề làm vườn, ít bị ngập lụt trong mùa mưa. Giá đất ở bờ xáng cao gấp nhiều lần so với đất ở bờ sông, rạch. Khi mặt tiền bờ xáng Xà No hết chỗ, người ta lấn sâu vô trong cất nhà ở đến 2, 3 lớp. Tại các ngã ba, ngã tư sông dân cư ở tập trung, mở chợ, xây đình, cất trường học mà đầu tiên là Vàm Xáng, xã Nhơn Nghĩa (1907).

Sự tập trung gia cư dọc theo đất bờ xáng tạo nên hình thức cộng đồng mới; một nét văn minh cư trú được kết nối từ những thành quả; bước tiến mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế. Nhiều tài liệu cho thấy: thời trước, các lớp người khẩn hoang thường đi sâu vô trong ruộng để dễ bề canh tác. Họ ở xa bờ sông rạch vì ở đó thường là rừng rậm, nhiều sấu, cọp, hiểm nguy. Đến khi các con kênh xáng được đào, đất được khai hoang thì kiểu cách cư trú trong ruộng, được dịch chuyển ra đất bờ xáng.

Hình thức cộng đồng mới bên bờ kênh xáng đã tạo nên nét sinh hoạt, lối sống, tính cách của “người kênh xáng”, hay còn gọi là “người Hậu Giang” mà trung tâm là vùng sản xuất nông nghiệp phát triển phía bờ Tây sông Hậu thuộc các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu v.v...

Định cư nơi sông sâu nước chảy, đất ruộng thẳng cánh cò bay, nông dân - tá điền tuy có vất vả, nhưng cuộc sống cũng khá đủ đầy, có người cho rằng đất miền Hậu Giang tốt “làm chơi mà ăn thiệt” theo lối ruộng sạ bỏ đó, cuối mùa cũng gặt hái 5-7 giạ một công. Do vậy, họ không lo nghèo, sợ đói.

Người kênh xáng - Hậu Giang quan niệm “có làm phải có chơi”, nhất là dịp tết lúc nông nhàn, họ bày ra nhiều kiểu giải trí, “chơi bời” vừa lành mạnh lại vừa tiêu cực:

Giới địa chủ, phú nông, hương chức làng thường hay bày cuộc chơi đờn ca tài tử vào dịp cưới hỏi, giỗ quảy, thôi nôi, đầy tháng... vùng kênh xáng Xà No có Ban đờn ca tài tử Ái Nghĩa nổi danh, nhiều nghệ nhân tên tuổi.

Ban đêm đờn ca, ngày thì đá gà, đá cá lia thia; già, trẻ, lớn, bé, đều ưa thích. Tất nhiên, không ít người sạt nghiệp, trắng tay vì máu mê cờ bạc. Theo các vị cao niên: ở kênh xáng Xà No có “trường gà” thầy Tường là sòng đá gà nổi danh, thu hút nhiều tay chơi xa, gần.

Trong các dịp hội hè, hương chức làng thường tổ chức thi tài hò đối đáp giữa trai và gái, các vị bô lão, người sành điệu được mời chấm thi. Nhờ lối tổ chức ngày sinh hoạt hò đối đáp phát triển mạnh trên các kênh rạch. Trong làng không chỉ có “lò” đờn ca tài tử mà còn có thầy dạy hò tiếng tăm. Từ cách sinh hoạt, giải trí đa dạng nên lối sống, tính cách người kênh xáng - Hậu Giang rộng rãi, hào phóng nhiều khi khá “hào hoa”. Gặp khách phương xa tới nhà chơi, họ có thể nghỉ làm vài buổi để tiếp đãi, hàn huyên. Thấy người hoạn nạn, khốn khó hơn mình họ sẵn sàng ra tay “nghĩa hiệp” như cho mượn lúa, mượn gạo ăn tới mùa sẽ trả. Mặt khác, chuyện tình duyên đôi khi cũng khá giản đơn. Chỉ cần cảm nhau qua vài câu hò, lời ca tài tử họ có thể “gá nghĩa trăm năm”.


* Sự phong phú về địa danh và tiếng Việt Nam bộ

Kênh xáng Xà No, rồi các cụm kênh Ngã Bảy, Ngã Năm nối tiếp ra đời không chỉ kích thích các hoạt động kinh tế, mà còn góp thêm sự phong phú về địa danh và tiếng Việt Nam bộ.

Trong 100 năm hình thành, kênh xáng Xà No đã sản sinh nhiều địa danh dân gian khá thú vị:

Ngay đoạn máy xáng khởi đào nối rạch Cần Thơ, địa danh “Vàm Xáng” đã xuất hiện, lần hồi lại phát triển thêm tên chợ Vàm Xáng, nhà máy xay lúa Vàm Xáng v.v...

Khi xáng đào bứt đoạn rạch Xà No, dân gian lại có thêm địa danh “Xà No bứt”.

Đáng chú ý là từ chiếc máy xáng, kênh được đào trở thành kênh xáng. Rồi từ con kênh xáng, lại “nở” thêm nhiều địa danh, tên công trình công cộng có chữ xáng kèm theo:

- Cầu Xáng: cầu bắc ngang kênh xáng.

- Chợ cầu Xáng: chợ gần cây cầu Xáng.

- Xáng Mới: địa danh nơi kênh xáng vừa mới đào. Huyện Châu Thành A có ấp Xáng Mới gần chợ Rạch Gòi.

- Xáng Chìm: địa danh xóm, khu dân cư có chiếc xáng bị chìm.

- Xáng Nổ: địa danh xảy ra sự cố nổ máy xáng khi đang thi công đào kênh.

- Xáng Bộ: địa danh có con kênh thi công từ loại máy đào chạy trên bộ. Kênh xáng Bộ cắt ngang kênh xáng Lái Hiếu (ngã tư xáng Bộ, huyện Phụng Hiệp).

Lúc đầu, người ta gọi nguyên tên như kênh xáng Xà No, kênh xáng Lái Hiếu, kênh xáng Nàng Mau... về sau, họ nói rút gọn chỉ còn ba từ: xáng Xà No, xáng Lái Hiếu, xáng Nàng Mau...

