Sunday 15 June 2014

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê) (Ngô Trần Đức - Hồn Việt Quốc Học)

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)

NGÔ TRẦN ĐỨC

Hình ảnh của Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)
1. MỞ ĐẦU
Trên báo mạng của Đài RFI tiếng Việt, sau loạt bài về Nhân văn - Giai phẩm, Thụy Khuê đã cho đăng một bài viết 4 kỳ với một cái tít khá giật gân: Ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923?

Tên bài khiến tôi phải đọc, bởi lẽ ai cũng biết, thời gian đầu, Nguyễn Ái Quốc được coi là bút danh tập thể của ba người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành khi thảo bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles; nếu làm rõ được những bài viết sau đó, khoảng từ giữa năm 1919 sang đầu năm 1920, bài nào là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, bài nào là của Nguyễn Tất Thành, thì cũng là một đóng góp trong việc nghiên cứu, bởi cần phải “trả lại những gì của César cho César”, đó là cách ứng xử sòng phẳng đối với các vấn đề của lịch sử nói chung, cũng là một thái độ cần có trong nghiên cứu khoa học.
Nhưng để làm được việc đó thật không đơn giản chút nào. Những bài viết ấy xuất hiện cách đây đã hơn 80 năm, các tác giả của nó đã đi vào lịch sử từ rất lâu, và những người đương thời - như những chứng nhân lịch sử - cũng chẳng còn ai. Để có thể làm rõ một cách thuyết phục, đòi hỏi phải rất công phu: phải đi sâu khảo sát thư tịch, sưu tầm, tra cứu bản thảo, bút tích của các tác giả từ những nguồn lưu trữ khác nhau trong và ngoài nước, so sánh đối chiếu nội dung, sự kiện được đề cập đến trong bài viết với cuộc đời hoạt động và văn phong của các tác giả,… để xem vào thời điểm đó, ai có thể viết, được công bố lần đầu tiên ở đâu, trên báo nào… Tóm lại, là phải có minh chứng, lập luận, lý giải thuyết phục, chứ không thể cứ một mực tùy tiện, nói liều!
Đọc xong bài viết 4 kỳ của Thụy Khuê, tôi hoàn toàn thất vọng, bởi tác giả hình như không có ý định xuất hiện như một nhà khảo cứu với phương pháp làm việc khoa học mà chỉ muốn làm một nhà báo tuyên truyền cho động cơ chính trị của nhà Đài! Âu cũng là chuyện thường tình, như là “nợ áo cơm, phải trả hình hài” vậy thôi! Người đọc nhận thấy ngay, các chủ kiến và lập luận của Thụy Khuê đưa ra hoàn toàn không phải là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiêm túc, dựa trên các chứng cứ xác thực, được chứng minh cụ thể, có nguồn xuất xứ tin cậy, mà chỉ toàn xuất phát từ những thiên kiến chủ quan, những lập luận hời hợt, để rồi đưa ra những kết luận hồ đồ với cách thức diễn đạt không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học: có lẽ là, có thể là, rất có thể là, phải chăng là… (của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh,…) được tác giả lặp đi lặp lại hàng chục lần! Những lỗi thô thiển về logic và lập luận như vậy có lẽ chỉ những học sinh trung học đang tập viết văn chính luận mới thường mắc phải!
Tuy nhiên, người đọc vẫn hiểu được cái đích của bài viết mà Thụy Khuê muốn đi tới là: tất cả các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1923, thậm chí đến năm 1927, bao gồm cả những bài được đăng trên Inprekor - cơ quan thông tin của Quốc tế Cộng sản, cả hai cuốn Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp, cũng được quy cho là của Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn An Ninh mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào! Thật không thể tưởng tượng nổi có một người phụ nữ cầm bút, định làm nghiên cứu mà lại liều lĩnh đến như vậy!
Cơ sở xuất phát cho mọi thiên kiến cực đoan của Thụy Khuê bắt đầu từ chỗ tác giả cho rằng: giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới từ Anh trở lại Paris, lúc đó anh mới đang học tiếng Pháp nên chưa thể viết những bài báo có nội dung chính trị phức tạp được!
