| ||||||||||
|
Friday 13 June 2014
Chỉ thị của Ban Bí thư số 24-CT/TW - Ngày 10 tháng 6 nǎm 1955 "Về chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng giảm tô ở vùng mới giải phóng" (Lê Văn Lương - Đảng Cộng Sản)
Thursday 12 June 2014
Biệt cách dù hay biệt động quân?
Sách Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước tập 7 (đại tá, PGS TS Hồ Khang chủ biên,
Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2007:136) ghi:
Ngày 17-4, đối
phương đổ thêm Lữ đoàn dù 1 và Liên đoàn biệt động 81 xuống khu vực Núi
Gió (đông bắc thị xã) đánh vào sau đội
hình của quân ta, giải tỏa áp lực xung quanh thị xã.
Tuesday 10 June 2014
Báo cáo tình hình Nam Bộ năm 1950 (Văn Kiện Đảng Toàn Tập - Tập 11 (1950))
|
Tuesday 3 June 2014
Đặng Thai Mai: Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ
Đặng Thai Mai: Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ
GS Đặng Thai Mai |
Tháng 8-1945, tôi bị đau dạ dày nặng, phải nằm tại Sầm Sơn, Thanh Hoá. Mấy ngày trước khi cướp chính quyền ở Hà Nội, một số người bạn vào nói công việc phải chuẩn bị và muốn tôi ra ngay.
Tôi định ra Hà Nội. Trên đường từ Sầm Sơn về Thanh Hoá, khi đi qua một sân bay cũ mà bọn Nhật đang sử dụng, tôi thấy một tên tướng Nhật cùng quân lính đang tập hợp ở đấy. Hình như chúng đang đốt một lá cờ. Khi tới bệnh viện Thanh Hoá, tôi bị giữ lại nằm viện.
Tôi định ra Hà Nội. Trên đường từ Sầm Sơn về Thanh Hoá, khi đi qua một sân bay cũ mà bọn Nhật đang sử dụng, tôi thấy một tên tướng Nhật cùng quân lính đang tập hợp ở đấy. Hình như chúng đang đốt một lá cờ. Khi tới bệnh viện Thanh Hoá, tôi bị giữ lại nằm viện.
Cuối tháng 8-1945, tôi mới ra Hà Nội. Đến Hà Nội, các bác sĩ lại bắt nằm bệnh viện, chưa được làm việc ngay.
Một hôm, tôi nghe tin Bác về. Lúc bấy giờ, tôi đã biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, vì hôm trước, khi anh Hà Huy Giáp đi qua Thanh Hoá, đã có người chắn đường lại hỏi:
- Hồ Chí Minh là ai?
Anh Giáp trả lời:
- Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Mấy hôm sau tôi được vào gặp Bác. Hôm đó là ngày 4-9-1945. Tôi đến gặp Bác ở phòng khách của Bắc Bộ phủ. Trong phòng có bàn làm việc và một bộ xa-lông. Tôi đi vào, kính cẩn và rón rén. Bác nhanh nhẹn bước ra, tươi cười bảo tôi lại ngồi ở bộ xa-lông. Bác nói:
- Bác bận lắm, chỉ gặp chú được một lát thôi.
Khi uống nước, Bác hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện ông nội tôi bị đi tù, đến những năm cuối đời mới được tha; chuyện ông tôi ở Côn Lôn về được bao lâu? Bà nội tôi mất năm nào?...
Sau đó, Bác kể chuyện chú tôi là ông Đặng Thúc Hứa, lúc bấy giờ gọi là ông Hai Cày (ở bên Xiêm). Bác nói với tôi:
- Chú yếu lắm, phải lo mà chữa bệnh. Khỏe rồi ra giúp nước.
Tôi chào Bác ra về. Chiều hôm đó có rất nhiều nhà văn đến gặp tôi và hỏi:
- Anh gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm tưởng đầu tiên của anh như thế nào?
Tôi trả lời:
- Khó mà nói được cảm tưởng của mình, nếu như chỉ dùng một chữ để tóm tắt cảm giác của tôi thì phải dùng một chữ Pháp "Humain", có nghĩa theo quan niệm của tôi"Một con người rất thấu con người, thương người. Mục đích làm việc là làm thế nào cho con người được sung sướng hơn".
Tôi cũng nhắc lại với các bạn tôi là:
- Bác nói công việc ban đầu đang còn khó khăn, phải cố gắng nhiều. Cướp chính quyền mới là bước đầu. Bây giờ làm thế nào để củng cố chính quyền cho tốt. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Phải xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Nếu bỏ lỡ cơ hội này là trách nhiệm của cả một thế hệ.
Tôi rất sung sướng khi các bạn văn tỏ ý tán thành ý kiến đó. Nhiều tuần lễ sau, các bạn ở các tỉnh khác cũng như ở Hà Nội vẫn còn hỏi tôi về ấn tượng buổi ban đầu được gặp Bác. Tôi nhắc lại câu nói hôm đầu tiên. Và tôi còn nói thêm với họ là:
- Theo tôi nghĩ "Nếu ông Hồ Chí Minh mà không làm xong việc thì không có người Việt Nam nào làm xong việc".
Tôi nói câu ấy vì lần gặp Bác vừa rồi tôi có nói, đại ý là: Không chỉ nhân dân Nghệ Tĩnh tin tưởng vào Bác, mà bây giờ cả nước đều tin tưởng Bác và ai ai cũng nói, có Bác thì sự nghiệp của các lớp tiền bối lần này có thể thành sự thực.
Hôm đó Bác nói:
- Vấn đề không phải chỉ tin vào một con người, mà phải tin vào Đảng. Chú đã đọc Mác, Mác nói: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".
