Tuesday 22 April 2014

Vì sao Phan Trọng Thưởng cần cảm ơn lý thuyết tâm và biên?


Vì sao Phan Trọng Thưởng cần cảm ơn lý thuyết tâm và biên?



Phan Trọng Thưởng bốn lần viết cổ súy trong bài Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn.

(http://vanvn.net/news/14/4614-pgsts-phan-trong-thuong--de-hieu-ro-hon-thuc-chat-cua-mot-luan-van.html). Google lúc 9:20 sáng hôm nay cho 142 nghìn trang với từ khóa cổ súy và 139 nghìn trang với cổ xúy. Có vẻ như cái sai đang thắng cái đúng.

Giễu nhại Nhã Thuyên: Tôi xin phép không bàn luận về những bàn luận sự sai đúng của cổ súy, sai hay đúng là tùy từng góc nhìn (mà có chuyện sai, đúng sao?). Có điều muốn hiểu được vì sao cổ súy có thể lấn lướt cổ xúy và để có thể thông cảm với một phó giáo sư tiến sĩ văn học hôm nay đi cổ xúycho cổ súy, nhà nghiên cứu cần nắm vững các lý thuyết liên quan đến tâm và biên. Không nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa tâm và biên, tự bịt mắt trước cuộc đấu tranh giữa tâm và biên sẽ không nhìn thấy chuẩn mực chính tả dựa trên sự am hiểu từ ngữ gốc Hán vì không được quyền lực chính trị ủng hộ đã trở nên lỗi thời.

Trích dẫn Nhã Thuyên (tr.37): Chính thời khắc khủng hoảng luôn là thời khắc có tính quyết định: hủy bỏ cái cũ, thiết lập cái mới, với nhu cầu của một thế hệ khác.

Đó không phải là lời tác giả luận văn hô hào (giễu nhại PhanTrọng Thưởng, người không phân biệt được thế nào là hô hào, thế nào là giải thích). Liệu người nghiên cứu chính tả tiếng Việt hôm nay, nếu dám đưa ra một lời giải thích kiểu Nhã Thuyên, có bị quy kết là hô hào gì gì không? Hơn nữa, người dám nghiên cứu những từ ngữ sai chính tả còn phải cẩn thận vì với quan điểm lựa chọn như trên, có thể nói luận văn đã tập trung nghiên cứu một hiện tượng nổi loạn, không chính thống, một hiện tượng bên lề, một dòngngầm không chỉ mang ý nghĩa ngôn ngữ đơn thuần mà còn mang ý nghĩa chính trị phản kháng, phản động (giễu nhại Phan Trọng Thưởng).

Monday 21 April 2014

Nhã Thuyên nghiên cứu thư pháp để làm gì?



Thư phápphép viết chữ (Hán) một cách nghệ thuật (Nguyễn Kim Thản, 2005:1570).  Phan Trọng Thưởng tìm đâu ra chuyện thư pháp trong luận văn của Nhã Thuyên?

Sunday 20 April 2014

Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn (Phan Trọng Thưởng - Hội Nhà Văn)


PGS.TS. Phan Trọng Thưởng: Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn

PGS.TS. Phan Trọng Thưởng - 19-04-2014 09:18:24 AM
VanVN.Net - Gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện một số ý kiến khác nhau về luận văn thạc sĩ của học viên Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên), ngày 12-2-2014, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã ra Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định luận văn này. Đây là việc bình thường ở các cơ sở đào tạo sau đại học hoàn toàn nằm trong thẩm quyền của các cơ sở đào tạo. Để bạn đọc hiểu rõ hơn thực chất luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan về đề tài: “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa”. VanVN.Net xin đăng toàn văn bản nhận xét phản biện của PGS.TS Phan Trọng Thưởng tại Hội đồng thẩm định luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thành lập.
PGS.TS. Phan Trọng Thưởng: Dựa trên quy cách của một bản nhận xét luận văn và những yêu cầu do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề ra, tôi có một số nhận xét sau đây về luận văn của tác giả Đỗ Thị Thoan. (Tất cả những đoạn để trong ngoặc kép hoặc in nghiêng đều trích dẫn nguyên văn từ luận văn).

1. VỀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo tác giả luận văn, “chỉnh thể văn học và văn hóa trong bất kỳ không gian và thời gian nào cũng luôn luôn bao gồm dòng chính và dòng ngầm, trong đó dòng chính được coi là Trung tâm; dòng ngầm được coi là ngoại vi, là bên lề”. Dòng chính được coi là “có quyền năng chi phối tác động, quyền năng hình thành qui phạm, hình thành thiết chế; còn Dòng ngầm có vai trò “giải qui phạm và phá hủy thiết chế, nhất là khi thiết chế đó bộc lộ xơ cứng và bảo thủ diễn ra ngay trong dòng chính như một qui luật của vận động”.
Từ luận điểm trên, tác giả chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu của mình là thơ của nhóm Mở miệng với các lý do: “Mở miệng là một hiện tượng coi là nổi loạn trong thơ đầu thiên niên kỷ, có thể coi đó là “thời điểm cách mạng” của quá trình giải qui phạm và phá hủy thiết chế” (tr3). Tác giả luận văn cho biết tác giả dùng từ cách mạng để chỉ hoạt động của nhóm Mở miệng  là vì chú ý đến “tính chất đột ngột và hiệu ứng kích động của nó”. Theo tác giả, vì “là một hiện tượng nổi loạn, nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước, trong văn chương và ngoài văn chương”, cho nên chọn đối tượng này không chỉ là “chọn một nhóm thơ đã gây ra náo loạn văn đàn”, mà còn chọn “cả một không gian xã hội-chính trị-văn hóa của thời đại”. Bản thân tác giả đã tự đặt ra rất nhiều câu hỏi trong đó có câu hỏi: “Đây là một hiện tượng chính trị đội lốt thơ ca hay là một cuộc cách tân văn chương gây hiệu ứng chính trị?; hay “khi đã xác định hiện tượng thuộc dòng ngầm, bên lề thì cần được hiểu các khái niệm dòng chính, dòng ngầm ở Việt Nam như thế nào?... Đó là những câu hỏi sẽ được trả lời trong nội dung luận văn.
Theo chỉ dẫn của tác giả, “vì Mở miệng tự đặt mình vào một xu hướng rộng hơn, có tính chất liên quốc gia (xu hướng ngoại vi hóa) nên nó hấp dẫn cộng đồng nghệ thuật trong và ngoài nước như là biểu hiện của nỗ lực đổi mới nghệ thuật và đòi tự do ngôn luận”. Tác giả cũng tự nhận thấy: “cơ quan an ninh văn hóa Việt Nam vẫn tìm cách kiểm soát và ngăn chặn sự phát triển” của nhóm này. Và vì vậy khi nghiên cứu hiện tượng này, tác giả luận văn cũng “không được tự do”, “tính khách quan trong nghiên cứu không được đề cao”, và vì thế tác giả  “cũng là một kẻ ngoài lề khi trực tiếp hay gián tiếp lựa chọn đứng về phía những cái bên lề”.
Với quan điểm lựa chọn như trên, có thế nói luận văn đã tập trung nghiên cứu một hiện tượng nổi loạn, không chính thống, một hiện tượng bên lề, một dòng ngầm không chỉ mang ý nghĩa văn chương đơn thuần mà còn mang ý nghĩa chính trị phản kháng, phản động.

2. VỀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đây là một nội dung quan trọng của bất kỳ luận văn, luận án nào. Hiểu biết, nắm vững lịch sử vấn đề là điều kiện để triển khai đề tài, để không lặp lại người đi trước, để kế thừa phát triển các thành tựu nghiên cứu có sẵn, để xác định những đóng góp mới của luận văn, luận án.
Đáng lẽ, lịch sử vấn đề ở đây phải là lịch sử nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhưng do Mở miệng là một hiện tượng mới, lại là hiện tượng bên lề, hiện tượng thuộc về Dòng ngầm theo nhãn quan của tác giả nên phần Lịch sử vấn đề,ngoài hai tài liệu (luận văn, luận án) được thực hiện ở Khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Hà Nội trong năm 2009 có liên quan ít nhiều đến đề tài, thì phần lớn các tài liệu được viện dẫn đều là những bài báo, bài giới thiệu công bố trên mạng Internet, trên các Blog cá nhân. Theo tác giả “cho đến thời điểm này (cuối 2010) các báo chí trong nước vẫn từ chối các bài viết về, hay thậm chí việc điểm danh đến Mở miệng cũng không được chấp nhận”. Các chỉ dẫn về tài liệu cho thấy phần lớn là các bài báo in ở Hải ngoại, của những người mà tác giả cho là “cùng hội cùng thuyền”, cùng vị tríbên lề so với vị trí quyền lực chính thống ở Việt Nam. Nhưng “dù mang tính chất tán tụng hay chính trị, hay nghiên cứu cũng đều cho thấy sự hiện diện và khả năng gây hấn mạnh mẽ của họ”.
Trên cơ sở của một lịch sử vấn đề như vậy, tác giả luận văn nhận thấy có 3 khoảng trống cần lấp:
- “Các lý thuyết Âu Mỹ chưa được dịch và chú giải kỹ ở Việt Nam nên việc tiếp thu không đầy đủ, vận dụng còn vênh lệch, mô phỏng lý thuyết, mượn danh lý thuyết… Cho nên cần có những mô tả trung thực về thực tiễn văn học sử, từ đó dựa trên sự thẩm thấu các lý thuyết mới để nhìn lại các vấn đề của Việt Nam”.
- “Do sự chi phối của các định kiến, trong đó có “định kiến tách rời mối quan tâm giữa văn chương và chính trị”. Sự nặng nề của từ chính trị mang đặc thù Việt Nam khiến cho người nghiêm túc và phê bình e dè trước các hiện tượng có vẻ gây hấn, quan niệm hướng tới cái tích cực hơn cái tiêu cực, khẳng định cái chính thống hơn cái ngoại biên cùng việc thiếu diễn đàn chính thức cho tranh luận…khiến cho các chuyển động văn học bị ách tắc, ngạt thở. Hệ quả là không gian ngoại biên lẽ ra phải được quan tâm để trở thành đối tượng thì lại trở thành vùng cấm kỵ trong nghiên cứu…”
“Do thân phận ngoại biên nên những tiếng nói mới mẻ, tiếng nói ngầm không được thừa nhận, chỉ ồn ào trong một ngôi nhà bịt kín bằng vải đen không gây được ảnh hưởng nguy hại hơn chính những tiếng nói tiên phong lại có thể biên thái thành sự thủ dâm tinh thần, còn những cái già cỗi thì lại cố thủ thành trì ù lì và chật chội của nó”.
Có thể xem đó là căn cứ thực tiễn để tác giả xác định mục tiêu và nội dung nghiên cứu.