Một điểm khác đặc biệt là sự xuất hiện của các địa danh bằng chữ số, dọc theo kênh xáng Xà No. Do cách đo đạc, tính toán lưu lượng dòng chảy phục vụ việc tưới tiêu - các chuyên gia nông nghiệp đã cho thi công: cách 500 m đào một kênh nhỏ, cách 1.000 m đào một kênh lớn hơn. Ở giao điểm các kênh đào này thường tập trung dân cư, đặt cơ sở làng hay trung tâm chợ, nhà máy... Từ đó nhiều địa danh chữ số ra đời, theo dấu mốc kênh đào ở một số cụm dân cư:

- Một Ngàn: con kênh Xà No ở dấu mốc (cây số) đầu tiên đưa nước tưới tiêu vô sâu trong ruộng. Sau này do cư dân đông đúc nên hình thành chợ Một Ngàn, nay là thị trấn, huyện lỵ - huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

- Bốn Ngàn: địa danh có khá nhiều dân cư sinh sống.

- Bảy Ngàn: địa danh trung tâm kênh xáng Xà No, nơi đặt nhà máy Ông Kho và “trụ sở” điền Tây Be, lớn nhất trong vùng.

- Tám Ngàn: cũng là điểm dân cư tập trung, cách điểm Bảy Ngàn 1 km. Ngày nay, Tám Ngàn một bên thuộc huyện Châu Thành A, một bên thuộc huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.

- Mười Một Ngàn: điểm dân cư dọc theo kênh Mười Một Ngàn, một phần trên địa bàn xã Vị Thanh, một đoạn thuộc xã Vĩnh Trung, huyện Vị Thủy.

- Mười Bốn Ngàn: điểm dân cư gần phía hạ nguồn kênh xáng Xà No... Nay thuộc xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Phát triển từ tên số các con kênh, dân gian còn đặt thêm nhiều địa danh khá ngộ nghĩnh như: Bốn Ngàn Rưỡi, Tám Ngàn Dài, Tám Ngàn Cụt... Việc hình thành các địa danh chữ số, do mọi người quen gọi, lâu dần thành địa danh dân gian, đôi khi được nâng nên thành địa danh hành chính. Đây cũng là một nét đặc trưng về văn hóa địa danh hiếm thấy ở Nam bộ.

Bên cạnh sự nở rộ của địa danh, tiếng Việt Nam bộ ở vùng kênh xáng cũng cho thấy sự phong phú. Nhiều lời ăn tiếng nói có kèm theo từ “xáng” trong sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày người ta vẫn hay sử dụng.

Khi các máy xáng thi công, tên “xáng” bằng tiếng Pháp lập tức được Việt hóa: tên máy xáng Loire được mọi người kêu là “Xáng La”; chiếc xáng Nantes, trở thành xáng “Năn”. Họ phân biệt kiểu đào kênh khá rõ qua các từ như: xáng cạp, xáng múc, xáng thổi, “sở xáng”, “hãng xáng” là công ty tàu cuốc chuyên đào kênh của Pháp.

Từ thực tế địa bàn, đời sống cư dân vùng kênh xáng Xà No - kiểu hình thành địa danh và tiếng Việt Nam bộ, gắn với kênh xáng dần lan tỏa ra nhiều vùng. Do đó nơi nào có đào kênh xáng nhất thiết sẽ ra đời những địa danh na ná như nhau. Trên đường Quốc lộ 1A từ TP.Hồ Chí Minh về miền Tây, qua địa bàn xã Long Định, huyện Châu Thành (Tiền Giang) có cây cầu Xáng khá dài. Ở Tri Tôn (An Giang) cũng có địa danh kênh xáng. Vùng Cà Mau có kênh xáng Đội Cường, kênh xáng Bà Kẹo. Thế nhưng, chỉ ở vùng Cần Thơ, Hậu Giang mới có nhiều địa danh gắn với chữ xáng, vì nơi đây có nhiều kênh xáng được đào.

* Văn nghệ dân gian theo dòng kênh xáng

Chuyện kể là hình thức văn học truyền miệng xuất hiện ngay khi kênh xáng Xà No mới đào.

Theo các vị cao niên, ở khoảng giữa chợ Một Ngàn và Vàm Xáng có một đoạn kênh hơi lệch gần 200. Vì sao? Là do lúc các chuyên gia Pháp phóng kênh trúng vô nhiều đất của một ông Hội đồng, nên ông này nhờ tay thông ngôn nói với viên quan Tây vẽ cho đoạn kênh này lệch qua. Nếu được ông Hội đồng sẽ gả con gái cho anh thông ngôn. Cuối cùng lấy lý do để giảm sức nước chảy, người thông ngôn đã thuyết phục được viên quan Tây. Tất nhiên, sau này anh ta trở thành chàng rể quý của ông Hội đồng.

Theo nhà “Nam Bộ học” Sơn Nam: gọi là kênh xáng Xà No bởi vì kênh khởi đào từ rạch Xà No; một khu xóm của bà con Khmer, cạnh xóm làng người Việt. Nơi đây, có nhiều cây điên điển, tiếng Khmer gọi là Snor (Xà No). Xa hơn về phía hạ nguồn, tại xã Tân Hòa (huyện Châu Thành A), nay vẫn còn một khu dân cư người Khmer sinh sống, có ngôi chùa phật tồn tại khá lâu.

Trong khi đó, trong các dịp “trà dư, tửu hậu”, lại có người kể rằng: chữ Xà No bắt nguồn từ câu chuyện vùng đất này khi xưa có một con mãng “xà” rất lớn. Ngày nọ, nó nuốt vào bụng cả một con nai to, đến “no nê”... nên người ta mới đặt luôn cho địa danh “Xà No”.