Tôi nói với các bạn:
- Đành rằng sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, nhưng cũng cần có một người chỉ đường cho mà đi.
Tất nhiên, các bạn tôi tin rằng người đó là Hồ Chí Minh.
Sau đó Bác gọi tôi vào. Thấy sức khoẻ của tôi đã khá hơn, Bác bảo tôi tham gia vào Ban dự thảo "Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Tôi hết sức bỡ ngỡ vì từ trước tới nay tôi chưa hề quan tâm tới vấn đề này bao giờ. Tuy nhiên khi học lịch sử thế giới và theo dõi tình hình cách mạng Liên Xô, tôi cũng biết một ít về bản Hiến pháp của Anh. Tôi cũng đã đọc một số điểm chính trong bản Hiến pháp của Pháp năm 1789 và Hiến pháp đầu tiên của Liên Xô năm 1936. Những người được cử vào Ban dự thảo Hiến pháp hình như có cố vấn Vĩnh Thụy, cụ Vũ Đình Hoè và Nguyễn Đình Thi, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh.
Hôm đầu tiên Bác chủ tọa cuộc họp, buổi trưa Bác giữ tôi và cố vấn Vĩnh Thụy ở lại cùng ăn cơm tại Bắc Bộ phủ. Bữa cơm hôm đó rất đạm bạc.
Mấy tuần sau, chúng tôi hoàn thành bản sơ thảo. Khi trình bày Bác hỏi:
- Các chú có ai thắc mắc gì không?
Tôi cười và thưa với Bác:
- Không biết chúng ta ban bố quyền bầu cử cho toàn dân có sớm quá không? Dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%.
Bác cười, giơ ngón tay chỉ vào tôi và nói:
- Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại phản động đấy, người cách mạng trước hết phải tin vào nhân dân.
Câu nói đó đối với tôi mãi mãi là một bài học vô cùng thấm thía, vả lại kết quả cuộc bầu cử ngày 6-1-1946 là một sự xác nhận hết sức hùng hồn đối với tôi.
GS Đặng Thai Mai đứng thứ 2 (trái qua) trong lễ ra mắt chính phủ liên hiệp kháng chiến ngày 2/3/1946 |
☼☼☼
Khoảng cuối năm 1945, đầu năm 1946, tôi có nhiều dịp được vào gặp Bác để bàn công việc. Có nhiều câu chuyện nhỏ nhưng lại rất có ý nghĩa, vì lúc này Chính phủ ta đang phải đối phó với tình hình hết sức khó khăn về đối nội cũng như đối ngoại. Tôi còn nhớ, một hôm có anh bạn vào thưa với Bác:
- Cháu nghe nói phái đoàn Liên Xô đã đến Trùng Khánh và sắp sang thăm Hà Nội, có lẽ chúng ta cũng nên chuẩn bị đón tiếp.
Bác cười trả lời:
- Thì cứ để cho họ sang xem thế nào, sao không nghĩ rằng đó là "tin vịt" do bọn Tây hay Tàu tung ra.
Một lần khác, trong khóa đào tạo cán bộ cấp tốc ở Hà Nội, thỉnh thoảng Bác đến nói chuyện. Hôm bế mạc, Bác đến thăm và trả lời một số câu hỏi của học viên. Sau khi giải đáp các thắc mắc, Bác nói:
- Bây giờ còn một đồng chí hỏi: "Cần, kiệm, liêm, chính, nghe có vẻ cổ hủ quá"?
Bác nói:
- Không đâu? Cơm thì bao giờ người ta cũng phải ăn, nước bao giờ cũng phải uống, vấn đề là phải ăn, uống sao cho sạch sẽ.
Và có đồng chí hỏi:
- Liên Xô có giúp chúng ta không?
Tôi hỏi lại đồng chí:
- Trong thời kỳ Liên Xô chống Hít-le, đồng chí có giúp gì Liên Xô không?
Trong khóa họp Quốc hội đầu tiên có một vấn đề gây nhiều tranh luận. Đó là bọn Việt Cách và Việt Quốc nêu lên việc sửa Quốc kỳ và Quốc ca. Vấn đề được bàn cãi khá lâu trong các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, đã đến lúc phải đưa ra trao đổi. Hôm đó, trước giờ Quốc hội bế mạc, Bác đứng dậy, cầm lá cờ, mở ra và nói với các đại biểu, đại ý:
- Lá cờ này đã đi gần như khắp thế giới, nó tượng trưng cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Không ai có thể đặt vấn đề sửa Quốc kỳ.
Sau khi Bác nói toàn thể đại biểu Quốc hội đứng dậy vỗ tay hoan hô, rồi hát Quốc ca. Các ngài Việt Cách, Việt Quốc cũng phải đứng dậy làm theo mọi người.
Khoảng tháng 4 hay tháng 5-1946, Đảng ta mua một tòa nhà của một bác sĩ người Pháp, tên là Ma-xi-a. Ngôi biệt thự này lúc bấy giờ gọi là Liên Trang. Gia đình tôi được dọn về đây ở. Thường thường vào các buổi chiều thứ 7, Bác hay về đây nghỉ. Đây cũng là nơi thỉnh thoảng Bác họp cùng với các đồng chí Trung ương Đảng và tiếp khách. Có hôm Bác gọi tôi cùng đi xe từ Bắc Bộ phủ về Liên Trang. Trên đường đi, tôi hỏi Bác về một vài câu chuyện trong thời gian Bác chưa sang Pháp, Bác chỉ cười và nói:
- Chú định điều tra lý lịch của mình phải không?