3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
“Đối tượng của luận văn là thực hành thơ của nhóm Mở miệng với vị trí bên lề và những cách tân, cách mạng trong tư tưởng nghệ thuật của họ. Mở miệng cùng với các hiện tượng khác tạo thành Dòng ngầm, thành một quá trình ngoại vi hóa đang diễn ra như một hiện tượng có tính chất quốc tế”.
“Các tác phẩm được khảo sát là những tập thơ của thành viên nhóm Mở miệng và những người cùng chí hướng. Ngoài một số bản đã bị công an văn hóa tịch thu, thiêu hủy, tư liệu nghiên cứu hầu hết là những tác phẩm thơ của Mở miệng mà Giấy vụn xuất bản được lưu giữ bằng File hoặc chuyển qua Email”.
Như vậy có thể thấy đối tượng, tài liệu nghiên cứu đều không mang tính chính thống, thiếu độ tin cậy.

4. VỀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Theo tác giả, luận văn “chú ý ít hơn” đến thư pháp của từng tác giả. Trọng tâm nghiên cứu chính được xác định là “vị trí bên lề của Mở miệng. Vị trí này là gì? Hình ảnh tương lai của nó? Có thể bình luận gì về tính cách tân, cách mạng của nó?
Phần Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương I: Ngoại vi hóa như một chiến lược tồn tại của cái khác
Có thể xem đây là chương tác giả luận văn viết về hoàn cảnh của sự ra đời nhóm Mở miệng.
Nội dung chương này gồm 3 luận điểm chính:
I. Sự trỗi dậy của cái bên lề - một hiện tượng có tính qui luật của vận động
Dựa trên các quan điểm của J.Derrida và một số nhà tư tưởng khác ở châu Âu, tác giả luận văn giải thích rõ các khái niệm: Lề, Trung tâm, Ngoại vi, Cái khác và xem đó như là những điểm tựa lý thuyết, là những khái niệm công cụ để từ đó nhìn rộng ra các lĩnh vực xã hội, chinh trị và văn hóa khác; đồng thời là công cụ lý thuyết để giải mã sáng tác thơ của nhóm Mở miệng. Theo các lý thuyết gia này, đi đôi với quá trình xây dựng các thể chế, thiết chế để củng cố vị trí Trung tâm (trong tất cả các lĩnh vực) là quá trình giải trung tâm“Các trung tâm được tạo ra một cách nhân tạo qua thời gian và nhiều trường hợp có vẻ vĩnh viễn, nhưng luôn có nhu cầu liên tục về sự phá huỷ và giải trung tâm”. Theo tác giả, luận điểm đó “cần được thẩm thấu để chỉ ra những cấu trúc xã hội, ngôn ngữ, các thiết chế được xem là chân lý cần giải trung tâm”.
“Trong nỗ lực giải trung tâm thì ngoại vi hóa là cách mà những cái bên lề chọn để chống lại sự trấn áp và tiêu diệt của Trung tâm, cũng là cái cách để cái bên lề tồn tại như một cái khác với kinh nghiệm bên lề của nó. Cái bên lề xuất hiện đòi làm cách mạng khi cái trung tâm trở nên già cỗi. Quá trình kết tụ sức mạnh thành Dòng ngầm của những cái bên lề và gây hấn ở những thời điểm cách mạng không phải là một thuộc tính văn chương mà là một hiện tượng phổ biến và nằm trong bản chất của vận động, do đó, cũng là một hiện tượng có tính qui luật của lịch sử văn học ở bất kỳ thời gian, không gian, bất kỳ thể chế, thời đại, quốc gia, lãnh thổ nào. Nó luôn là biểu hiện của một nỗ lực tìm kiếm ý thức văn hóa mới có tính chất thay thế, làm đối trọng với cái đang trở nên già cỗi, mòn sáo và chuyên chế”.
 Từ cơ sở lý thuyết và sự tri nhận lý thuyết của tác giả, văn học Việt Nam đương đại được nhìn nhận như sau: “Dòng ngầm văn chương và nghệ thuật trong bối cảnh Việt Nam đương đại đã hiển hiện như một xu thế mạnh mẽ, đặc biệt từ điểm khởi đầu thiên niên kỷ mới. Sự xuất hiện của những cặp khái niệm ngoại vi-trung tâm; chính thống-phi chính thống; phụ lưu-chính lưu… cho thấy nỗ lực mô hình hóa những không gian văn chương xung đột (thấy được và ngầm ẩn) và phân chia quyền lực; những cuộc tấn công và chống giữ, những tranh đấu khó hòa giải… khi tính thống nhất của ý thức hệ bị phá hủy”.
Đó là những luận điểm sai trái mang tính kích động chính trị rõ rệt.
II. Mất diễn đàn-khủng hoảng không khí sáng tạo thời Hậu đổi mới
Để làm rõ nhận định này, tác giả luận văn đưa ra 3 luận điểm sau đây:
Tác giả sử dụng khái niệm Hậu đổi mới để mô tả xã hội Việt Nam từ 1991 đến nay. Theo tác giả, với Đại hội VII (1991), “Cơn hưng phấn của thời đổi mới nhanh chóng biến thành nỗi hụt hẫng vì sự thắt lại của chính sách”. “Tại Việt Nam, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư đánh dấu sự khôi phục quyền lực của Đảng với tư tưởng bảo thủ về văn nghệ bằng cách tái chế lại định nghĩa của Nguyễn Văn Linh về Đổi mới”. Theo tác giả, “tinh thần đổi mới đã bị bóp méo hay vo tròn lại”.
Trong thời kỳ này, các nhà văn rơi vào tình trạng tác giả gọi là “mất diễn đàn chính thống”. Ở thời kỳ Đổi mới, các nhà văn như Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu khi đòi quyền tự do cho nghệ thuật vẫn còn niềm tin vào nhà nước và trông đợi vào tờ Văn nghệ như là một diễn đàn chính thức. Theo nhận xét của tác giả luận văn, “tờ Văn nghệ thời 1987-1988, khi Nguyên Ngọc là Tổng Thư ký thể hiện rõ sự chuyển hóa từ vai trò cơ quan ngôn luận của chính phủ thời chiến thành một diễn đàn quan trọng cho các nhà văn và trí thức với các cuộc tranh luận nghệ thuật, nay đã như mất sức”. Các nhà văn không thể chờ đợi vào sự hồi sinh của tờ báo. “Tờ Văn nghệ với một bộ phận người trẻ trở thành hình ảnh bảo thủ của một ý thức hệ lỗi thời và sự hèn nhát của một lớp nhà văn bại trận”.
Đó là lý do dẫn đến “nhu cầu phản kháng, chống đối, đòi thay đổi”… xuất hiện trong chính đội ngũ nhà văn.
Tác giả đặt sự ra đời của nhóm Mở miệng trong sự so sánh với nhóm Nhân văn giai phẩm trước đây để nhận diện tính chất phản kháng có ở 2 hiện tượng này. Tác giả nỗ lực phân tích, biện giải để chứng minh sự phản kháng của nhóm Nhân văn giai phẩm thời kỳ những năm năm mươi của thế kỷ XX và của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài… vào những năm tám mươi, chín mươi là hoàn toàn khác so với Mở miệng. Theo tác giả, các nhà văn trong Nhóm nhân văn và các nhà văn thời kỳ đổi mới dù có phản kháng thì cũng chỉ là sự phản kháng nửa vời, phản kháng của kẻ ở trong, vừa muốn chối bỏ, vừa không muốn chối bỏ; phản kháng nhưng vẫn kỳ vọng vào sự thay đổi, vào quyền được nói thật. Còn các tác giả của nhóm Mở miệng và những người đồng chí hướng hiện nay không chịu dừng lại ở đó. Họ đi xa hơn, họ “muốn lật đổ hơn là xây dựng”, “họ không thể chỉ gây hấn bằng cách nỗ lực nói thật vì niềm tin vào sự thật cũng không còn”…
Từ các phân tích trên, tác giả luận văn nhận định: “Trong mối quan hệ của văn chương và thể chế, nếu thể chế ở thời thịnh, được lòng người; nhu cầu chống đối thường ít khi được đặt ra như một yếu tố trội. Nhưng giai đoạn khủng hoảng, phẩm tính phản kháng vốn tiềm tàng trong lòng các xã hội chuyên chế sẽ trỗi dậy. Đây là giai đoạn thích hợp cho nổi loạn, cho phá phách, cho thái độ vô trật tự, vô chính phủ. Chính tại đây, sự mất niềm tin vào bối cảnh, chán ngấy cái trung tâm, cái chính thống, cùng với nó là sự tan rã của ý thức hệ nền tảng, diễn đàn chính thống, sự ồ ạt du nhập của những tư tưởng mới và sự khơi nguồn những sáng tạo và phẩm tính phản kháng của các thế hệ đi trước… đã tạo một không khi giao tranh hỗn độn thích hợp cho những cuộc cách mạng một không khí rã rời, vừa dễ nổi loạn, vừa thiếu liên kết, vừa dễ tập hợp nhóm, vừa phi trung tâm, vừa có những điểm để thiết lập một trung tâm mới”. (tr32).
III. Sự khác biệt trong ý thức phản kháng của Nhóm nhân văn giai phẩm  với nhóm Mở miệng còn được tác giả đặt trong bối cảnh rộng hơn là miền Nam và miền Bắc, Hà Nội và Sài Gòn để so sánh nhằm thấy rõ “sự khác biệt trong chủ trương đường lối và ý hướng thơ ca”.
Theo Đỗ Thị Thoan, “Nhân văn giai phẩm là phản ứng Chống sự áp chế của bộ máy quản lý văn nghệ. Họ chủ yếu “đòi một thứ dân chủ gọi tên được, chống lại dàn đồng ca thơ cách mạng”. Còn nhóm Mở miệng cũng Chống nhưng hướng tới cái Khác biệt”.