Cùng với chuyện kể, tục ngữ, ca dao là một hình thức văn học gắn liền với kênh xáng Xà No, mang nội dung hết sức phong phú:

Kênh xáng Xà No vừa đào, khung cảnh thi công nhộn nhịp, khiến người ta đã mượn ngay chuyện đào kênh để tỏ tình:

“Kênh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao Quỳnh khó câu”

Trước đó, vùng rạch Cần Thơ ai cũng quen câu ca dao: “Cái Răng - Ba Láng - Vàm Xáng - Phong Điền”. Đến khi đào kênh xáng Xà No, nội dung chùm ca dao trên nhanh chóng được biến đổi thành:

“Cái Răng - Ba Láng - Vàm Xáng - Xà No
Anh có thương em thì mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh”


Nhận biết được văn minh phương Tây, người kênh xáng - Hậu Giang lấy sự bền vững các phương tiện cơ giới để chứng tỏ cho lời hẹn thề trai, gái:

“Quả năm ngăn trong lòng son đỏ
Mấy lời to nhỏ bỏ bậu sao đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia liệt máy anh mới đành bỏ em”

Kênh xáng Xà No ra đời, nghề mua bán lúa gạo phát triển. Những đoàn ghe chài dọc ngang vô sâu trong điền mua gom lúa gạo, khiến một bộ phận nông dân chuyển sang làm bạn ghe, chèo ghe, vác lúa. Công việc quá cơ cực, nặng nhọc đến nỗi có lời ca dao khuyên can một cách tế nhị:

“Đừng ham hốt bạc ghe chài
Nhịp cầu cao (?) bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi”


Dân cư đông đúc tại các ngã ba, ngã tư kênh xáng nổi lên nghề bán vàm. Từ đây, lối rao hàng dần biến thành các điệu hò sông nước qua lời rao: “Ai ăn bánh bò không...” dần phát triển thành “Ai ăn bánh bò hông...” rồi “Ai ăn bánh bò hơ...”

Có người quanh năm suốt tháng gắn bó với nghề bán vàm:

“Tháng giêng, tháng hai tôi đi bán sương sa, sương sáo
Tháng năm, tháng sáu tôi đi bán bánh bò bông”

Trên dòng kênh xáng, nghề thương hồ cũng lắm lúc khó khăn khiến người ta buông câu than vãn:

“Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê”


Hoặc như:

“Chèo ghe đi bán cá vồ
Nước chảy ồ ồ chẳng thấy ai mua”

Bình thường, nói đến điền Ông Kho (Bảy Ngàn) ai cũng biết là lớn lao, đồng ruộng mênh mông bát ngát, ghe chở lúa gạo bán mua dập dìu. Vậy mà cũng có lúc điền chủ lao đao, tá điền lâm vào cảnh khốn khổ do mùa màng thất bát, khiến họ nhớ đời:

“Hỡi anh còn nhớ Bảy Ngàn
Củ co ăn với củ bàng thế cơm!”


Bên cạnh ca dao, nhiều tục ngữ về đời sống cũng gắn liền với từ xáng, như:

“Ăn như xáng múc
Làm như lục bình trôi”


Rõ ràng, từ khái niệm “máy xáng” rồi “kênh xáng” đã gợi mở cho dân gian “sáng tạo” nên những giá trị văn học bình dân đặc thù, có mặt thường nhật trong đời sống xã hội. Có lẽ, khởi đầu việc hình thành những giá trị này là từ vùng kênh xáng Xà No, bởi ở đây đào kênh xáng sớm nhất. Sau đó, nhân rộng đến vùng Ngã Bảy, Ngã Năm, rồi trở thành những nét văn hóa đặc trưng phổ biến rộng khắp miền Hậu Giang cho đến ngày nay. Từ truyền thống này, nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đương đại vẫn nối tiếp ra đời theo dòng chảy kênh xáng Xà No, làm đẹp thêm cho gương mặt miền Hậu Giang xưa và Tây sông Hậu hôm nay.

* * *

Bàn về “văn minh kênh xáng” cũng là bước đi về nguồn, tìm hiểu và góp phần đúc kết những thành quả của các thế hệ tiền nhân ở nhiều chiều, nhiều dạng:

“Văn minh kênh xáng” bắt đầu từ việc cơ giới hóa khâu thủy nông, thúc đẩy hình thức sản xuất khép kín trong các điền - nét văn minh ấy còn mở ra bước tiến mới cho ngành công, thương, dịch vụ góp phần quyết định để miền Hậu Giang trở thành trung tâm lúa gạo lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ. Chỉ 5 năm sau ngày đào kênh xáng Xà No, lúa gạo miền Hậu Giang đưa đi xuất cảng tăng vọt: chiếm đến 900 ngàn tấn, trong tổng số 1 triệu 300 ngàn tấn của toàn Nam kỳ.

Những con kênh xáng còn tạo ra một dạng đời sống xã hội đặc trưng, qua nét văn hóa cư trú, văn hóa thương hồ mang đậm bản sắc sông nước miệt vườn. Từ đó, hình thành một cách rõ nét về lối sống, tính cách “người kênh xáng - Hậu Giang” trong cộng đồng cư dân Nam bộ - Đồng bằng sông Cửu Long.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
SÁCH - TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tự vị tiếng nói miền Nam, Vương Hồng Sển (NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 1999)
- Tìm hiểu đất Hậu Giang, Sơn Nam (NXB Phù Sa - Sài Gòn 1959)
- Tạp chí xưa và nay số 286 (2007)
- Cuộc đời, sự nghiệp các văn nghệ sĩ Cần Thơ, Sở VHTT TP.Cần Thơ (2006)
- Lịch sử Đảng bộ huyện Châu Thành, Huyện ủy Châu Thành (1999)
- Văn minh miệt vườn, Sơn Nam (NXB Văn Hóa, 1992).

NHÂM HÙNG

Hùng Vương hay Lạc Vương (An Chi / Huệ Thiên)