Bình thường khi về tới nhà, bao giờ Bác cũng xuống bếp xem người nhà làm cơm và bắt tay mọi người, rồi mới lên phòng làm việc. Buổi tối Bác thức rất khuya. Nhiều hôm đã 11, 12 giờ đêm rồi mà Bác vẫn còn đọc báo, báo cáo và viết chỉ thị, viết thư để hôm sau cho đánh máy. Một lần cùng đi với Bác và tôi về Liên Trang có một người Mỹ tên là Pát-ti. Trên xe, Pát-ti nhắc lại với tôi một câu, mà khi ấy người ta nói với các đồng chí Việt Nam:
- Thế là chiến tranh đã kết thúc đối với chúng tôi. Nhưng đối với các ông, chiến tranh bây giờ mới bắt đầu đấy.
Một lần đi qua phố Hàng Đẫy, con đường này hồi đó còn nhiều quãng trống, chưa xây nhà gạch như bây giờ. Từ trên đường đi, người ta có thể nhìn thấy một số ao, hồ. Trên bờ hồ trẻ em vui chơi, phụ nữ giặt giũ, còn các cụ già ngồi câu cá.
Một hôm, Bác chỉ vào một cụ già đang ngồi câu cá và nói với tôi:
- Thật tình, mình chỉ mong sao việc nước sắp xếp được ổn thỏa, rồi về ngồi trên một hòn đá như ông già câu cá ấy là mình rất vui rồi.
Câu nói của Bác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ đối với người nghe có thể nói là cám cảnh vì hồi này bọn Việt quốc, Việt cách đang tìm mọi cách tung tin là có người này, người kia tham quyền cố vị, thậm chí chúng còn dùng đến từ bán nước.
Tôi đã nghĩ đến câu chuyện về các danh nhân Hy Lạp, La Mã, những anh hùng chí sỹ chỉ mong sao cho việc nước chóng thành để có thể về quê sống với người nông dân, được tự do đi săn bắn và câu cá ở những năm cuối của cuộc đời, một cuộc sống thanh thản.
Đặng Thai Mai: "Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ"
in trong cuốn hồi ký Bác Hồ sống mãi với chúng ta
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, trang 25-26.
Monday 2 June 2014
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Thủy Nguyên - Hải Phòng (VTC - Đài Phát Thanh Thủy Nguyên)
| ||||||||||
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Thủy Nguyên - Hải Phòng | ||||||||||
14/05/2013 - 08:40 | ||||||||||
Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam ở thế kỷ 20, nhắc đến các vụ thảm sát, người ta thường nghĩ ngay đến vụ thảm sát Mỹ Lai (huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). Ít người biết rằng, tại xã Hoàng Hoa (Thủy Nguyên, Hải Phòng) cũng từng có một vụ thảm sát do thực dân Pháp gây ra, kinh hoàng không kém vụ Mỹ Lai.
* Xác chết ngập hồ
109 người trong một vùng đất đã bị giặc giết bằng súng ống, lưỡi lê. Nhưng một người trong số đó đã may mắn sống sót với vô số vết thương trên người. Hơn 60 năm trôi qua, ký ức kinh hoàng vẫn đau nhói trong tim. Ông là Nguyễn Kiểm, nhân chứng sống của vụ thảm sát kinh hoàng nhất lịch sử Hải Phòng.
Bên con đường nhỏ, cạnh chợ Lâm, thuộc xã Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), có một cái hồ nhỏ, nước lặng như tờ, hàng cây cổ thụ đổ bóng. Người dân trong vùng gọi đó là hồ Lâm.
Giữa hồ Lâm có một đài tưởng niệm xây hình trụ với 4 mặt. Một chiếc cầu cong dẫn ra đài tưởng niệm. Một mặt có dòng chữ: “Đời đời ghi sâu căm thù đế quốc”, mặt đối diện là con số khô khốc: 108.
Những người lần đầu đến đây, đều không hiểu được vì sao lại có con số đó ghi trên đài tưởng niệm. Nhưng với người dân trong vùng, thì đó là con số đau thương, con số in đậm vào tâm trí những người lớn tuổi, những người từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Bên cạnh bờ hồ có một tấm bia đầy nước mắt, ghi danh 108 con người đã bị sát hại trong 2 ngày đen tối, là ngày 13 và 14 tháng 2-1949. Hầu hết tên tuổi trên tấm bia đều là dân thường. Chỉ có 3 liệt sĩ, thì có 2 liệt sĩ là vô danh. Đây là hai chiến sĩ cách mạng xâm nhập vào làng để chiến đấu với giặc và đã hy sinh mà không để lại tên tuổi.
Phần lớn những người bị sát hại ở các thôn như: Lôi Động, Hoàng Pha, thôn Xú, thôn Đền, thôn Bính, thuộc xã Hoàng Hoa ngày xưa.
Thi thoảng, người dân nơi đây lại thấy một ông già dáng đi lòng khòng, chậm chạp, ngồi rất lâu dưới bóng cây si già bên hồ Lâm. Ông ngồi trầm ngâm bên hồ và rất ít nói. Ông bảo, cứ mỗi khi ký ức sống dậy, ông lại muốn ra hồ Lâm. Ông ngồi đây “tâm sự” với những người đã khuất trong ngày kinh hoàng 60 năm trước. 108 người chết, chỉ có mình ông còn sống. Chỉ có những người già, những người đã trải qua kháng chiến chống Pháp mới biết đó là ông Nguyễn Kiểm.