Sau những phân tích, phê phán thái độ phản kháng nửa vời của nhóm Nhân văn giai phẩm, tác giả luận văn cổ súy cho những động cơ cách tân và cách mạng của nhóm Mở miệng như sau:
“Nhu cầu cách tân như một lẽ sống còn của nghệ thuật mới là lý do tồn tại thực sự của Mở miệng – một nhóm văn chương; nhưng nhu cầu cách mạng lại trở thành điều kiện để họ thực hiện cái lẽ sống còn đó”... “Chính sự biến đổi từ nhu cầu cách tân sang cách mạng này tiết lộ một đặc tính của văn chương nghệ thuật trong mối quan hệ với bối cảnh: ý hướng cách tân văn chương không thể thực hiện được nếu không kết hợp với sự đấu tranh, với những tiếng nói đòi quyền lực, hay đòi xác lập một bản đồ văn chương mới. Đấy cũng là tiền đề cho một sự thay đổi nhận thức về tính tiên phong của văn chương giai đoạn này: mọi cách tân văn chương ở những giai đoạn khủng hoảng niềm tin và những trông đợi vào thể chế thường đến cùng với những tham vọng lật đổ ý thức hệ”.
So sánh hai nhóm (NV và MM) tác giả nhận xét: “Tính chất chính trị trong tinh thần đấu tranh với quyền lực thống trị là đặc điểm chung của họ, nhưng sự khác biệt về vị trí kẻ ở bên lề và kẻ ở bên trong dẫn đến sự khác biệt và bản chất ý nghĩa của từ chính trị: NV – GP quan hệ với thể chế hữu hình; MM xác lập quan hệ với những thiết chế vô hình trong sự tan rã của ý thức hệ thống nhất của thế chế”... “Ở đây không gian văn hóa đã thành không gian đấu trường của những quyền lực văn hóa với khát vọng chính đáng của sự thay thế, chuyển động”.
Kết thúc luận điểm này, tác giả luận văn hô hào: “Chính thời khắc khủng hoảng luôn là thời khắc có tính quyết định: hủy bỏ cái cũ, thiết lập cái mới, với nhu cầu của một thế hệ khác”.
IV.Tôi khác, vậy tôi phải tồn tại
(Mệnh đề này có lẽ dựa theo mệnh đề triết học nổi tiếng của R.Decarte: “Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại”.)
Dựa trên nền tảng lý thuyết đã được xác định từ đầu, tác giả đưa các hiện tượng được khảo sát vào một bối cảnh, một không gian rộng lớn hơn để phân tích và khái quát, tìm ra các cặp khái niệm tương ứng. Theo tác giả
Hà Nội – Chính thống – Trung tâm
Sài Gòn – Phi chính thống – Phi trung tâm (ngoại vi hóa, bên lề)
Tác giả đã sử dụng những dẫn liệu văn chương và lịch sử để làm rõ ý tưởng và các cặp khái niệm này.
Theo tác giả, nhận thức rõ vị trí bên lề, cái ngoài lề, cái phi chính thống, nhận thức rõ thân phận kẻ khác, cái khác để không bị tan biến, không bị trấn áp và tiêu diệt thì hướng vận động là phải ngoại vi hóa, phải đứng bên lề. Sự phản kháng của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương... đã trở nên già cỗi và trở thành lực cản ngay cả khi đang bứt phá chỉ vì trong nhiều năm cứ phải nói theo ý thức chính thống.
Trong tình hình đó, “những kẻ bên lề, những kẻ nhận thức về vị thế nhỏ bé của mình muốn thoát ra nhưng để không nhanh chóng rơi vào trạng thái già cỗi của sự xác lập các trung tâm mới, rất cần một quá trình giải trung tâm liên tục, hay là một sự phản tư liên tục về chính sự tồn tại của mình”.
Theo tác giả: “Nỗ lực của cái bên lề trong việc giải trung tâm các quyền lực chính thống chính là khía cạnh chính trị trực diệ n của nó. Và chắc chắn, cùng các hiện tượng khác phải ghi nhận sự có mặt của Mở miệng không phải như một sự bột phát mà như một tất yếu; không phải như những anh hùng riêng lẻ mà như những người tiên phong của một tập hợp. Nỗ lực của nhóm Mở miệng trên thực tế không phải là nỗ lực chiếm chỗ Hội nhà văn mà là nỗ lực chiếm chỗ để hất gạt cái cũ kỹ, cái chuyên chế, cái đè nén. Ở đây, việc tiến vào trung tâm không nên được hình dung như hình ảnh đám đông ào ạt xông lên vì u tối và vì không biết phải làm gì một cách vô chính phủ, mà là sự tập hợp những người muốn, trong giai đoạn này, giữ chặt lấy cái địa vị bên lề đó vì nó nuôi dưỡng kinh nghiệm chống đối, nó mang tiềm năng sáng tạo một năng lực chống đối, sáng tạo một thế giới có tính chất thay thế, một không gian phá cách, có nghĩa nó là một năng lượng sáng tạo mới.” (tr43).
Và cuối cùng, giữa hai khía cạnh cơ bản: thực hành thơ và thực hành xuất bản, tác giả xác định “sẽ tập trung vào khía cạnh chính trị và tính cách tân – hai phẩm chất thường xung đột nhau trong nghệ thuật, nhưng trong trường hợp này, ở bối cảnh Việt Nam đương đại, nó lại trở nên gắn bó và đầy tiềm năng dung hòa.”
Tóm lại, đây là chương được xem như cơ sở lý thuyết, như là khung lý luận của luận văn. Về thực chất đây là một luận văn chính trị trá hình, văn chương chỉ là cái cớ.
Chương II: Tự xuất bản và sự xác lập không gian phá cách.
I. Xuất bản ngầm trong các xã hội chuyên chế (Samizdat)
Trước hiện tượng tự xuất bản (Samizdat) và các hiện tượng phổ biến, lưu truyền một cách phi chính thống tương tự mà nhóm Mở miệng và nhà xuất bản Giấy vụn tiến hành, tác giả luận văn giải thích:
“Vậy bối cảnh hậu đổi mới với nỗi thất vọng về chính trị, sự đa dạng về văn hóa và công nghệ Internet dẫn đến quá trình giải phân lập không gian địa lý, và hình thành một không gian phân lập trừu tượng hơn của chính thống – phi chính thống Sài Gòn – Hà Nội (không viết hoa). Các nhà văn ngầm ở Việt Nam đã quy tụ với nhau trong những tuyển tập và không gian mạng rộng lớn hơn là trong một điều kiện cư trú tạm thời. Do đó, Samizdat ở Việt Nam đương đại với sự phát triển của dòng thơ phôtô lại có những đoạn nhập dòng với các trào lưu văn hóa mạng, của những tiếng nói ngoại biên, những tiếng nói đòi dân chủ có tính cách tham dự của trí thức như là hệ quả của khủng hoảng về bối cảnh lẫn tiếp thu những xu hướng mới.” (trang 53)
II. Samizdat (tự xuất bản) như một hành vi tham dự: phản kháng và kết nối
Tác giả biện hộ, bênh vực cho hành vi tự xuất bản, xem đó là cách để đạt được tự do cá nhân. Theo tác giả: “Ở Việt Nam, sau nhiều năm truyền thông dòng chính, ở khía cạnh nào đó cũng đồng lõa với những trấn áp thì xuất bản vỉa hè là một hành vi phản kháng lại sự biên tập (thường đồng nghĩa với cắt xén và kiểm duyệt do quan điểm chính trị)... Trong nỗ lực phi chính trị ấy, sự từ chối lại bộc lộ tính chất tham dự... Tính chính trị của Samizdat đương đại biểu hiện ở nỗ lực xác lập quyền lực, một cách tạo không gian chơi mang tính chiếm chỗ và thay thế.”.
Với giải thích của tác giả, các nhà văn tự xuất bản do tự lựa chọn vị trí ngoài lề nên “không cần tham gia vào Hội Nhà văn, đó là những lựa chọn cá nhân khi thể hiện thái độ chống đối hay quan điểm phi chính trị, không cần đến các Hội chính thức của nhà nước”.
Theo tác giả, “Nhân văn giai phẩm vì nỗ lực đòi dân chủ thông qua hình thức xuất bản báo chí công khai nên cuối cùng bị đàn áp khi vượt qua những luật định ngầm của chế độ. Còn nhóm Mở miệng do lựa chọn ngay từ đầu và trung thành với tự xuất bản mang tính chất bán công khai nên tạo thành một vùng văn hóa mới”. Vì vậy, chọn phương thức tự xuất bản là cách “để có thể chống đối”, “là tiềm năng chống lại sự đơn độc và làm tăng sức mạnh của các cá nhân đơn lẻ dưới sự chuyên chế văn hóa”. Hiệu ứng của nó có thể lan rộng trong cộng đồng để mở ra những lối đi mới, một ý thức văn hóa có thể thay thế cái xơ cứng. Bản sắc nhóm cũng là một khía cạnh chính trị.”
Theo tác giả, “phương thức tự xuất bản trước hết là một điều kiện cho tiềm năng cách mạng”.
III. Phẩm chất cách mạng của tự xuất bản (Samizdat)
1. Tính chất phi chuẩn – một thẩm mĩ mới
Theo tác giả, xuất bản vỉa hè ở Việt Nam ít khi gợi cảm giác thiếu phẩm chất văn chương do không được biên tập mà sự phi chuẩn của nó lại biểu hiện một phẩm chất mới, một thẩm mĩ mới. Tác giả dẫn ra những lời lẽ, hình ảnh tục tĩu trên các ấn phẩm Mở miệng để chứng minh (Vì quá tục tĩu nên xin không dẫn ra ở đây)
2. Ngữ pháp của giải phóng
Bằng cách trích dẫn và nêu nguyên văn những bài thơ mà theo Đỗ Thị Thoan “phải gọi là Thi phẩm mới đúng” với lời lẽ thô bỉ, nhảm nhí, với ngôn ngữ phá cách do các tác giả Mở miệng chế tác, tác giả luận văn đã hết lời ca ngợi, nào là“năng lượng thẩm mĩ mới”, nào là sự giải phóng ngôn ngữ, ngữ pháp; nào là sự trải nghiệm sâu sắc, sự tài tình hấp dẫn và “đầy sức mạnh lật đổ”.v.v...