Huệ Thiên

Các đấng tiên nhân quốc tổ của dân tộc Việt là Hùng Vương hay Lạc Vương? Nhiều người đã bàn đến vấn đề này mà người đầu tiên là Henri Maspéro, một nhà Đông phương học uyên bác thuộc Pháp quốc Viễn Đông học viện (Ecole française d’Extrême-Orient) trong bài Le royaume de Van lang (BEFEO, no XVIII, 1918). Sau đó có cuộc tranh luận giữa Sở Cuồng Lê Dư với Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố. Ở miền Nam trước 1975, một số nhà nghiên cứu cũng có bàn đến, chẳng hạn trên tạp chí Bách Khoa, Phạm Hoàn Mỹ (1959) thì chủ trương Hùng Vương còn Trần Viêm (1965) thì lại chủ trương Lạc Vương. Bài này không nhằm điểm lại toàn bộ lịch sử của vấn đề mà chỉ nhắc lại những ý kiến chính của các tác giả, đặc biệt là của Đào Duy Anh, Hoa Bằng, Trần Quốc Vượng đã phát biểu trong các cuộc hội nghị nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương, tổ chức trước đây ở miền Bắc, từ cuối 1968 đến 1971, in lại trong các tập kỷ yếu Hùng Vương dựng nước (HVDN).
Người đã để nhiều tâm trí và thời gian nhất vào vấn đề này không ai khác hơn là học giả Đào Duy Anh. Đối với Đào Duy Anh, các vị quốc tổ của chúng ta trước sau vẫn là Lạc Vương. Thật vậy, ngay từ năm 1938, trong Việt Nam văn hóa sử cương (chúng tôi dùng bản in lần thứ hai, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, không đề năm), Đào Duy Anh đã viết: «Sử chép rằng Lạc-Long-quân phong cho người con trưởng làm vua ở nước Văn-lang xưng là Lạc Vương» (Sđd, tr. 25). Ông đã ghi nhận rằng phát hiện về sự nhầm lẫn từ Lạc Vương thành Hùng Vương là thuộc về «nhà cổ học» (danh từ của ĐDA) H. Maspéro (X. sđd, tr. 25, chth. 1. ).
Năm 1946, trong Nguồn gốc dân tộc Việt Nam (chúng tôi dùng bản in lần thứ hai, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1950), Đào Duy Anh lại viết về xã hội Lạc Việt như sau: «Các bộ lạc thì ở dưới quyền tù trưởng gọi là lạc tướng, các lạc tướng thì phục tòng ít nhiều một vị tù trưởng có thế lực hơn hết cả gọi là lạc hầu hay lạc vương. » (Sđd, tr. 65). Ở đây ông cũng cho biết ông đã theo ý kiến của nhà Chi-na học H. Maspéro, «cho rằng chữ Hùng-vương chính là chữ Lạc-vương viết lộn ra». (Sđd, tr. 65, ch.th. 1).
Chín năm sau, trong Cổ sử Việt Nam (Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1955), Đào Duy Anh còn bày tỏ một lập trường rành mạch và dứt khoát hơn nữa. Khi nhắc đến các truyền thuyết xưa về nước Văn Lang chép trong Lĩnh Nam chích quái (ĐDA viết trích) thì ngay sau hai chữ Hùng Vương ông đã ghi chú trong ngoặc đơn như sau: «Sửa lại là Lạc vương» (Sđd, tr. 83), Hoặc như ông đã viết: «Cái danh hiệu Hùng vương, nay sửa là Lạc vương (chúng tôi nhấn mạnh - HT) chỉ là phiếm chỉ các thế hệ tù trưởng từ xưa đã lãnh đạo dân tộc Lạc-việt trước và sau khi họ đã định cư ở Bắc Việt-nam» (Sđd, tr. 93). Còn ở những chỗ thuộc về lập luận và hành văn riêng của cá nhân thì đương nhiên là ông đã chính thức và trực tiếp dùng hai tiếng Lạc Vương, chẳng hạn: «Lạc-vương là vị tù trưởng tối cao cũng chỉ là vị tù trưởng thế tập của bộ lạc liên hiệp Lạc-việt (...) » (Sđd, tr. 93). Nếu trước kia, năm 1938 và năm 1946, ông chỉ nhắc đến ý kiến của Maspéro nơi cước chú thì nay ông đã đưa thẳng vào lập luận chính thức của mình: «Về danh hiệu Hùng vương thì H. Maspéro đã viện các sách Giao châu ngoại vực ký vàQuảng châu ký mà chứng minh rằng cái tên Hùng vương chính là cái tên Lạc vương chép lầm ra (...). Trước hết là người ta chép hai chữ lạc 駱 và 雒 lộn nhau, rồi chữ lạc (...) 雒 lộn thành chữ hùng 雄(...) Chính một sử thần nước ta chú thích sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng đã thấy chỗ lầm từ chữ lạcsang chữ hùng mà nói rằng danh hiệu «lạc tướng» sau bị người ta lầm là «hùng tướng», nhưng lại sợ uy quyền của tập truyền xưa nay vẫn gọi «Hùng vương» mà không dám nói đến cái lầm từ «Lạc vương» sang «Hùng vương» (Sđd, tr. 92-93).
Ba năm sau, trong Lịch sử Việt Nam, quyển thượng (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1958) ông vẫn duy trì quan điểm của mình như ông đã phát biểu trong Cổ sử Việt Nam tuy không chi tiết bằng (vì đây là một bộ thông sử dành cho một đối tượng rộng rãi).
Hoa Bằng thì đã tán thành danh hiệu Lạc Vương từ năm 1950. Ký tên Hoàng Thúc Trâm, trong Lịch-sửxã hội Việt-Nam (Nxb Thế giới, Hà Nội, 1950), ông đã dành hẳn một trong mười mục của quyển sách cho vấn đề «Hùng vương hay Lạc vương?». Ông nhắc lại cuộc tranh luận về vấn đề đang xét giữa Sở Cuồng Lê Dư với Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố cũng như nhắc lại quan điểm của Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương và Nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Trong phần phân tích của mình, Hoàng Thúc Trâm đã căn cứ vào Giao châu ngoại vực kýThủy kinh chú và An-nam chí nguyên là những sách của người Trung Hoa, đặc biệt là vào An-nam chí lược của Lê Tắc, một người Việt Nam ở thời nhà Trần đã đi