Ông Nguyễn Kiểm, sinh năm 1931, hiện đang sống ở xã Hoa Động, là người duy nhất còn sống trong vụ thảm sát 60 năm về trước ở xã Hoàng Hoa. Ông Kiểm sống với ký ước nhiều hơn là hiện tại. Đã 60 năm trôi qua, nỗi đau tinh thần và thể xác vẫn dày vò ông. Những ngày trở trời, thay đổi thời tiết đột ngột, cái cơ thể vốn đã ốm yếu, gày gò của ông lại co giật vì những cơn đau hành hạ.
Hỏi lại chuyện xưa, ông vén áo lên, tôi thấy rõ ràng những di chứng khủng khiếp của chiến tranh: một bên ngực bẹp lép của trận đòn tra tấn và 11 vết sẹo dao đâm trên khắp cơ thể.
Ông Kiểm lần giở lại cuốn lịch thế kỷ 20 cũ mèm, mở những trang có dấu bút khoanh tròn ngày tháng và ký ức cứ cuồn cuộn hiện về...
Xã Hoàng Hoa được thành lập sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Khi đó, xã Hoàng Hoa rất rộng, gồm gồm 3 xã bây giờ là Hoa Động, Hoàng Động, Lâm Động.
Xã Hoàng Hoa nằm ngay bên bờ sông Cấm, bên kia là TP Hải Phòng, nên vùng đất này là vị trí chiến lược, là bàn đạp để tấn công về trung tâm thành phố. Chính vì thế, địa bàn xã Hoàng Hoa thường có vài đơn vị bộ đội đóng quân ở đây.
Nắm được vị trí quan trọng của Thủy Nguyên, nên tháng 2-1947, thực dân Pháp từ Hải Phòng vượt sông đánh chiếm Thủy Nguyên. Chúng lập tề, lùng sục bắn giết cán bộ, dân quân du kích. Chính quyền của ta còn non trẻ, lực lượng lại yếu, nên rút vào hoạt động bí mật, hoặc chuyển cơ sở về vùng núi non hiểm trở, thậm chí tận vùng Kinh Môn (Hải Dương).
Theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 25-10-1948, Ban chấp hành Đảng bộ Thủy Nguyên họp, phát động phong trào phá tề, trừ gian, với chỉ thị: "Tiến công đồn giặc, trừ gian diệt ác, phát động chiến tranh du kích".
Lực lượng du kích xã Hoàng Hoa được thành lập bí mật. Khi đó, ông Kiểm mới 18 tuổi, được phân về Tiểu đội 1, do đồng chí Đồng Xuân Băng làm Tiểu đội trưởng, thuộc Trung đội Trung Kiên, đại đội Lê Lợi.
Các đơn vị du kích địa phương đã tổ chức một số trận đánh, tấn công bốt địch, song không tiêu diệt được địch, vì lực lượng quá mỏng, vũ khí rất thô sơ. Để khuấy động phong trào trong dân chúng, du kích đã cắm cờ lên ngọn đa đầu làng để biểu dương lực lượng.
Để trấn áp sự quấy nhiễu của lực lượng du kích, đêm 30 và 31-10-1948, giặc Pháp tổ chức càn quét. Sau khi đánh lui lực lượng du kích, chúng đã điên cuồng cướp phá, đốt sạch nhà cửa ở hai thôn đầu xã.
Một tên thiếu úy đi sâu vào làng, tóm được đồng chí nữ du kích Đồng Thị Xuân. Khi tên này đang đẩy đồng chí Xuân đi, ông Nguyễn Văn Nhạc phục kích sau bụi tre đã ném lựu đạn. Tuy nhiên, lựu đạn mắc trên bụi tre và phát nổ. Tên thiếu úy thấy bị tấn công, liền bỏ chạy, nữ du kích cũng tẩu thoát. Nghe tiếng lựu đạn, sợ quân ta tấn công, nên bọn Pháp đã không tiếp tục lùng sục, đốt phá nữa mà rút quân luôn.
Ngày 11-2-1949, 3 tên lính Âu - Phi đóng ở đồn Mặt Nguyệt vác súng ống vượt sông vào xã cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ ở xóm Vạn Hoa. Tiểu đội du kích của đồng chí Doanh được lệnh truy bắt chúng để khai thác thông tin. Tuy nhiên, bọn chúng đã chống trả quyết liệt, nên đồng chí Doanh đã bắn chết một tên khi hắn đang bơi dưới sông, bắt sống một tên, còn một tên chạy thoát. Tên bị bắt sống được giải về xã Hợp Thành. Hôm sau, tức ngày 12-2, thực dân Pháp tổ chức lực lượng, chia thành nhiều mũi bao vây càn quét Hợp Thành và cứu sống được tên này.
Khoảng 4h sáng 16-2, khi đang gác ở chốt, ông Kiểm nghe thấy tiếng ca nô chạy dọc sông Cấm từ phía Hải Phòng lên. Khi đến bến Lâm thì tiếng ca nô nhỏ dần rồi tắt hẳn. Chừng 10 phút sau, 3 tiếng súng cạc-bin vang lên. Thấy lạ, ông Kiểm gọi Tiểu đội trưởng Đồng Xuân Băng dậy để báo cáo tình hình. Đồng chí Băng tổ chức lực lượng để phục kích tiêu diệt địch. Ông Kiểm được phân công đi trinh sát ở xóm Đông thuộc làng Lâm để xem xét tình hình.
Tại xóm Đông, một tiểu đoàn 800 tên, gồm lính Pháp, Âu - Phi và ngụy dưới sự chỉ huy của hai tên quan hai, một tên ở Hải Phòng, một tên ở thị trấn Núi Đèo, đang càn quét trong xóm, dân chúng chạy tán loạn. Lực lượng du kích của xã tập hợp phục kích hai bên đường, chờ địch vào để tiêu diệt.