Nguy hiểm hơn, tác giả luận văn còn cổ vũ cho việc đem tác phẩm Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra để giễu nhại, sàm sỡ và xem đó là sự “lật đổ của Slogan xã hội, các ảo tưởng đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức hệ.”(trang 71)
Ở trang 73, cuối chương II, tác giả đã tự đặt câu hỏi, tự trả lời và tự bộc lộ động cơ chính trị của mình khi thực hiện luận văn này: “Câu hỏi đây là sự cách tân văn chương mang tính chính trị hay là hành vi chính trị đội lốt văn chương thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ và sự lệ thuộc vào một từ chính trị được cắt nghĩa hẹp hòi: Tại sao các anh không cứ cách tân đi, bởi văn chương mới chính là lĩnh vực của anh? Tại sao phải lên tiếng về chính trị và bình luận xã hội? “Nay ở trong thơ nên có thép” có chính trị không? Không phải chúng ta đã bội thực thứ văn chương (phục vụ) chính trị rồi sao? Khi nhà thơ tự mang mình ra như tang chứng của đời sống, của sự áp chế, họ không sở hữu quyền lực thực sự. Có lẽ chính tính chất vô ích của loại hình nghề nghiệp này, những câu hỏi về vị trí, trách nhiệm của nhà văn với xã hội và bối cảnh vẫn cứ được đặt ra, nhiều nghịch lý hài hước mà khó trốn thoát. Vậy cái tình thế của một nghệ sĩ Việt Nam, hoặc là thoát khỏi bối cảnh, trở thành một công dân toàn cầu, hoặc vị nghệ thuật, vị cá nhân, hoặc gắn chặt với bối cảnh thì phải vừa chính trị, lại vừa văn nghệ và cách tân”.
Đây là một luận điểm mang tính chất kích động rõ rệt.
Chương III: Cách tân hay cách mạng: từ tuyên ngôn đến các thực hành thơ
Giải trung tâm quan niệm thơ
Sau khi đưa ra nhiều dẫn liệu thơ để chứng tỏ nỗ lực giải trung tâm của Mở miệng, tác giả luận văn nhận xét: “Thành ra, khi kẻ ngoài lề nhận ra tình thế ngoài lề của mình, họ cũng nhận ra rằng không thể có tiếng nói chung giữa người đang sống trong cùng một đất nước, một lãnh thổ như hiện nay. Không ai muốn mình thuộc về bóng tối, họ đặt câu hỏi về cách mạng và kẻ lãnh nhận cách mạng thơ.” (Trang 74)
Khi đã xác định sứ mệnh cách mạng của nhóm Mở miệng, tác giả luận văn lần lượt đi vào các phương diện khác nhau của cuộc cách mạng này.
- Trước hết là giải trung tâm về quan niệm thơ
- Thứ hai là thực hành thơ rác, thơ dơ như là mỹ học của cái tục
- Thứ ba là thực hành thơ nghĩa địa như là sự trở lại của các xác ướp.
Với sự nhìn nhận 3 phương diện “cách mạng” này của Mở miệng, tác giả luận văn trở thành người cổ súy, bênh vực nhiệt thành cho những thứ văn chương bên lề, văn chương rác rưởi, dơ bẩn, văn chương nghĩa địa. Với loại văn chương này, tất cả những gì nghiêm chỉnh nhất, thiêng liêng nhất cũng được đưa ra để biếm nhại, công kích, đả phá và kêu gọi lật đổ.
Kết luận của luận văn
Từ các nội dung trên, tác giả luận văn đi đến 4 kết luận sau đây:
1. “Mở miệng tuy tự xác định theo tinh thần hậu hiện đại, nhưng là hậu hiện đại trong văn cảnh Việt Nam, và vì vậy nó cần được nhận diện để không lầm lẫn với các trào lưu hiện đại ra đời từ thế kỷ trước ở các nước khác”
2. “Mở miệng ở các nỗ lực thực hành thơ là biểu hiện của sự giải phóng trong nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong sự so sánh với truyền thống thơ Việt Nam, Mở miệng là sự “chối bỏ quyết liệt”, “lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế khi niềm tin vào chế độ và sự tự do đang có sự tan rã. Sức mạnh và hiệu ứng chính trị của một nhóm văn chương không phải là sức mạnh của những tuyên bố, những khởi loạn súng ống và đàn áp, mà bằng tư cách nhà thơ của họ.”... “Dù hình ảnh của Mở miệng thường bị đồng nhất với hình ảnh của sự phá phách trong hỗn loạn, nhưng điều quan trọng nhất họ đã làm và làm được là phá vỡ sự độc tôn, sự chuyên chế của cái lớn, cái chủ lưu, cái trung tâm chính thống đã bộc lộ sự bảo thủ đáng sợ. Chính sách truyền thông văn hóa hà khắc tạo nên một không gian xã hội nóng bỏng và căng thẳng cao độ bộc lộ ra ưu thế và cả những giới hạn, sự thoái hóa trong thực hành của họ. Khi Mở miệng nỗ lực giải trung tâm cái hiện hữu, cùng lúc nó ngầm bộc lộ tham vọng xác lập một quyền lực văn hóa mới – cái vắng mặt – cái bị trấn áp được nhận thức, đồng thời được nhận thức như một khả năng sản sinh ra quyền lực văn hóa mới. Sự giải phóng này làm nên bản chất chính trị của họ”.
3. “Bên lề được nhận diện như là bản chất chính trị - văn hóa của nhóm Mở miệng. Nỗ lực của nhóm là nỗ lực giải trung tâm, giải huyền thoại, giải định kiến. Nó là hiện tượng có tính chất toàn cầu nhưng cần được nhận diện trong bối cảnh Việt Nam”.
4. “Mở miệng là tiếng nói ngầm, là tiếng nói khác, là khát vọng tự do sáng tạo khi bị bóp nghẹt. Tác giả mượn Thanh Tâm Tuyền để kết luận: “Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống. Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo”.
Kết luận và kiến nghị của người nhận xét
1 – Như tác giả luận văn đã tự xác nhận, đây là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương” với rất nhiều quan điểm chính trị và học thuật sai trái, mang tính chất kích động, đả phá chế độ, xúc phạm chủ tịch Hồ Chí Minh; đánh giá sai lệch về sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước; không có giá trị khoa học và thực tiễn; sai lầm trong việc chọn đối tượng nghiên cứu; tài liệu không chính thống, không có độ tin cậy; cổ súy và biện hộ cho những hiện tượng văn chương tục tĩu, thấp kém; miệt thị văn học và văn hóa chính thống của dân tộc; tạo hậu thuẫn về mặt lý luận  và tiếp tay cho những phần tử chống đối, nổi loạn ở trong và ngoài nước... Luận văn lại được viết bằng một văn phong trôi chảy, có sự mở rộng trên cả hai lĩnh vực văn chương và chính trị, vì vậy, đây là luận văn nguy hiểm, cần được chỉ ra các sai sót để hạn chế các tác động tiêu cực đến xã hội và văn học. Đáng tiếc, đây là luận văn khoa học được bảo vệ ở một trường Đại học Sư phạm danh tiếng có truyền thống mô phạm và truyền thống học thuật. Do tính chất nguy hiểm của những tư tưởng chính trị và học thuật sai lầm của luận văn, chúng tôi đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nghiêm túc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm từ khâu giao đề tài đến khâu tổ chức đánh giá luận văn, để bảo vệ uy tín cho cơ sở đào tạo và cho nhà trường.
- Từ luận văn này, với bút danh Nhã Thuyên đã phát triển thành 5 tiểu luận nằm trong một cấu trúc thống nhất mang tên: Những tiếng nói ngầm được đăng trên mạng Internet (Da màu) dưới sự tài trợ của các tổ chức nước ngoài. Nội dung được viết lại chặt chẽ hơn; các ý tưởng cụ thể hơn; động cơ công kích, đả phá chế độ chính trị rõ rệt hơn. Trong đó, tác giả công khai cổ súy cho “chủ đề giải thiêng hình tượng Hồ Chí Minh, chống lại sự thống trị dai dẳng của tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán chế độ cộng sản, bình luận và giễu nhại về Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thơ bất đồng chính kiến đã tỏ rõ thái độ trực diện trong quan hệ với quyền lực của thể chế, với nhu cầu phá hủy quyền lực đó. Cộng sản được hiểu như một biểu tượng của sự khống chế tư tưởng và do đó nó thành mục đích nhắm vào của thơ ca trong cuộc tấn công vào ý thức hệ chính thống này” (in trên Da màu).
Rõ ràng, những sai phạm về tư tưởng của tác giả luận văn là có hệ thống và có chủ đích.
3 - Trong thời gian gần đây, trên nhiều tờ báo lớn trong nước đã có hàng loạt bài phân tích, phê phán những động cơ chính trị và những sai lầm về tư tưởng học thuật của luận văn. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra khá phức tạp hiện nay, nếu để lưu hành luận văn này sẽ gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường. 