theo quân Nguyên để khẳng định rằng Hùng Vương chỉ là do Lạc Vương chép nhầm mà ra. Về sử liệu mà sách của Lê Tắc đã cung cấp, Hoàng Thúc Trâm cho biết rằng: «Khi nào nhắc đến «vua» của Văn-lang, tác giả An-nam chí lược đều chép là Lạc vương cả» (Sđd. tr. 72). Đánh giá tính xác thực của sử liệu trong An Nam chí lược, ông đã viết: «Nội dung sách đó tuy có những điểm đáng kết án (về lập trường, quan điểm, vì theo Mông Cổ – HT) nhưng tựu trung (...) cũng cung cấp được nhiều sử liệu (...) cho ta kê cứu. Đó vì, theo như Lê Tắc tự nói hoặc những bạn văn của Tắc ở bên Nguyên đã giới thiệu trong các bài tựa, thì Tắc là người thông minh, học rộng, đi nhiều, rất thông thạo về địa lý và lịch sử bản quốc, nên ngoài những sử sách Trung-quốc dùng làm tài liệu, tác giả An-nam chí lược còn đem những sở kiến sở văn từ khi còn ở nước nhà mà ghi chép vào nữa (Sđd, tr. 72-73).
Về sự nhầm lẫn đã xảy ra, Hoàng Thúc Trâm viết: «Còn việc lầm «Lạc» ra «Hùng» thì sử thần Ngô Sĩ Liên, người thế kỷ mười lăm, đã chua rõ ở Đại Việt Sử ký ngoại kỷ toàn thư, quyển 1, tờ 3a: Lạc tướng hậu ngoa vi hùng tướng (...) Lạc tướng sau lầm làm Hùng tướng. Nhưng tại sao Ngô Sĩ Liên không nói đến Lạc vương? Có lẽ vì những cớ này: 1. Quan niệm tôn quân của nhà nho (...) đâu dám bỗng dưng nêu ra một thuyết đính ngoa, bảo là «Lạc vương sau lầm ra Hùng vương» vì e lạ tai lạ mắt người đời, thất kính với quốc tổ, tất nhiên từ trong triều đến ngoài nội, sử thần sẽ là cái đích cho muôn nghìn mũi tên nhằm bắn! (...) 2. Hai tiếng Hùng vương đã quen dùng trong dân gian (...) rất khó sửa lại cho đúng trong khi nói được (...) 3. Theo tâm lý chung, ai cũng thích chữ tên có nghĩa đẹp hơn nghĩa xấu(...)» (Sđd, tr. 73-74). Về phía cá nhân, Hoàng Thúc Trâm đã có một lập trường rất dứt khoát nên ông đã kết luận: «Nhưng đây là sử học, không phải là chuyện cảm tình, ta phải hoàn toàn khách quan mà trả lại sự thực cho lịch sử. Vậy từ nay, tưởng nên viết là Lạc vương (chúng tôi nhấn mạnh – HT)» (Sđd, tr. 74).
Trở lên là ý kiến của hai học giả danh tiếng về sau đã tham gia các cuộc hội nghị nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương. Tại hội nghị lần thứ II tổ chức vào tháng 4-1969, những người đã trực tiếp đặt lại vấn đề «Hùng Vương hay Lạc Vương?» vẫn là Đào Duy Anh và Hoa Bằng; ngoài ra còn có Nguyễn Đổng Chi.
Trong tham luận Góp ý kiến về vấn đề Hùng Vương, Đào Duy Anh đã đặt lại toàn bộ vấn đề thư tịch một cách nghiêm cẩn, rành mạch và rất xác đáng. Không quên nhắc lại vấn đề «Hùng Vương hay Lạc Vương», ông khẳng định rằng sách đầu tiên ghi chép về danh hiệu Lạc Vương là Giao châu ngoại vực ký thuộc thế kỷ IV, còn sách đầu tiên đã chép nhầm tất cả các chữ Lạc của Giao châu ngoại vực kýthành chữ Hùng là sách Nam Việt chí thuộc thế kỷ V. Vậy danh hiệu nguyên thủy vẫn là Lạc Vương. Tuy nhiên, vì những lý do tế nhị nên trong hội nghị này ông đã tỏ ra nhân nhượng mà phát biểu như sau: «Dù sao nữa, (...) cái danh hiệu Hùng Vương gắn liền với nguồn gốc và vận mệnh của tổ tiên chúng ta mà trải qua bao nhiêu đời sử cũ từ Đại Việt sử ký về sau và truyền thống của dân tộc vẫn gọi thế, thì ngày nay chúng ta vẫn trân trọng và giữ theo, còn các danh hiệu Lạc hầu Lạc tướng thì chúng ta cũng cứ gọi theo sử cũ, cho đến những danh từ Lạc điền Lạc dân cũng cứ gọi thế, chứ không theo sách Nam Việt chí mà đổi gọi là Hùng cả». (HVDN; t. II, tr. 280).
Trong tham luận Về Hùng Vương và xã hội Hùng Vương gồm có hai phần mà phần đầu có tiêu đề làHùng Vương hay Lạc Vương, Hoa Bằng nhắc lại rằng về vấn đề này, trước Cách mạng tháng Tám, nhiều người nhiều lần đã tranh luận nhưng chưa ngã ngũ. Nay đến lúc chúng ta cần phải làm cho dứt điểm» (Sđd, tr. 287). Ông vẫn cho rằng hầu hết các sử sách Trung Quốc xưa đều chép là Lạc Vương và lần này ông đã khảo sát ý nghĩa của tất cả các chữ Lạc khác nhau được dùng để ghi danh hiệu Lạc Vương thì thấy rằng những nghĩa đó đều không có gì là tốt đẹp cả. Nhưng ông cho rằng đó là một sự thật khách quan tồn tại, chúng ta chỉ có nhiệm vụ là trả cho Xê-da cái chi của Xê-da» (Sđd, tr. 288). Tuy chủ trương «trả cho Xê-da cái chi của Xê-da» nghĩa là trả cho «Hùng Vương» cái danh hiệu Lạc Vương nhưng cũng như Đào Duy Anh và cũng vì những lý do tế nhị như của Đào Duy Anh, Hoa Bằng đã nhân nhượng mà kết luận rằng ngày nay, chúng ta, dù muốn dù không, vẫn cứ phải gọi là «Hùng Vương», một từ vừa có ý nghĩa cao quý, đẹp đẽ, lại vừa được lưu hành phổ biến từ xưa đến nay». (Sđd, tr. 288).
Người thứ ba trong hội nghị này có trực tiếp đề cập đến vấn đề đang xét là Nguyễn Đổng Chi. Trong tham luận Tính chất xã hội thời kỳ Hùng Vương, ông cũng điểm lại các sách xưa có ghi chép về Lạc Vương là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, quyển trước được Thủy Kinh chú trích dẫn còn quyển sau thì được Sử ký sách ẩn trích dẫn. Các sách trên đều nhất loạt ghi Lạc Vương, Lạc hầu, Lạc tướng v.v... Duy chỉ có Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn (thế kỷ V) rồi sau đó là Phiên Ngung tạp chícủa Trịnh Hùng đời Đường là bao nhiêu chữ lạc đều chép nhầm thành chữ hùng, làm hao tốn nhiều giấy mực cho các nhà nghiên cứu đời sau. Nghĩa là danh hiệu nguyên thủy, theo Nguyễn Đổng Chi, cũng làLạc Vương (X. Sđd, tr. 293).