8h sáng, địch càn đến Lâm Động. Nhìn đâu cũng thấy quân địch với súng ống tua tủa, hỏa lực rất mạch. Quân ta chỉ có 3 tiểu đội du kích, mỗi tiểu đội có 2 khẩu súng trường cùng vài quả mìn muỗi, còn lại toàn dao kiếm, mã tấu. So sánh lực lượng thấy quá chênh lệch nên đồng chí Băng ra lệnh tạm thời phân tán xuống hầm.
Tuy nhiên, trước đó vài hôm, Thủy Nguyên mưa trắng trời, nước ngập khắp nơi, ngập hết cả hầm, nên mạnh ai người ấy chạy. Địch tiến vào Hoàng Hoa bằng 6 mũi, bao vây khắp ngả nên rất nhiều đồng chí bị bắt trên đường rút.
Đồng chí Tửu cùng ông Kiểm chui vào một chiếc hầm nổi, giữa đống gạch ở nhà ông Tài Hanh, xóm Đông, song cũng không thoát được. Chúng lùng sục từ trong nhà ngoài ngõ, trong vườn ngoài ruộng, chọc thuốn sắt xuống từng mét đất, lôi hết cả trẻ em lẫn cụ già từ dưới hầm lên tra khảo.
* Tổng cộng thằng Tây trắng này đâm ông Kiểm 11 nhát dao chí tử. Thấy người du kích không còn động đậy, máu chảy thành vũng, nhuộm đỏ cơ thể, chúng tưởng ông chết rồi nên bỏ đi.
Giặc Pháp điên cuồng lùng sục truy tìm các chiến sĩ cách mạng và du kích địa phương trên địa bàn xã Hoàng Hoa (Thủy Nguyên, Hải Phòng). Chúng đã phát hiện ra hầm và tóm được ông Nguyễn Kiểm và ông Tửu. Trẻ em, người già, phụ nữ chúng cũng bắt hết để tra khảo.
Một nhóm làm nhiệm vụ tra khảo ông Kiểm, một nhóm tra khảo ông Tửu. Chúng tách hai ông ra hai chỗ khác nhau để tra tấn nhằm kiểm chứng lời khai.
Nhóm lính da đen và da trắng thay nhau đấm đá, dùng đao xẻo da thịt ông Tửu, song cũng không cạy được nửa lời. Biết không khuất phục được ông Tửu, chúng dìm ông xuống một chiếc hầm ngập nước khiến ông chết ngạt.
Ông Kiểm vẫn đau lòng khi nhớ lại cảnh thảm sát hơn 60 năm trước
Cũng như ông Tửu, ông Kiểm chỉ nói mỗi hai từ “không biết”. Tên lính da đen thể hiện sức mạnh trâu bò bằng cách dùng đầu húc mạnh vào ngực ông Kiểm. Ông Kiểm chỉ nghe thấy tiếng “cục” rồi xỉu luôn. Cú húc đầu của hắn mạnh đến nỗi làm gãy 2 xương sườn, bẹp xương ngực. Dấu tích vết thương vẫn còn đến ngày hôm nay. Ông Kiểm kéo áo để tôi thấy ngực ông bên to, bên nhỏ.
Nhóm lính chờ ông Kiểm tỉnh dậy, lại tiếp tục đánh đập. Chúng thi nhau đấm đá, thúc mũi giày nhọn, thọc báng súng vào vết thương ở ngực, khiến ông hộc máu mồm, máu mũi. Không khai thác được gì từ ông Kiểm, chúng quẳng ông ra góc sân đình Cả để tên quan hai xử. Mấy đồng chí bộ đội và du kích địa phương cũng bị chúng đánh đập dã man, trói giật cánh khuỷu, máu me đỏ lòm ở miệng, mũi, nằm còng queo ở góc sân đình.
Đài tưởng niệm vụ thảm sát đặt cạnh hồ Lâm
Tại đình Cả, ông Kiểm được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng kinh hoàng, sự tàn ác không tưởng tượng nổi của bọn thực dân. Tên quan hai ngồi trên một chiếc ghế trên thềm đình Cả, phía dưới sân là hơn trăm người.
Bọn lính Pháp dắt từng người đến trước mặt tên quan hai, rồi bịt mắt họ lại. Tên quan hai chỉ hỏi đúng một câu: “Súng và cán bộ ở đâu?”. Người lắc đầu, người bảo “không biết”. Lập tức, một tên lính tiến lại, chiếc dao găm sắc lẹm lướt qua cổ cắt đứt cuống họng, máu đỏ lênh láng khắp sân đình.
Cả một buổi sáng chúng giết hại người dân bằng cách man rợ như thế. Chúng muốn những du kích địa phương như ông Kiểm tận mắt cảnh giết chóc để ý chí các ông lung lạc, khai ra nơi giấu cán bộ. Tuy nhiên, hành động man rợ đó chỉ đào sâu lòng uất hận, căm thù.
Cắt cổ người dân mãi mà không khai thác được gì, tên quan hai người Pháp sai lính dắt số người còn lại ra chỗ khác để giết. Người thì bị treo cổ, người bị bắn vỡ đầu, người bị đâm chết… Toàn bộ hơn trăm người chúng dẫn về sân đình Cả bị giết sạch.
Hồ Lâm, nơi thực dân Pháp vứt xác người dân sau khi giết hại
Chú rể ông Kiểm cũng bị thực dân Pháp bắt trong trận càn quét hôm đó. Ông là thợ may, nên may cái áo kiểu chấn thủ mặc cho ấm. Bọn địch tưởng ông là bộ đội nên bắt về. Ông chú rể nhìn thấy ông Kiểm liền khóc lóc. Ông Kiểm an ủi chú: "Tý nữa là chết thôi chú ạ. Đâu cũng phải chết thì chết cho thật kiên cường". Tra tấn mãi không được thông tin gì, chúng lôi chú rể ông Kiểm đi bắn. Chú rể ông Kiểm đi hiên ngang trước nòng súng của địch. Tiếng súng Cạc-bin vang lên và ông gục xuống.