Saturday 19 April 2014

Lục xì là gì?


Lục xì là một thiên phóng sự nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng viết về nơi chữa bệnh cho gái mại dâm.

Từ lục xì, có khi viết là lục xi (Lê Văn Đức, 1970a:846), ban đầu được gọi là nhà khám bệnh đàn bà (Gouzien, 1897:148)

Nguồn gốc của từ lục xì nay ai cũng rõ. Đó là cách người Hoa kiều phát âm hai từ tiếng Anh  look, see. Cụm từ look see được họ dùng với nghĩa là xem xem / xem nào / xem đi.
Dans le prodigieux charabia de ces courtiers, toutes les choses qu'ils apportent prennent l'appellation étrange de looksee — prononcez louksi — des verbes anglais to look (regarder) et to see
(Pimodan, 1900:364)

Người Việt đi khám bệnh, bắt chước người Hoa gọi là đi lục xi:
E khi bịnh hoạn không chừng,
Có quan thầy-thuốc mỗi tuần lục xi.
(Nguyễn Liên Phong, 1909:31)

Nhà khám bệnh tiếng Pháp là dispensaire, nhưng người Pháp ở Việt Nam nghe nhà lục xi / lục xì / lục sì riết thành quen, cũng ghi là louksi (Gouzien, 1897:148).

Friday 18 April 2014

Diễn từ nhận giải (Tạ Chí Đại Trường - Quỹ Phan Châu Trinh)


Diễn từ nhận giải - Tạ Chí Đại Trường


ÔNG TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
DIỄN TỪ NHẬN GIẢI NGHIÊN CỨU

 


GARDEN GROVE ngày 12 tháng Ba năm 2014.

Kính thưa Bà Chủ tịch Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh,

Kính thưa Quý vị trong Ban Ðiều hành Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh,

Kính thưa Quý vị hiện diện,



Trước hết tôi xin được tỏ lòng biết ơn với tất cả những ai có lòng đề cử tôi vào việc nhận Giải của Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh lần thứ VII này. Tôi đã có lần nhắc đến câu Tái ông thất mã cho trường hợp viết một quyển sách của mình. Ðến nay, tuy không muốn cho ý tưởng mang tính định mệnh tiêu cực của câu nói trên chen vào quyết định đầy hướng vị tha nhưng chắc cũng phải gặp nhiều trở ngại này của Quý vị, tôi cũng vẫn cứ muốn nhắc lại nó để giữ vị trí kẻ bên lề của tình hình nghiên cứu sử học trong một nước mà tôi không được quyền tham dự. Theo tôi, có như thế, một kẻ suốt mấy mươi năm không bước chân vào một thư viện lớn nhỏ nào, không chịu sự kềm thúc của một cơ quan nghiên cứu nào như tôi mới có thể vượt, ít ra là một chút mất lòng, khi nhìn lại những vướng mắc cụ thể ngay từ trong quá khứ đến những hiển hiện trước mắt của một nền sử học muốn là khoa học cho Việt Nam. Xin Quý vị cho tôi tỏ bày:



NHỮNG VÒNG KIM CÔ CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM



Một nền sử học truyền thống khu vực chưa qua...


Việt Nam có một nền sử học lâu đời lấy từ truyền thống viết sử khu vực Ðông Á, điều này không phải gây tranh cãi. Chứng cớ còn đó: Ðại Việt sử kí toàn thư, (Ðại) Việt sử lược, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Thực lục của nhà Nguyễn... Nhưng nằm trong phát triển riêng biệt của khu vực, các công trình ghi nhận quá khứ ấy cũng phải chịu nhiều ràng buộc từ thể chế chính trị, áp lực văn hoá sản sinh ra nó, chuyển biến từ trung tâm Trung Hoa lan ra vùng ngoại biên, ở đây là Việt Nam với tính chất riêng của vùng thụ nhận.



Trước tiên việc viết sử nước, với khởi thuỷ là của triều đại, là do một cơ quan chuyên trách ăn lương nhà nước, được gọi là Quốc sử quán, Quốc sử viện... tuỳ thời vụ. Tuy khi thiết lập thể chế, hoặc được thúc đẩy bởi những lí tưởng cao cả, hoặc từ thực tế muốn tạo sự quân bình quyền lực, người ta đã đưa ra cả một khuôn mẫu lí thuyết và thực hành để người viết sử có thể thực hiện nhiệm vụ của mình nhưng mối tương quan bất bình đẳng giữa người chủ làm-lịch-sử có quyền lực và kẻ làm công viết-lịch-sử vẫn là điều không tránh khỏi. Ở Trung Quốc, các ông sử quan ươn ngạnh hùng hổ xuất hiện trong các đời Xuân Thu Chiến Quốc mờ mịt, nhưng sự thực có thể kiểm chứng được là trường hợp Tư Mã Thiên bị thiến và Ban Cố nằm ngục của triều đại Hán. Ðịa vị người cầm bút ở Việt Nam càng thấp kém hơn khi đối với giới cầm quyền, họ chỉ là kẻ phụ thuộc với chỉ danh chung, “thư gia” còn mang chút nể trọng của Lí, đến sỗ sàng: “thư nhi”, “gia thần” của các hoàng tộc Trần trong tiếng gọi thường tình, và chỉ hẳn là “nô” khi cần phải trừng trị... Cho nên nho sinh Ðoàn Nhữ Hài sửa thực lục, đốt bỏ bản cũ hẳn là đã làm đúng chức phận của tầng lớp mình. Có tổ chức lại cho hợp với đời mới thì bầy tôi của vua, “quốc thần” cũng vẫn bị Lê Thánh Tông mắng sa sả như thường.



Cái luỵ vì làm kẻ đi sau, có khuôn mẫu để ngưỡng mộ đã khiến cho sử Việt có dấu vết được chép qua những hình ảnh xuất hiện ở phương Bắc trước đó. Ví dụ chuyện giữa Ðinh-Ngô với vai trò trung gian Ðinh Liễn có dáng của Lưu Bang, Hạng Vũ, chuyện Trần Thánh Tông đốt bỏ hòm sắc đầu hàng đã thấy ở Tam Quốc chí diễn nghĩa. Hoàng hậu Trần che cho chồng tránh con báo sỗng chuồng như chuyện trên một họa đồ cũ của Hán. Và điều này thì không phải là chuyện thóc mách của người đời nay: Nguyễn Nghiễm đã từng thắc mắc chuyện Lê Hoàn cướp ngôi Ðinh quá giống màn Binh biến Trần Kiều của Triệu Khuông Dẫn... Có thể coi những ghi chép này chỉ là kết quả vài trường hợp cụ thể của đường nét tiến triển chung học được về quan niệm thịnh suy của triều đại, như khi Ngô Sĩ Liên mượn nói về sự suy sụp đời thượng cổ, “chỉ vì vua Hùng say sưa, bỏ việc nước”! Cái “nước” đó cũng có khuôn mẫu là một hệ thống cai trị chuẩn mực quyền hành sâu sát từ trung ương đến địa phương, đầy tự tín cho sử thần!



Tai hoạ xảy ra cho tình trạng quá khứ Việt xuất hiện không đúng với sự thật, có phần cũng chỉ vì sử được viết bằng chữ nước ngoài, một điều kiện bất khả kháng của tiến triển dòng tộc cai trị trong suốt thời gian dài. Bố cáo của triều đình phải có người “dịch” ra cho dân chúng hiểu. Ngoại ngữ Hán đã khiến sử quan không đủ chữ để diễn tả các sự vật, sự việc chung quanh, nhất là khi tầng lớp cai trị trên cao còn có sinh hoạt gần với dân chúng, như trong thời gian của những thế kỉ đầu độc lập. Còn khi đã chen được vào các sinh hoạt của khuôn mẫu thì sự ghi chép lại trở nên nhàm chán vì quen thuộc như chứng dẫn ở giai đoạn Lê Trung hưng trong Toàn thư.Người học, học xong đã đuối thì thấy gì tương tự dễ  chộp ngay làm của mình cho khoẻ. 



Một khuôn mẫu có sẵn phát triển trên một vùng đất chật hẹp không tạo ra nhiều tình huống phức tạp cũng là nguyên nhân khiến cho phần sử cổ, trung đại Việt Nam bị bó gọn trong một quyển, gom lại có tên rút gọn ngày nay là Toàn thư, được coi như là bằng cớ chắc nịch của quá khứ, chỉ để noi theo, xê xích thêm bớt, tán rộng chứ không phải là những chứng dẫn để chịu đựng sự tra xét nghiêm ngặt khi muốn tìm hiểu quá khứ như đối với bất cứ tài liệu nào có dưới tay sử gia. Thái độ đó đã thấy ở người xưa, với Ngô Thì Sĩ trong Ðại Việt sử kí tiền biên, và, thật tội nghiệp, như vẫn thấy hầu hết ở “công trình sử học” của các danh gia lớn nhỏ bây giờ. Quyển thông sử cương mục của nhà Nguyễn chỉ nổi bật ở phần chú dẫn địa lí, tuy muộn màng những cũng là mang lại thành công đáng kể ở khía cạnh mới. Lỗi lặp lại, ghi chép qua loa không phải ở sử quan Nguyễn bởi vì phần lớn họ cũng xuất thân từ đất của các vương triều Lí, Trần, Lê, nơi cũng chỉ để lại trong quá khứ chừng ấy chuyện, không biết phải tìm thêm ở đâu khác, bởi vì những người đồng sự bậc tiền bối của họ không chịu khó làm việc chữ nghĩa ngoài phận sự “dân chi phụ mẫu” trên trước. Một số ít công trình lạc loài đâu đó về những sắc màu biến chuyển của những thành phần bên ngoài nơi chốn cung đình, hay cả những sự kiện nằm trong triều đình, hình như đã không đủ mức độ uy tín khiến cho các sử quan khi sử dụng chúng phải dồn vào trong hình thức chứng từ mơ hồ “dã sử”, rõ ràng là mang tính coi nhẹ ngay từ khởi đầu. Cái khuôn khổ chật hẹp được định hình rốt lại đã gây khó khăn cho các ý thức cởi mở khi đất nước lớn rộng, chứa chấp các đối tượng mang nhiều màu sắc phức tạp, khó nắm bắt.