Đến hội nghị lần thứ IV thì Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc không những chỉ thừa nhận hình thức gốc làLạc Vương mà còn đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của từ tố lạc nữa (Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố «Lạc», HVDN, t. IV, tr. 134-141).
Tóm lại, theo ý kiến của những nhà nghiên cứu trên đây là những người trực tiếp thảo luận về mối quan hệ giữa hai danh hiệu Hùng Vương và Lạc Vương thì Lạc Vương mới là danh hiệu nguyên thủy về sau bị chép nhầm mà thành Hùng Vương chứ không phải là ngược lại. Còn những người không trực tiếp nêu vấn đề lên để thảo luận, khi cần nhấn mạnh đến danh hiệu nguyên thủy, cũng đều nhất loạt gọi là Lạc Vương. Đó là Trần Quốc Vượng trong bài Vài ý kiến chung quanh vấn đề thời kỳ Hùng Vương (X. HVDN, t. II, tr. 130), Nguyễn Linh trong bài Trở lại vấn đề vị trí nước Thục của Thục Phán (X. Sđd, tr. 193), Lã Văn Lô trong bài Tìm hiểu chế độ xã hội thời kỳ Hùng Vương qua chế độ lang đạo ở vùng Mường trước Cách mạng tháng Tám (X. Sđd, tr. 308 và 310), Nguyễn Linh và Hoàng Xuân Chinh trong bài Đất nước và con người thời Hùng Vương (X. HVDN, t. III, tr. 92), v.v... Còn tất cả những người khác khi sử dụng danh hiệu Hùng Vương thì đều là gọi theo thói quen chứ hoàn toàn không có bất cứ ai cho rằng danh xưng nguyên thủy phải là Hùng Vương cả. Riêng Nguyễn Duy Hinh trong bài Điểm qua tình hình thư tịch về thời đại Hùng Vương thì cho rằng Hùng Vương và Lạc Vương là hai cách đặt tên khác nhau của những tác giả khác nhau đối với người đứng đầu tổ chức xã hội đương thời ở nước ta mà thôi. Dù là Hùng Vương hay Lạc Vương đều là tên do các nhà viết sử phong kiến Trung Quốc đặt ra và cả hai tên đều có thể giải thích lý do đặt tên được (HVDN, t. I, tr. 97). Đương nhiên là người ta không thể dễ dàng chấp nhận rằng đây là một ý kiến có căn cứ.
Tóm lại, vấn đề có thể coi như đã rõ ràng. Thế nhưng trong hội nghị lần thứ III, Trần Quốc Vượng lại có một bài tham luận nhan đề Về danh hiệu Hùng Vương (HVDN, t. III, tr. 353-355), qua đó ông muốn xem Hùng Vương là một danh hiệu riêng biệt chứ không phải do Lạc Vương bị chép nhầm mà ra. Ông muốn «tiếp cận vấn đề Hùng Vương từ ngả đường ngôn ngữ học», viện lẽ rằng «có nhiều tên đất, tên người, tên cây cỏ, cầm thú,... của Việt Nam thời cổ được ghi bằng chữ Hán, nhưng thật ra là phiên âm tiếng Việt cổ» (Sđd, tr. 353) mà yếu tố hùng trong Hùng Vương là một trường hợp.
Trần Quốc Vượng cho rằng Hùng 雄 là một yếu tố tiếng Việt cổ tương ứng với các yếu tố sau đây: Kuncủa tiếng Mường có nghĩa là con trưởng ngành trưởng nhà lang, Khun trong các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-Khmer và ngữ hệ Tày-Thái như tiếng Laha, Kháng, Ksingmul, Khmu, Thái Tây Bắc và Lào, có nghĩa là người tù trưởng, người cầm đầu, cũng là tiếng chỉ giới qúy tộc, chỉ người được tôn kính. Thí dụ:Khun Borôm là người tù trưởng nửa huyền thoại nửa lịch sử của người Lào; Khun Quằng, Khun Mun, Khun Piền,... là những tù trưởng của người Laha và người Kháng, Khun Coong là người cầm đầu, chỉ huy việc làm chiếc trống mới trong lễ cổ truyền mừng thắng trận của A-nha Thái Thuận Châu trước Cách mạng tháng Tám. Ngoài ra ông còn liên hệ với tiếng Mun-đa ở Ấn Độ; ngôn ngữ này có Khunztchỉ người cầm đầu gia tộc hay các lĩnh vực đời sống, tôn giáo. Thậm chí ông còn liên hệ với thổ ngữ Sơn Tây ngày trước trong phương ngữ Bắc bộ; ở đây trẻ con chửi nhau có câu «Tiên sư ông Khuấn nhà mày». Khuấn được giải thích như là ông tổ, người cầm đầu một gia tộc. Về mặt ngữ nghĩa là như thế.
Về mặt ngữ âm, Trần Quốc Vượng cho rằng các phụ âm đầu k, kh, h dễ dàng chuyển đổi với nhau vì đó là những phụ âm cùng vị trí cấu âm (ngạc sau hay lưỡi sau) chỉ khác nhau về phương thức cấu âm (k là âm tắc, k’ là âm bật hơi, kh là âm xát) mà thôi. Riêng âm h tuy không phải là âm lưỡi sau mà là âm thanh hầu nhưng về vị trí thì cũng như các âm trên, nó được phát âm ở một vị trí về phía trong và do đó có thể tham gia loạt chuyển đổi này. Phụ âm mà tiếng Hán Việt phát âm là h vốn tương ứng với một âm h hay kh trong các phương ngữ tiếng Hán hiện đại. Theo sự phục nguyên của B. Karlgren đã được đông đảo các nhà ngữ học Trung Quốc cũng như nước ngoài thừa nhận thì trong cổ âm Hán ngữ, các phụ âm đầu của các từ (âm vận học truyền thống của Trung Hoa gọi là các thanh mẫu -HT) kiến, khê, hiểu, hạp, hứa đều được coi là cùng vị trí và đều được gọi là nha âm, tức âm lưỡi sau theo thuật ngữ hiện đại. Từ hiện nay phát âm là hùng thì ở khoảng thế kỷ thứ V (Nam Việt chí là sách đầu tiên ghi chép danh hiệu Hùng Vương ra đời vào thế kỷ này) không thể có dạng như hiện nay mà phải có phụ âm đầu là một phụ âm lưỡi sau như kh hoặc k. Do đó mà nó rất gần với khun, kun, khunzt.