Giết hết người dân, bọn Pháp quay sang giết những du kích. Tra khảo không được gì, chúng xử luôn bằng viên đạn vào đầu. Ông Kiểm là người cuối cùng bị xử. Tên quan hai Pháp dẫm vào đầu ông, lấy mũi giày hất mặt ông lên. Nhìn khuôn mặt máu me và đôi mắt rực lửa hận thù, biết có đánh đập tra khảo cũng chẳng ăn thua gì, nên hắn ra hiệu bảo dắt đi.
Nhà bia ghi tên những người bị giết trong vụ thảm sát ở xã Hoàng Hoa
Mấy tên lính da đen dí súng vào lưng đẩy ông Kiểm đi. Nhóm khác khiêng xác những người đã bị hành quyết đi về phía hồ Lâm và ném xác xuống hồ. Trên đường đi, ông Kiểm gặp cảnh hai đồng chí du kích bị treo ngược lên cành si. Bọn lính thi nhau đấm đá như bao cát. Đấm đá mãi không khai thác được gì, chúng dùng dao găm xẻo thịt, cắt gân, dùng lưỡi lê thọc vào đùi tứa máu.
Khi hai đồng chí này xỉu đi vì mất sạch máu, chúng cắt dây rồi khiêng xác ném xuống hồ Lâm. Chúng tiếp tục treo ông Kiểm lên. Chúng buộc chiếc dây thép nhỏ xíu vào một cánh tay ông, rồi đạp ghế. Cảm giác kinh hoàng đó còn ám ảnh ông đến bây giờ. Cơ thể chàng trai 18 được treo bởi sợi dây nhỏ, như rút từng sợi thần kinh và gân cốt.
Một thằng hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ: "Mày biết Việt Minh ở chỗ nào, khai ra, tao xin quan lớn tha cho". Ông Kiểm xác định kiểu gì cũng chết nên không thèm nói lời nào, cũng không thèm kêu đau. Điên tiết, chúng lao vào đấm đá tới tấp. Dây thép bị đứt, chúng không treo ông lên nữa mà dắt về phía hồ Lâm. Lúc đó, cơ thể bầm dập, xương ngực vỡ, xương sườn gãy đau buốt óc, muộn gục xuống, nhưng ông Kiểm vẫn gắng gượng hiên ngang bước đi.
Ngực phải ông Kiểm bị lép do tên Tây đen húc đầu làm bẹp xương ngực, gãy xương sườn
Đi đến đình Yến, một tay tên da trắng giữ vai ông, một tay rút dao găm từ hông và hỏi: “Biết Việt Minh ở đâu không?”. Ông lạnh lùng nói “không”, tên này đâm liên tiếp 3 nhát thấu ngực. Ông còn nhìn rõ dòng máu phun ra từ ngực mình xối xả. Hắn giơ chân đạp ông nằm sấp xuống đất rồi đâm tiếp 3 nhát vào lưng trái, chỗ tim, một nhát vào cổ, 2 nhát vào thái dương, một nhát ở mang tai, một nhát ở mông. Tổng cộng thằng Tây trắng này đâm ông Kiểm 11 nhát dao chí tử. Thấy người du kích không còn động đậy, máu chảy thành vũng, nhuộm đỏ cơ thể, chúng tưởng ông chết rồi nên bỏ đi.
Ông Kiểm nằm bên lề đường từ 11h sáng đến 4h chiều thì tỉnh dậy. Ông mở mắt, thấy hai thằng Tây khoác Cạc-bin đi qua. Ông chợt nghĩ, nếu có tỉnh dậy thì phải mở mắt quan sát trước đã, chứ nếu nó biết còn thoi thóp thì ăn đạn là cái chắc. Chỉ mới nghĩ được thế, ông lại ngất đi tiếp.
Nhập nhoạng tối, ông Kiểm lại tỉnh dậy. Ông nghe thấy tiếng bọn Tây cãi nhau chí chóe, tên nào cũng ôm một đống rơm. Như vậy, đêm đó chúng sẽ ở lại xã. Nếu đêm không trốn đi, ngày mai chúng sẽ dọn xác đem chôn hoặc quẳng xuống hồ Lâm.
Vết sẹo do đao găn đâm thủng cổ
Đợi đến khi trời tối mịt, ông lổm ngổm mò dậy, hai tay vẫn bị trói quặt sau lưng. Ông Kiểm gượng sức mình lội qua cánh đồng ngập nước. Vừa đi đến vườn đình Yến thì chóng mặt ngã chúi xuống và ngất đi. Do cơ thể mất quá nhiều máu, nên cả đêm ấy cứ hết tỉnh lại mê đến mấy chục lần.
Trời tảng sáng, ông thấy khuôn viên lăng tẩm trong đình cỏ mọc rậm rạp nên gượng sức bò vào nằm giấu mình trong bụi cỏ.
4h chiều, tiếng súng nổ, tiếng chó kêu ầm ĩ, ông biết rằng chúng đang dọn chiến trường. Đến xẩm tối, khi tỉnh dậy, không thấy tiếng súng, tiếng chó, tiếng xì xồ của bọn Tây nữa thì ông chắc chắn chúng đã rút đi.