Tính chất “độc quyền” lưu giữ quá khứ của quyển Toàn thư có nguyên nhân bởi chính thể chế đã tạo ra nó, lại vẫn chứa đựng những yếu tố lâu dài chực chờ yểm trợ hay biện minh cho những diễn biến tiếp nối. Quan niệm vể lịch sử duy trung tâm có thể xuất hiện bất cứ ở đâu có một chính quyền mạnh nhưng ở vùng Á Ðông thì đã có tên riêng khởi đầu trong vùng châu thổ Hoàng Hà với một Trung Quốc văn minh, bao quanh bằng một lũ Di Man phải được nâng cấp cho theo kịp vùng trung tâm, tất cả theo một tiến trình mang tên làVương hoá. Rồi đi theo với sự lan truyền trong thời gian, trên đất cựu thuộc địa của đế quốc Hán, Ðường trở nên độc lập, lại có thêm một khuôn mẫu Trung Quốc tự xưng khác mang những tên An Nam, Ðại Việt, cũng coi những tập đoàn chung quanh là Di Man với các tên riêng biệt của họ: Nùng, Thổ... Lâm Ấp, Chiêm Thành, Chân Lạp, Cao Miên (Khmer). Quan niệm về trung tâm ưu việt và tính chính nghĩa của quyền lực nằm ở trung tâm ấy đã khiến xảy ra những cuộc tàn phá, huỷ hoại chứng tích của những tập đoàn yếu thế, cùng chủng tộc hay không, như Việt đối với Chiêm Thành, Trịnh Lê đối với Mạc, Nguyễn Gia Miêu đối với Tây Sơn. Quan niệm trung tâm ưu việt đó vẫn thấy tiếp nối đến ngày nay với những huênh hoang dù có lúc ngượng ngùng: Ta là Nhất, là Riêng Biệt.



Sử sách Việt được viết tiếp nối theo quan niệm ứng xử đó với các dân tộc lân bang, cũng lại tiếp tục được đem dùng với cả những người ở xa, với bọn Dương Di “mắt xanh như của những xác chết trôi”, bị ghê tởm dù đã đi trên những tàu chiến áp đảo. Thực tế tương quan quyền lực dễ dàng làm thay đổi cách đối phó với nhóm người này nhưng sự tiếp xúc với thế giới to rộng cũng gây một chút điều chỉnh lúng túng với nhóm người cũ. Vào thời cổ động một thế giới đại đồng, chống đối thực dân xâm lược, quyển sử của VNDCCH, ngoài những nguyên nhân khác, đã né tránh đến việc phát triển phần đất phía nam trên chủ quyền của dân tộc Chiêm Thành. Công cuộc kinh dinh của một chúa Nguyễn bị thù ghét, đem lại một nửa diện tích cho đất nước ngày nay lại chỉ được trình bày trong vài chục trang ngắn ngủi. Và khi sửa lại sách của Trần Trọng Kim, tái bản năm 1999, người ta không nệ vấn đề tác quyền, đã bỏ cả vài  mục “nhạy cảm” trong quyển sách. Nhưng những điều chỉnh lặt vặt đó không ngăn chặn được vai trò to lớn của quyểnToàn thư vì sự độc quyền chép sử khu vực khá liên tục lâu dài trên phần đông bán đảo Ðông Dương. Nó được khai thác theo với sự thành lập nước Việt Nam độc lập mới, không những mang những kiến giải huênh hoang khá lạ lùng mà còn đang được sử dụng theo hướng thành lập một nền Quốc giáo, cho là dựa trên các sử liệu chắc nịch cũ để đảm bảo cho một chủ nghĩa dân tộc thần thuyết dẫn vào tương lai. 



Sự đứt đoạn cũ, mới



Những ràng buộc cụ thể hay vô hình, khắc nghiệt hay lơi lỏng tưởng có thể mất đi với sự sụp đổ của triều Nguyễn, triều đại gắn liền với một truyền thống viết sử mang nhiều hệ luỵ vật chất, tinh thần mà người viết sử phương Ðông phải gánh chịu qua nhiều ngàn năm. Bởi vì người Pháp xâm lăng Việt Nam không phải chỉ tước quyền một triều đại mà còn đem lại một vũ trụ quan, một nhân sinh quan mới trong đó có chỉ ra cách nhìn, cách viết về quá khứ theo đường lối phát triển của họ.

Nói đúng ra, ngay cả khi mất quyền cai trị đất nước, triều Nguyễn vẫn còn giữ được một dáng hình phụ trợ cần thiết với hệ thống vua quan, cả đến tận chức quyền xóm làng để có thể lưu giữ những cơ quan vô hại như Quốc sử quán, được tiếp tục làm công việc trong thầm lặng của mình. Các sách địa chí lịch sử đề xướng từ đầu đời, viết về thời gian còn chủ quyền, mãi đến gần cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX mới thấy đem ra in ấn chính thức, mà theo lối cũ, nghĩa là bằng bản văn chữ Hán, in mộc bản. Trong giai đoạn mất quyền thực sự của các đời cuối, vua quan gần như hết chuyện làm, đã cố vớt vát ghi thực lục trong vài mươi trang bản thảo lưu lạc chìm lấp, chỉ mới trở lại in, dịch trong thế kỉ XXI.



Dòng sử kí âm thầm, nuối tiếc ghi chép với một chút ấm ức đối với người cai trị mới đó, rõ ràng không đủ biểu hiện những biến chuyển đã xảy ra trên toàn đất nước trong cùng thời gian. Người Pháp đã đem lại một quan niệm mới về cách nhìn quá khứ của dân chúng trên phần đất họ chiếm được, ghi chép từ những sự việc vừa xảy ra, mới xảy ra cho đến việc tìm tòi đi sâu vào những mù mờ, tối tăm của lịch sử, đầu tiên là họ tự làm, nơi thường được gọi là Trường Viễn Ðông Bác Cổ đặt ở Hà Nội, và hội đoàn Les Amis du Vieux Hue nằm ở xứ Huế, hội Khảo Cổ Ðông Dương ở Sài Gòn. Người cai trị lo giữ gìn sự trị an, ép buộc dân chúng thuộc địa chuyển đổi theo cách cắt đứt quá khứ, bỏ chữ Hán thay bằng “quốc ngữ”, xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các thể chế xây dựng kinh tế, cai trị theo thời mới, từng bước chuyển đổi giáo dục... khiến dân Việt dù muốn hay không cũng phải đi vào sinh hoạt toàn cầu, dứt khoát không có đường trở về lối cũ. Người Pháp chưa phải quan tâm tới việc đào tạo một thế hệ sử quan mới, sử quan khoa học nhưng chính những thay đổi mang tính “cách mạng” (đổi đời) của chế độ thuộc địa cũng mang lại một lớp người nhiều sắc màu, có lúc nhìn về quá khứ dân tộc, đất nước theo cách phản kháng nhưng vẫn khuất lấp chấp nhận những ân huệ từ cung cách thay đổi đất nước của những người cầm quyền thực dân.



Cũng có thể kể trường hợp riêng biệt về Trương Vĩnh Ký như một sử gia Việt (tự do) đầu tiên nằm trong giao thời nhưng với những ồn ào tranh chấp nghiêng nhiều về tính chất chính trị, kèm cặp với thành phần tôn giáo của ông, khiến hình như chưa ai có nhận định kĩ xem quyển sử Việt viết bằng tiếng Pháp của ông đã mang tính chất gì trong dòng sử học chung. Theo kịp với cải cách giáo dục mới, nhà giáo Trần Trọng Kim đã nhanh chóng khai thác sử liệu cũ, mới tập họp thành quyển An Nam sử lược (1918) nhưng có vẻ lạc loài trong tình hình kiến thức chung, chứng tỏ là nó chỉ nổi bật trong quần chúng theo tên sửa lại Việt Nam sử lược đi theo với khuôn khổ chính trị mang tên Quốc gia Việt Nam của thời Hoàng đế Bảo Ðại trở lại chính trường. Tất nhiên là ta chưa nói đến những người được đào tạo chính danh về sau qua các trường Ðại học mở ở Hà Nội hay dạy du học sinh tại Pháp, đã trực tiếp đào tạo Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giáp... gián tiếp gây thành tựu cho một Hoàng Xuân Hãn. Nhưng một tinh thần khoa học mới thấm nhuần qua nền giáo dục cải cách cũng có tác động lên tầng lớp trí thức An Nam làm việc trong công quyền, chuyên môn hay không. Không những có một Nguyễn Văn Tố với vai trò trưởng ngành hành chính của Viễn Ðông Bác Cổ, vượt được công việc giấy má chắc là cồng kềnh nhàm chán, để tỏ bày thêm khả năng sửa chữa văn từ cho ông Việt trưởng mà còn thoát thân ra ngoài xã hội làm cây bút chính của tờ Tạp chí Tri Tân, nghiên cứu sử Việt phần lớn còn rụt rè theo những văn bản, thư sử cũ. Cả những người đến Trường Viễn Ðông Bác Cổ, thoảng qua so với thời gian lập nghiệp to lớn, như Phạm Quỳnh mà cũng thấy thâm nhập quan điểm mới để nghi ngờ rằng thời đại Hai Bà Trưng chắc không vĩ đại như hình ảnh “đầu voi phất ngọn cờ vàng” đi trả thù chồng, hùng dũng trong sử sách thơ ca hoà nhịp với những diễn tập ồn ào hàng năm ở các hội làng. Nhưng tất cả những người ấy sẽ lại trở thành những nạn nhân của một thời mới không thành hình của một đường hướng lịch sử khác, bắt nguồn từ tính chất bảo thủ truyền thống trong khu vực, mà lạ lùng thay, có sự đóng góp của những người cai trị thực dân đang muốn chuyển đổi truyền thống như đã thấy.