Trở lên là cách giải thích của Trần Quốc Vượng về yếu tố hùng trong Hùng Vương. Cách giải thích này sau đó còn được ông truyền giảng hoặc thông báo cho nhiều cử tọa khác nhau, trong đó có cả Hội nghị lần thứ IV giữa các nước xã hội chủ nghĩa về các ngôn ngữ phương Đông họp tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1986 (X. Tiếp cận lịch sử văn hóa Việt Nam từ ngả đường ngôn ngữ, trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, 1986, tr. 477-489), Sau đây chúng tôi sẽ phân tích xem cách giải thích trên đây của Trần Quốc Vượng có giá trị như thế nào.
Trần Quốc Vượng đã xem khun là một từ chung (= cùng gốc và là họ hàng với nhau) của nhiều ngôn ngữ thuộc họ Môn-Khmer và Tày-Thái. Nhưng người ta không thể luôn luôn xem các từ đồng nghĩa và đồng âm, hoặc cận âm trong những ngôn ngữ lân cận là những từ cùng gốc bởi chúng rất có thể chỉ là những từ vay mượn của nhau mà thôi. Nhiều nhà ngữ học bậc thầy đã nhắc nhở điều này. L. Hjemslev đã viết: «Hai ký hiệu có thể tỏ ra thậm giống nhau mà vẫn không hề có với nhau một mối tương quan phổ hệ nào cả» và «Nếu người ta phải căn cứ vào sự giống nhau bên ngoài thì không thể phân biệt được những từ vốn là vay mượn với những từ vốn cùng nguồn gốc với nhau (Le langage, traduit du danois par Michel Olsen, Paris, 1969, p. 112). Nói về việc nhìn vào hình thức ngữ âm của các từ mà định họ hàng như Trần Quốc Vương đã làm, J. Vendryès đã viết: «Đó là một phương pháp nguy hiểm. Trong giới tự nhiên, có những người cùng họ hàng giống nhau đến nỗi người này bị nhận là người kia. Nhưng không phải tất cả những kẻ giống hệt nhau đều là họ hàng của nhau. Trong ngữ học cũng vậy, những sự giống nhau thường hay đánh lừa» (Le langage, Paris, 1921, p. 360).
A. Meillet cũng từng viết: «Khi người ta gặp trong nhiều ngôn ngữ – có họ hàng hay không – những từ giống nhau sát sao vừa về hình thức vừa về nghĩa, thì trước hết người ta phải tự hỏi xem có phải là tất cả các ngôn ngữ còn lại đã vay mượn của một trong những ngôn ngữ ấy hay không» (Introduction à l’étude comparative des langues indo-européennes, Paris, 1937, p. 378). Meillet đã cho thí dụ về danh từ có nghĩa là hình phạt, tiền chuộc, v.v... trong một số ngôn ngữ Ấn Âu: tiếng Hy Lạp poinê, tiếng Latin poena, tiếng Ireland cổ đại pian, tiếng Gallois poen, tiếng Thượng Đức cổ đại pina (Đức hiện đại pein), tiếng Anh cổ đại pi:n (Anh hiện đại pine, pain) và chỉ rõ ra rằng đó không phải là một từ gốc Ấn Âu cổ xưa mà các ngôn ngữ trên đây đều cùng bảo tồn được. Lý do là một p của nhóm Celtic, (mà đại diện ở đây là tiếng Ireland cổ đại và tiếng Gallois) không bao giờ là một p Ấn Âu; cũng vậy đối với p của nhóm Germanic (mà đại diện ở đây là tiếng Đức và tiếng Anh). Thực tế ở đây là các ngôn ngữ Ireland, Gallois, Đức, Anh đều đã mượn ở tiếng Latin poena còn chính cái từ này của tiếng Latin thì lại là mượn ở phương ngữ Dorien của tiếng Hy Lạp: đó là danh từ poina (X. Sđd, tr. 378).
Ngay trong một họ ngôn ngữ mà còn như thế, huống chi các ngôn ngữ mà Trần Quốc Vượng đã trưng dẫn, thuộc hai họ khác nhau, một đằng là Môn-Khmer, một đằng là Tày-Thái, thì làm sao có thể nói rằng khun là một từ chung cho các ngôn ngữ của ông được? Thực ra, khun là một từ mà các ngôn ngữ Laha, Kháng, Ksingmul và Khmu đã trực tiếp mượn từ tiếng Lào hoặc gián tiếp mượn của tiếng Lào thông qua tiếng Thái Tây Bắc, còn chính tiếng Lào thì lại mượn từ tiếng Pali guru có nghĩa là người thầy hoặc người được sùng kính.
Trong tiếng Lào, từ đang xét không phải là một từ có thanh ngang; nó có thanh thấp đi lên mà chúng tôi tạm ghi bằng dấu ngã. Bởi thế, đó không phải là khun mà là khũn (Trở xuống, tiếng Lào được ghi âm bằng chữ quốc ngữ nên giá trị phát âm giống như trong tiếng Việt. Riêng về thanh điệu thì sẽ ghi theo Marc Reinhorn trong Dictionnaire laotien-français (Paris, 1970) nhưng thanh thấp đi lên (grave montant) thì ghi bằng dấu ngã như đã nói: những thanh này không có giá trị giống như trong tiếng Việt. Còn tiếng Pāli thì được ghi bằng chữ Latin theo quy ước thông dụng. Những cứ liệu tiếng Lào là lấy theo M. Reinhorn). Tiếng Pali guru cho ra tiếng Lào khũn là một hiện tượng hoàn toàn đúng qui luật.
Trước hết, Pāli g > Lào kh là một hiện tượng phổ biến, chẳng hạn gaja > khásá (con voi), gamma >khămmá (bình thường, thông tục), gini > khíntí (lửa) gutti > khút, dạng tắt và khúttì dạng đầy đủ (sự bảo vệ, sự trông nom), geha > khêhà (nhà), nagara > nákhon (thành phố, xứ sở) v.v...