Ông gượng sức bò ra sân đình Yến thì đã thấy nhân dân nháo nhác đi tìm xác người thân. Tiếng khóc, tiếng ai oán vang lên khắp ngả. Không khí tang tóc bao phủ khắp làng. Ông lại lăn ra bất tỉnh ở sân đình Yến.
Lúc tỉnh dậy, ông thấy mình đã nằm trong nhà cụ Tư Vĩ, người thôn Hầu. Cụ Tư Vĩ là thầy thuốc giỏi, đã đưa người du kích này về nhà mình để điều trị.
Ông Kiểm là nhân chứng sống duy nhất của vụ thảm sát kinh hoàng khiến 108 người chết
Sau đó, ông Kiểm được chữa trị suốt 3 tháng ở khu điều dưỡng Đông Triều. Ông Kiểm sống sót được sau cuộc tra tấn khủng khiếp đó cũng là một kỳ tích, song cũng do may mắn. Vết đâm chí tử vào cổ kéo dài từ trước ra sau nhưng may mà không đứt động mạch cổ. 6 vết đâm ở ngực và lưng đều là đâm dọc, nên dao không lách qua khe xương thấu vào tim, phổi.
Giờ đây, ông Kiểm là nhân chứng sống duy nhất của vụ thảm sát kinh hoàng này.
Sau này, khi khỏe lại, ông tiếp tục tham gia lực lượng du kích và chiến đấu tại địa phương. Hòa bình lập lại, ông được nhân dân tín nhiệm bầu làm chủ tịch xã kiêm bí thư 5 khóa liền, cho đến khi ông xin nghỉ hưu vì sức khỏe không cho phép.
Ông Kiểm kể: "Lúc điều trị vết thương ở nhà cụ Tư Vĩ tôi mới biết rõ rằng, chỉ trong buổi sáng, giặc Pháp vừa bắn, vừa giết, cắt cổ tổng cộng 108 người ở xã Hoàng Hoa. Lẽ ra phải là 109 người chết, nhưng tôi từ cõi chết trở về nên còn 108 người. Trong số đó, chỉ có 6 người là du kích, còn lại toàn bộ là dân chúng, người già, phụ nữ và trẻ em”.
Tối 19-2, Chi ủy, Ủy ban và Mặt trận tổ chức cuộc tưởng niệm những người đã hy sinh tại nhà ông Cai Phiệt ở thôn Đông. Nhà và sân ông Cai Phiệt có sức chứa hàng ngàn người mà đêm đó, cán bộ, nhân dân đứng chật ních, trắng xóa khăn tang. Cả làng, cả xã nghẹn ngào uất hận.
Theo VTC
|
Saturday 31 May 2014
Lấy đâu ra lắm quân ở Trị Thiên thế?
Các lực lượng của
ta và địch tại Trị - Thiên gồm: Bộ binh: ta: 11 sư đoàn và 23 trung đoàn; địch:
13 sư đoàn và 11 trung đoàn, lữ đoàn; Pháo binh: ta: 5 trung đoàn và 7 tiểu
đoàn; địch: 65 tiểu đoàn và 85 trung đội; Tăng, thiết giáp: ta: 4 tiểu đoàn; địch:
22 tiểu đoàn và 21 trung đội. Ngoài ra địch còn có 1692 máy bay chiến đấu các
loại, 1611 hạm tàu. Các lực lượng của ta và địch đều được bố trí thành các cụm
phòng ngự liên hoàn, có công sự kiên cố. Ở thời điểm đầu năm 1972, trên một hướng
chiến lược chủ yếu cả ta và địch đã tập trung đến mức cao nhất về lực lượng để
quyết chiến thắng.
(Đại tá, ThS Nguyễn Văn Quang & Đại tá Đoàn Văn Minh Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,Trị Thiên - hướng tiến công chủ yếu trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972trên chiến trường miền Nam)
Friday 30 May 2014
THỦ DÂM CÓ TỘI HAY KHÔNG? (Gioan Lê Quang Vinh)
Facebook
là nơi nhiều bạn trẻ trao đổi mọi vấn đề họ gặp trong cuộc sống riêng
của mình, là một loại nhật ký chung khá dễ thương. Nhờ Facebook, nhiều
bạn trẻ tuyên xưng đức Tin của mình và đồng thời chia sẻ kinh nghiệm
sống đức Tin cho nhau.
Tuy
nhiên, có điều đáng lo ngại là trên Facebook thỉnh thoảng các bạn đặt
ra những câu hỏi liên quan đến đức tin và luân lý, rồi ai muốn trả lời
thì cứ việc tự nhiên viết ra mà không cần dựa vào Huấn quyền hay Giáo
lý. Chính vì thế mà thỉnh thoảng có những câu trả lời theo ý riêng,
ngược hẳn với Giáo lý Công giáo và trái với Huấn quyền Hội Thánh.
Trong
phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đưa ra một trường hợp. Có một bạn
đặt vấn đề “thủ dâm có tội hay không?”, và mỗi người trả lời theo cách
nhìn nhận của mình. Điều đáng ngại nhất là có một bạn dự tu, trả lời quả
quyết như đinh đóng cột rằng thủ dâm không có tội.
Điều
nguy hiểm nhất là bạn ấy lại biện minh là mình đã tham khảo sách Giáo
Lý Công Giáo và nhiều tác phẩm luân lý khác. Có thể bạn ấy có đọc thật,
nhưng lại hiểu sai nên mới phán một câu đơn giản: thủ dâm là vấn đề tâm
lý, không có tội. Trong xã hội mà đức trong sạch của tuổi mới lớn gặp
nhiều cạm bẫy khắp nơi, một người nhận mình là giáo lý viên mà khẳng
định điều sai lạc về luân lý quả là điều đau đớn, gây nguy hại cho nhiều
tâm hồn.