Khởi xướng đầu tiên là thành phần ưu tú chống đối chế độ thuộc địa. Lúc nào cũng cần phải có người cầm đầu nên phong trào Cần vương xuất hiện trong thời gian xung đột mất chủ quyền đầu tiên. Trước sức mạnh không chối cãi được của súng đạn, người ta không tin vào thế lực thế tục của chính mình nữa nên phải viện dẫn đến thần thánh. Ở cuối phần đất phương nam, thêm vào hình ảnh một ông Gia Long tẩu quốc / phục quốc có một ông Minh vương đuợc chờ đợi xuất thế, đôi khi dưới dạng ông Minh Mạng có chữ “minh”! Trên phần đồng bằng phía Bắc, người ta không cần đến dạng hình mơ hồ Minh vương, lại đang sẵn căm ghét một Minh Mạng “cấm quần không đáy”, gợi đến một triều đình với người khai sáng chiếm đất vua cũ của họ mà tội lỗi “cõng rắn cắn gà nhà” hiện hình ngay trong hiện tại với xác thân dòng dõi: “Ai về điện phủ hỏi Gia Long, Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông?” (Ngô Ðức Kế). Các nhà trí thức chống đối ở đây đã đi tìm đấng thiêng liêng ngay trong hình ảnh được ghi chép trên quyền sử độc nhất có thẩm quyền như đã nói. Và vua cũ đã xa đời, quá mờ mịt thì hình ảnh ông tổ đất nước, dân tộc càng đậm thêm nhiều thắm thiết, ước ao. 



Ðã nói đến cái lối nhìn Toàn thư như hình tượng chân thật của quá khứ chứ không phải như một chứng từ còn gây tranh luận, nay thêm với tình cảm thúc đẩy, người ta đã coi chuyện Ngô Sĩ Liên đem kỉ Hồng Bàng vào phần mở đầu lịch sử nước như một xác nhận không phải bàn cãi, quên rằng ông sử quan cũng có lúc ngờ vực, phân vân, thấy có quái đản nên nhắc câu Dĩ nghi truyền nghi, như bất cứ ông nho sĩ nào của thời đại ông, giống như đã bắt gặp luôn cả ở các ông sử quan Triều Tiên / Ðại Hàn khi họ nói về khởi thuỷ của đất nước mình. Cũng có việc biện minh về sự kiện “truyền miệng” để Ngô Sĩ Liên làm cớ che chắn nhưng câu chuyện Hồng bàng thị rõ là một thứ tập họp bát nháo, xáo trộn từ  những quyển sách gốc Trung Quốc, có tác giả, chỉ về một khu vực chẳng dính dáng gì đến lưu vực sông Hồng không dễ dàng di chuyển đến khi chưa có máy bay. Sách có căn cước sai lầm chỉ rõ được, không phải đợi đến một vài tác giả ngày nay bài bác để bị mắng chửi mà ngày xưa ông Ngô Thì Sĩ cũng thấy ra rồi! Nhưng không hề gì, còn có trong khu vực một cái đền của thủ lĩnh địa phương Tày Thái nào đó, nối kết tên Hùng Vương lẫn lộn Lạc Vương còn lưu vài dòng chữ của khoảng thế kỉ V, VI đủ để các nhà nho Việt thế kỉ XIV cho nối cánh tay dài lên đến tận hồ Ðộng Ðình, để lập một phả hệ cho đất nước, với tâm ý có lẽ như một sự tự hào trong sự tranh đoạt vai trò Trung tâm / Trung Quốc. Nhưng chút ít như thế cũng là đủ cho các nhà nho, các người chống đối chế độ thuộc địa viện dẫn thành ưu thế tinh thần trong cuộc chiến đấu bất cân xứng, mà với đương thời của họ cho thấy toát ra một chút hụt hơi tuyệt vọng... 



Sự cố gắng kêu gào đến quá khứ con Rồng cháu Tiên cũng đến tai người cầm quyền mới để, với sự tinh ranh quen thuộc của nhà chính trị, họ đem ra khai thác lấy lợi về phần mình. Ðã có cái quảng cáo Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Ðức tặc trong Thế chiến I, nhắc mãi về sau thành chứng cớ tội lỗi tầy đình cho một con người nổi tiếng. Và thật đúng,  những lối tuyên truyền vỗ về dân chúng như thế cũng mang lại hiệu quả là nguời Pháp đã giữ yên được thuộc địa Ðông Dương có khoảng 15 triệu người Việt, với chỉ vài ngàn quân trấn giữ, cùng một hệ thống hành chính xộc xệch vì đã mất nhiều cán bộ phải lâm chiến ở chính quốc. Hết chiến tranh, tuy ở phe thắng nhưng quyền lực vẫn mong manh, người Pháp lại phải o bế tiếp dân thuộc địa, và có vẻ vì thấy hiệu quả của món hàng con Rồng cháu Tiên, họ lại chăm chú khai thác tiếp. Họ để vua bù nhìn Khải Ðịnh vươn cánh tay dài ra đất Bắc, mang tiền của dồi dào tu sửa đền Hùng, dựng bia kỉ niệm, đặt mốc ngày tế hàng năm khiến cho một lễ hội mùa xuân co dãn trở thành có tính cách chính quy: ngày 10 tháng Ba, chọn lựa tình cờ trong khoảng mươi ngày hội lễ hàng năm ở đấy, sẽ mở đường cho sự thành hình cố định một Quốc lễ. Người ta đã thấy trong những năm 1920 sự thờ cúng Hùng Vương trên đất Bắc nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Sự phồn tạp của hình tượng đền đài phải dẫn đến một nội dung phong phú của đối tượng tế lễ. Cho nên có thể nói là các ông Hùng Vương xưa, với các thứ bực theo số lượng, trải qua đến cuối mùa Nguyễn vẫn chỉ có hai thuỵ hiệu Hùng Duệ Vương, Hùng Hiền Vương trên bia đá, chắc chắn là có đủ tên 18 ông ngay trong bản gốc Ngọc phả được sáng tác vào thời kì phục dựng này, trong hai hay ba dị bản mà người ta còn giữ để đem trưng dẫn trong các cuộc hội thảo ngày nay. Cho nên dù đã được Lê phong là Thánh tổ, ông thần đền Hùng đến giữa thế kỉ XX mới thâu lượm đủ uy thế quần chúng để làm mưa làm gió trong tiến trình tranh đấu cho nền độc lập thống nhất mới. Và chồng chất cho nền sử học nước nhà những hệ luỵ trên những vòng kim cô cũ nặng áp lực mới hơn.



Và một thời đại sử học khoa học nhiều ngáng trở



Tình hình chuyển biến trên thế giới đến mùa thu 1945 mở ra một nước Việt Nam độc lập, kéo dài phức tạp trong sự tranh chấp quyền hành với chính quyền cai trị cũ, với các phe phái trong ngoài. Tuy nhiên nước đã có thì việc nhìn lại quá khứ quốc gia dân tộc không phải chỉ bàng bạc trong tâm ý một số người mà còn được cố định bằng những cơ quan chuyên trách, nhất là khi đất nước Việt Nam độc lập, ngay từ lúc đầu đã nằm trong sự quản lí của một nhóm lãnh tụ đi theo một ý thức hệ không chừa cho một sự buông lỏng nào hết. Thế là mối tương quan giữa người làm lịch sử và người viết lịch sử trở lại theo chiều hướng xấu, càng lúc càng đem đến sự đổ vỡ không cơ cứu vãn cho một nền sử học khoa học vẫn phải len lách chật vật cho hợp thời đại.



Ðã thấy người Pháp, trong khi cai trị thuộc địa, mang đến một lề lối suy nghĩ theo hướng thực nghiệm, không phải chỉ lan toả dần bên trong đất nước mà còn có cơ hội mời gọi từ ngoài thế giới văn minh, qua sự trung gian của tiếng Pháp (trước khi là của tiếng Anh), giống như ngày xưa, qua văn tự Hán mà nhà nho Việt đã bước ra khỏi cổng làng mình. Ông Hoàng Xuân Hãn không tốt nghiệp một trường Ðại học Khoa học Xã hội Nhân văn nào hết mà viết được quyển Lý Thường Kiệt hẳn là từ cung cách thu nhận bài vở, lời giảng dạy trong ngôi trường không có thầy đồ bình văn và môn sinh ê a sách thánh hiền cũ. Mẫu hình làm việc cho sử Việt có thể tìm ngay trong các bài vở tiếng Pháp của nhân viên Viện Bác Cổ hay của Hội Ðô Thành Hiếu Cổ chẳng hạn. Rõ rệt hơn hết là trường hợp trưởng thành của học giả Ðào Duy Anh. Và ảnh hưởng không thú nhận từ các tên thực dân đáng căm ghét kia đã bàng bạc trong lớp người xây dựng nền sử học của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dù vẫn có những tiếp tay của thế giới xã hội chủ nghĩa đồng thời.



Chỉ vì trong giai đoạn đầu của thời kì giành độc lập, các cán bộ sử ăn lương nhà nước đã có cơ hội thực hành chuyên môn của mình ít gặp xáo trộn như ở những bộ phận khác. Tất nhiên khi tổ chức thành hình thì người cầm quyền cũng không chịu đánh mất sự hiện diện của mình, như đã thấy trong một vài bài mang hơi hướng chỉ dẫn đường lối của ý thức hệ mới. Nhưng có lẽ vì thực tiễn ở một nước thuộc địa khuất lấp không hề có trong đầu óc của các lãnh tụ khởi xướng mácxít, các đồ đệ ở xứ tư bản cũng chưa kịp định hình để khai thác loại lí thuyết Phương thức sản xuất châu Á cổ đại chẳng hạn, còn các nhà macxít Trung Hoa thì cũng chưa nghĩ ra cách thức Hoa hoá lí thuyết cộng sản, nên chuyện vạch ra một đường lối sử học xã hội chủ nghĩa cho lớp người mới đào tạo ở Việt Nam có lẽ chỉ dừng lại nhiều ở các cuộc họp hành đảng bộ hoặc đoàn thể mà thôi. Vả lại thời thế còn dành chỗ khá rộng cho các nhà nghiên cứu mới có công ăn việc làm với đề tài trước mắt về công cuộc chống ngoại xâm xưa và nay, và đi xa hơn, hứa hẹn mang nhiều hãnh diện là khai thác vấn đề nguồn gốc dân tộc tiếp theo công trình của học giả Viễn Ðông Bác Cổ. 