Thứ đến, cũng là bình thường hiện tượng r của Pali, sau nguyên âm của âm tiết trước, trở thành ntrong tiếng Lào khi nào âm tiết tiếp theo của tiếng Pāli do nó khởi đầu bị tiếng Lào lược bỏ; sự lược bỏ này trong nhiều trường hợp đã cho ra thanh thấp đi lên trong tiếng Lào. Thí dụ: sara > sõn (nguyên âm), sira > siễn (đầu, người đứng đầu), vihàra > vihãn (tu viện, chùa chiền), ghora khỗn (quỷ, yêu ma), kesara > kaysõn (nhụy hoa)...
Cần nói rõ ràng thêm rằng phụ âm đầu của từ khũn trong tiếng Lào lẽ ra phải được ghi bằng chữ kho là chữ thứ ba trong bảng chữ cái của Lào, vẫn được dùng để phiên âm âm vị đầu tiên của những âm tiết Pali bắt đầu bằng g. Nhưng ở đây nó lại được ghi bằng chữ khõ là chữ thứ hai trong bảng chữ cái. Đây là một điều bất thường, nhưng điều bất thường này có thể giải thích được vì khũn không phải là trường hợp duy nhất đi chệch khỏi quy tắc: thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp những trường hợp như thế, chẳng hạn Pāli giddhi > Lào khíthì (keo kiệt, bủn xỉn). Phụ âm đầu của từ này trong tiếng Lào cũng được ghi bằng chữ khõ là chữ thứ hai trong bảng chữ cái thay vì bằng chữ kho là chữ thứ ba.
Vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, khũn của tiếng Lào - và cả của tiếng Xiêm: ngôn ngữ này cũng mượn từ Pali guru và phát âm giống như tiếng Lào - là một từ gốc Pāli [1]; từ này đã được các ngôn ngữ Thái Tây Bắc, Laha, Kháng, Ksingmul và Khmu mượn lại chứ tuyệt nhiên không phải là một từ «bản ngữ» trong các thứ tiếng này như Trần Quốc Vượng đã ngộ nhận.
Trần Quốc Vượng còn cả quyết rằng từ hiện nay phát âm là hùng thì ở khoảng thế kỷ V không thể có dạng như hiện nay mà phải có âm đầu là một phụ âm lưỡi sau như kh, k. Rõ ràng đây là một sự khẳng định vô căn cứ. Mọi người đều biết rằng chữ hùng 雄 là một chữ thuộc thanh mẫu hạp 匣, một thanh mẫu mà giá trị ngữ âm ở thế kỷ V đã được phục nguyên là ɣ (Vương Lực, B. Karlgen, H. Maspéro, Đổng Đồng Hòa, ...) hoặc h (Đường Tác Phiên). Cả hai âm này đều là phụ âm hữu thanh. Riêng Karlgren về sau đã phục nguyên lại cho hùng một phụ âm đầu khác là g (X. Grammata Serica Recensa, Stockholm; 1957, pp. 236-237, series 88, l) nhưng đây vẫn là một phụ âm hữu thanh. Còn những âm mà Trần Quốc Vượng đưa ra (kh, k) đều là những phụ âm vô thanh trong khi đó ông lại nhận là mình đã làm công việc phục nguyên theo kết quả nghiên cứu của B. Karlgren «đã được đông đảo các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc cũng như nước ngoài thừa nhận»!
Nhưng cái thiếu sót rõ nhất của Trần Quốc Vượng là ở chỗ trong khi ông phục nguyên cho từ hùng cái phụ âm đầu kh (hoặc k) của thế kỷ V thì ông lại để nguyên phụ âm đầu của khun (hoặc kun) trong trạng thái hiện đại của nó. Một sự so sánh như thế rõ ràng là một sự so sánh khập khiễng: nó không có giá trị. Lẽ ra ông cũng phải phục nguyên cho khun (hoặc kun) cái phụ âm đầu ở thế kỷ V. Còn nếu quả là ở thế kỷ V, phụ âm đầu của khun (hoặc kun) vẫn là kh (hoặc k) thì điều này lại đòi hỏi một sự chứng minh chặt chẽ và rành mạch chứ cũng không thể chỉ là kết quả của một sự khẳng định suông được.
Trở lên là ý kiến của một số nhà nghiên cứu. Dưới đây là ý kiến cá nhân. Không dám động đến truyền thống và tình cảm dân tộc, chúng tôi cho rằng ai có muốn gọi các vị quốc tổ của chúng ta là «Hùng Vương» thì xin cứ gọi như thế cho được thỏa nguyện. Không có một đạo luật nào cấm gọi như thế cả. Nhưng ngược lại cũng không có một đạo luật nào cấm các sử gia gọi các vị quốc tổ là Lạc Vương khi đây là một sự thật mà họ đã chứng minh.
Chúng tôi mạo muội mường tượng rằng nếu các đấng tiên nhân của chúng ta biết đến cái lập luận của người hiện đại trong việc cố gắng duy trì danh hiệu «Hùng Vương» thì hẳn các vị sẽ nhắn nhủ với di duệ của mình: «Chúng ta là con cháu đức Lạc Long Quân, thuộc nòi giống Lạc Việt, lại làm «vua» củaLạc dân (= dân Lạc) nơi xứ sở của Lạc điền (= ruộng Lạc) có các Lạc hầu và Lạc tướng trông coi mà bị gọi là «Hùng Vương» thì không thú vị lắm! Hãy cho chúng ta được về nguồn mà gọi chúng ta là Lạc Vương». ●
(Một tháng trước ngày Giỗ Tổ năm 1992)
* Đăng lần đầu tiên trên Kiến thức ngày nay, số 81, ngày 1-4-1992.
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 113-128.


[1] Với thanh điệu đã nói, Khũn chỉ có thể do Pāli guru mà ra, chứ không thể do quân 君 của tiếng Hán.

Saturday 28 July 2012

Lộ biên có phải là từ Hán Việt không?


Cây lộ biên (còn gọi là khử đờm thảo) chứa hơn hai chục chất an-ca-lô-ít, trong đó có chất lô-be-lin được dùng để chữa những trường hợp ngất do hô hấp (điện giật, chết đuối, ngộ độc ô-xít các-bon, viêm phế quản, viêm phổi, họ gà, ngạt thở ở trẻ sơ sinh...) Tên cây nghe như gốc Hán nhưng tên Trung Quốc của nó thật ra là半邊蓮
 (bán biên liên).
Tên tiếng Pháp của lộ biên là lobélie (do Lamark đặt năm 1778). Trước đó là lobélia (1747), do tiếng La Tinh là lobelia. Tên này do Linné đặt để tưởng nhớ nhà thực vật học người Matthias de Lobel (1538-1616).
Không rõ các nhà thực vật học Việt Nam đặt tên lộ biên dựa vào tên khoa học (Lobelia inflata L) hay tên tiếng Pháp (lobélie).