Dĩ
nhiên lối hiểu lệch lạc ấy bị những bạn hiểu biết khác phản ứng lại.
Nhưng xét vì việc lên tiếng một cách thiếu trách nhiệm có thể gây nguy
hiểm cho các em nhỏ, nhất là người lên tiếng lại được biết đến như là
giáo lý viên, chúng ta cần phải giải thích lại cho đúng lề luật Thiên
Chúa.
Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (số 2352) dạy “Thủ dâm hiểu là việc chủ ý
kích thích cơ quan sinh dục để đạt được khoái lạc tình dục. “Dựa theo
truyền thống bền vững, cả Huấn quyền cả cảm thức luân lý của các Kitô
hữu, không hoài nghi, khẳng định rằng, thủ dâm là một hành vi tự bản
chất là vô trật tự cách nghiêm trọng”. “Với bất cứ lý do nào, việc chủ ý
sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ phu phụ đúng đắn cũng là sai
mục đích”. (Tuyên ngôn Persona humana của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin)
Một linh mục viết như sau:
“Truyền
thống của Giáo Hội đã luôn hiểu rằng Thánh Kinh, nhất là Tân Ước đã kết
án hành vi thủ dâm khi dùng những từ ngữ như "không trong sạch", "không
trinh khiết" và những tật xấu trái nghịch với đức trinh khiết hay tiết
độ.
Thánh
Phaolô viết thư cho tín hữu Ephêsô có viết: "Chuyện gian dâm, mọi thứ ô
uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh. Đừng nói lời
thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là những điều không nên..." (Eph
5:3-4). Chỗ khác Ngài viết: "Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh,
tức là xa tránh gian dâm, mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ
để sống cách thánh thiện và trong danh dự. Chứ không buông theo đam mê
dục vọng như dân ngoại là những người không biết Thiên Chúa . Thiên Chúa
đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện" (I Tx
4:3-8)”.
Như
vậy chúng ta thấy việc thủ dâm vừa là tội phạm đến giới răn của Thiên
Chúa, vừa sử dụng khả năng tình dục sai mục đích, lại còn thể hiện sự
ích kỷ rõ ràng (hưởng thụ mà không có trách nhiệm). Cho nên giáo lý viên
cần nhắc cho các bạn thanh thiếu niên về Giáo Lý số 2352 đã dẫn trên
đây: “thủ dâm là một hành vi tự bản chất là vô trật tự cách nghiêm
trọng”. Trong tình trạng bình thường, đó là lỗi nặng.
Tuy
nhiên, Giáo Lý Công Giáo cũng ghi chú thêm: “Để có phán đoán đúng đắn
về trách nhiệm luân lý của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục
vụ, cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của
thói quen đã có, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý xã
hội. Các nhân tố này có thể làm cho sự qui tội luân lý của được giảm
nhẹ, thậm chí đến mức tối thiểu”.
Ở
đây nhiều tác giả nhắc đến các yếu tố tâm lý vì “khoa tâm lý mang lại
một sự đóng góp khá quan trọng khi cho chúng ta biết rằng việc thủ dâm,
nhất là khi đã trở thành thói quen, có thể là một chứng bệnh và dấu báo
cho thấy có những vấn đề không chỉ thuộc lãnh vực tính dục mà thôi nhưng
còn sâu xa hơn nữa, chẳng hạn như gặp khó khăn trong tương quan với
người khác, cảm thấy bị lợi dụng về tính cảm một cách sâu xa nên muốn
đền bù, phản ứng về một sự khinh miệt nào đó, thất bại trong việc học
hành, tình trạng lo âu, bị ám ảnh hay tính dục phát triển quá mạnh.”
Những
phân tích và dẫn chứng trên đây cho thấy rằng thủ dâm có ý thức để tìm
khoái lạc thân xác là có tội nặng, nghịch Điều răn thứ Sáu. Một số
trường hợp do tâm lý, do hoàn cảnh... thì “sự qui tội luân lý của được
giảm nhẹ”
Do
đó, nói rằng thủ dâm là hành vi tâm lý, không có tội là nói sai luân
lý. Có thể vì lý do nào đó người ta phán đoán chưa chính xác hay cố hiểu
khác đi, nhưng không thể vì bất cứ lý do nào mà cắt nghĩa giáo lý nơi
công cộng một cách sai lạc rõ ràng. Làm cho các em nhỏ hiểu sai về luật
luân lý là điều nghiêm trọng.
Nhân
đây, chúng con cũng kính mong quí Cha, nhất là các Cha giải tội cho
giới trẻ, thỉnh thoảng ghé vào Facebook để điều chỉnh cho những “lời
phán dạy” sai lạc, hay trả lời các câu hỏi mà các bạn trẻ đưa ra nhưng
không đồng ý về các giải pháp.
Để
kết luận, xin trích dẫn lời khuyên từ một linh mục: (Nếu bạn mắc tội
này), “bạn hãy đi xưng tội, và nói rõ cho cha giải tội biết bạn mắc tội
thủ dâm cũng như số lần mắc phạm. Cha giải tội sẽ hướng dẫn cho bạn. Mỗi
lần bạn đi xưng tội với lòng ăn năn sám hối chân thành bạn sẽ được ơn
Chúa trở giúp và chữa lành để bạn có thể vượt qua những cơn cám dỗ, và
nhất là trong yếu đuối và bất toàn của bạn thân, bạn không đánh mất lòng
tin và niềm hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu.”
Gioan Lê Quang Vinh
Tác giả: Gioan Lê Quang Vinh
Subscribe to:
Posts (Atom)