Và đến đây thì có sự hội nhập với quá khứ, để truyền thống được tân trang bằng khoa học, một ngành khoa học thực nghiệm mới: khoa khảo cổ học. Ngành mới, người mới thật dễ dàng cho một sinh hoạt gây nhiều tự tín và nhà nước đổ tiền của, vun bồi khuyến khích cũng không thấy phải uổng công. Kết quả là một tập họp bốn tập Hùng Vương dựng nước ra đời làm căn cứ cho niềm tự tin về một quá khứ lâu đời của quốc gia dân tộc, mang chứng cớ vật chất dồi dào qua những giai đoạn văn hoá có tên Ðông Sơn, Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun tạo hấp dẫn cả trên phần đất phía Nam đang đắm chìm trong khói lửa. Dù ngay đương thời các công trình đó cũng đã lộ ra những sơ hở, rồi về sau xuất hiện sai sót càng nhiều nhưng quan điểm thành hình về một ông vua Hùng thời cổ đại được chứng minh, đã trở thành “di sản thiêng liêng của dân tộc”,  nói như một quan chức sử học đương thời (Phạm Huy Thông 1985) “không cho phép ai lấy danh nghĩa khoa học mà phát ngôn tuỳ tiện”. Chỉ có trong riêng tư người ta mới xì xầm về những kết quả giả tạo của đường hướng sử học mới, mang những lấn át, có khi trấn áp thô bạo đối với những ý kiến khác biệt.



Có điều khó thật khó chấp nhận với nhiều người ngày nay, là sử Việt thật nghèo nàn tài liệu để có thể kéo dài một bộ thông sử từ một tập của Trần Trọng Kim ra hai tập của Việt Nam DCCH thế kỉ XX, ba tập của CHXHCN Việt Nam đầu thế kỉ XXI, với dự tính 15 tập chưa thực hiện đủ ở thập niên trước và 24 tập, nhất định hoàn thành theo tuyên bố mới đây (BBC 15-2-2014). Ít tài liệu không phải chỉ là lời nhận định bi quan của triết gia Kim Ðịnh. Ít tài liệu mà không thể dừng lại việc “bàn sử” thì phải kéo dài nó ra, “vẽ” thêm tài liệu mà khôn ngoan che giấu bằng luận thuyết, gọi là sử dụng “huyền sử”. Ðúng ra thì cũng không có gì sai sót nặng nề ở ông linh mục triết gia này nếu ông vẫn dừng lại bên mép bờ huyền sử như ông đã quen với các hình ảnh ẩn dụ trong sách Cựu ước của ông để “lâu lâu nói chơi cho vui” với các nhân vật huyền sử Việt, hay đẩy đưa tìm tòi về một nền tảng uyên áo nào đó trong lề lối suy nghĩ của người dân cùng tổ quốc với ông. Có điều những biến động mang tính toàn cầu dồn dập xảy ra trên đất nước đã tạo ra ảo tưởng quá phận về những ý tưởng bất chợt lại tìm được quần chúng, khiến cho kết luận “Việt vào Tàu trước” của ông đã mở đường cho những khai thác được gọi là sử học có thể nhìn theo hai hướng. Một hướng của những kẻ liều lĩnh, nói huyên thiên, không cần chứng minh, “không chịu trói mình vào văn bản” – “có thế mới gọi là huyền sử”, viện dẫn những bằng chứng do nghe ngóng, càng cao cấp càng tốt, càng dễ đem ra hù doạ, phát xuất từ những kẻ tìm cách chòi đạp để hiện diện bên cạnh những người có đôi chút tiếng tăm. Cung cách ăn nói mạnh bạo, hùng hổ đòi san bằng, xoá bỏ toàn bộ kiến thức cũ để đem đến một thứ Copernic mới, tuy chỉ là một lối ghép-chữ của những người Cứ tưởng biết được chữ là viết được sử, nhưng vì có ẩn giấu một thứ mặc cảm bị trị chống thực dân vẫn còn bị chèn ép nên những bài vở loại này cũng được xuất hiện cả trên những đối đáp học thuật được nhún nhường trước, gọi là “trao đổi”, “phản biện”. Hướng thứ hai của những người kín đáo hơn -- để khiến có kẻ phải lên tiếng chỉ trích, tố cáo -- nhằm khai thác đại loại những thứ “Việt lí tố nguyên” trong lí số tử vi, trong khái niệm âm dương, Dịch lí để tìm ra, ví dụ tính chất “trọng âm”, “âm tính” trong văn hoá người Việt, hay chuyển qua loại đề tài Bách Việt, luồn những Viêm Ðế, Xi Vưu, Câu Tiễn, Triệu Ðà... dưới dạng hình map-Google tân thời. 



Phải chịu dừng lại ở “huyền sử” vì Kim Ðịnh chỉ là một ông thầy giáo của phần nửa phía nam Việt Nam, nơi cũng nhận được phần truyền đạt mơ hồ lãng mạn về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên, hay vừa mới cụ thể hoá bằng câu “ca dao”: Mồng mười tháng Ba... từ nhóm người di cư đầy quyền lực quần chúng mang vào sau năm 1954. Tiếp theo, đối với tập đoàn chiến thắng 1975 gồm những người từng khai thác hiệu quả khẩu hiệu “4000 năm giữ nước và dựng nước” và lớp người kế tiếp xuất thân đồng quê, tách biệt đến vài thế hệ với quan niệm về chứng nghiệm khoa học của thế giới mới, đối với những người này, huyền sử là sự thật lịch sử không còn phải phân vân gì nữa. “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc. Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha...” Câu nói gây phản ứng ồn ào của Ðỗ Ngọc Bích (17-10-2010) không phải chỉ là lời thất thố vụng dại mà rõ ra là được un đúc từ sinh hoạt cổ sử đã trở thành bình thường trong nước, trong đó dấu ấn địa danh Trung Quốc (Ngũ Lĩnh, Ðộng Ðình), nhân danh anh/em Ðế Nghi / Lộc Tục của Hồng Bàng thị đã thấm vào tận tâm ý nhà khoa bảng. 



Hướng vọng xã hội chủ nghĩa cụt đường cũng mở lối cho ý định tìm một căn bản sâu thẳm nhằm kết tập toàn thể dân chúng dưới tay. Thế là có sự chuyển hướng chính sách của Ðảng, của Nhà nước nhắm vào việc phục hồi “có chọn lọc” các giá trị truyền thống, công nhận những lễ hội trong đó có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Những xây cất dồn dập tạo cơ sở vật chất để quyết định năm 2007 của Quốc hội CHXHCN VN mang tính chính thống mới đối với dân nước, tiếp theo bằng sự chuẩn nhận Lễ hội của quốc tế năm 2013, đóng thêm dấu ấn quyền lực trên sử gia thời mới về một vấn đề sử học vốn thuộc về quá khứ mà theo họ, vẫn phải chỉ được nhìn theo hướng chứng nghiệm đã qua mà thôi.



Những người làm lịch sử hiện tại như thế đã tạo được, không biết kéo dài trong bao lâu, mối tin tưởng vế một lịch sử thần thuyết của dân tộc để trang bị cho một chủ nghĩa huyết thống tập thể cần thiết cho sự cai trị dân nước dưới tay. Lí thuyết đó có quyền lực chính trị bên trên, có sự ủng hộ của quần chúng bên dưới vẫn mang tâm hồn nhiều thế kỉ truớc, không cần và cũng không màng đến một sự biện biệt nghiêm túc. Tất nhiên chính quyền cũng thấy cần có những lí thuyết gia để, trước hết là phải đánh bạt các quan điểm cũ, mới nâng cấp được hệ thống thần thuyết của mình. Nhưng bởi tính chất của một đất nước đắm chìm lâu dài vào một nền văn chương rổn rảng, mớ triết lí thu thập ở mức trung bình, với những người chưa từng nghe đến tinh thần thực nghiệm, vẫn hiểu sử như lúc đang bàn sử, nên các trí thức này, hoặc thốt ra những lời bài bác thô lỗ cục cằn, hoặc ba hoa những lí thuyết lạc đề sử sự. Nghe họ nói, viết thấy cứ như người lên đồng trên giảng đường, trước đám quần chúng vô danh trong những cuộc mit tinh chính trị, hay ở tập họp quần chúng vô hình thời đại internet. Không hề gì, họ vẫn hiện diện, đầy uy thế.



Lấy ra ví dụ cụ thể về một vấn đề sử học, vấn đề nguồn gốc dân tộc như thế, với tình trạng những người không chuyên môn đòi dạy dỗ chuyên viên khi họ xúm lại mắng mỏ Trần Trọng Dương, hay cao ngạo lấn lướt các sử gia im tiếng khác qua khúc đoạn Kinh Dương Vương của nhà Hán Nôm, mới thấy được áp lực trùng trùng của những kim cô quyền lực trong quá khứ đối với sử gia đã không nhẹ bớt đi mà còn gần như bít hẳn con đường phát triển của một nền sử học khoa học hằng mong ước. 



Có bi quan hay không thì đó cũng là hiện trạng không thể che giấu trên đất nước này, trong thời đại bây giờ.



Garden Grove 11-3-2014



Xin Kính chào Quý vị.