Kể ra, đối với một bài viết tùy tiện như thế, thực không đáng phải tốn nhiều giấy mực về nó. Nhưng với nhiều bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, không có điều kiện trực tiếp với thư tịch gốc, đọc Thụy Khuê sẽ dễ bị ngộ nhận, nên tôi thấy cần thiết phải viết bài trao đổi này với Thụy Khuê và với các bạn đọc có quan tâm đến vấn đề được đặt ra.
2. NGUYỄN TẤT THÀNH TRỞ LẠI PARIS NĂM NÀO? TRÌNH ĐỘ TIẾNG PHÁP CỦA ANH RA SAO?
2.1. Đúng là vấn đề thời gian Nguyễn Tất Thành trở lại Paris chính xác vào ngày tháng năm nào vẫn đang còn có ý kiến khác nhau. Tiến sĩ sử học Thu Trang, trong hai công trình nghiên cứu của mình về Phan Chu Trinh và về Nguyễn Ái Quốc, đều cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã đến Paris vào đúng lúc Hội người Việt Nam yêu nước ra đời. Nghĩa là vào cuối năm 1916 đầu năm 1917, chắc hẳn không phải là trường hợp ngẫu nhiên” [1].
Một số người khác, trong đó có nhà sử học Pháp Daniel Hémery, lại cho là vào năm 1919 chứ không phải năm 1917 [2]. Cả hai phía đều dựa vào những báo cáo khác nhau của mật thám. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, cần phân biệt thời điểm Nguyễn Tất Thành bí mật trở lại Paris với thời điểm mật thám phát hiện ra anh từ sau vụ anh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước đến trao bản Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị hòa bình Versailles. Nghĩa là mật thám Pháp chỉ phát hiện ra anh từ sau ngày 18/6/1919, sau khi Tổ chức giúp đỡ người lao động nhập cư của Đảng Xã hội đã lo xong cho anh những giấy tờ hợp pháp, để từ đó anh có thể xuất hiện công khai. Như vậy, Nguyễn Tất Thành đã phải có mặt ở Paris trước thời điểm nói trên từ lâu rồi.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết của một đảng viên Xã hội kỳ cựu, nguyên là công nhân xưởng in báo L’Humanité, có chân trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của Đảng Xã hội sau chiến tranh; ông đã kể cho biết: Lần đầu tiên tôi gặp anh Nguyễn là vào tháng 7/1918, khi anh mới từ Luân Đôn sang được mấy tháng, lúc đó anh đang phải sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ ở phố Charonne, có khi hàng tuần không dám ra ngoài, để tránh mọi sự khám xét. Tôi đã thu xếp cho anh một chỗ ở mới tại quận 13, nhà đồng chí Moktar, người Tunisie. Để đảm bảo an toàn, khi Moktar đi vắng, anh không được đốt lửa, thắp đèn, mùa đông năm ấy rất rét. Anh phải chịu đựng như thế cho đến khi Đảng thu xếp xong cho anh các giấy tờ hợp pháp: giấy quân dịch, thẻ lao động,… [3].
Thụy Khuê khẳng định thời điểm Nguyễn Tất Thành đến Paris là tháng 6/1919 vì nó phù hợp với chủ kiến của mình: “Mãi giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới đến Paris, tiếng Pháp chưa thạo, làm sao viết được những bài báo chính trị phức tạp!”.
2.2. Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19/3/1920, ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc” [4]. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp.
Tại Marseille ngày 15/9/1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, Quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31/10/1911 và tại New York ngày 15/12/1912, anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15$, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả - ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp [5].
Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.
Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2/9/1919, đã xác nhận: “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français) [6].
Không lâu, sau khi xuất hiện công khai, Nguyễn Ái Quốc đã hăng hái đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng Pháp với thính giả Pháp, xin đơn cử:
- Ngày 14/1/1920, tại số 3 đường Château - Paris, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài Sự tiến triển trong xã hội các dân tộc châu Á và những yêu cầu của nước Nam (Theo báo L’Humanité các số ra ngày 13 và ngày 14/1/1920 và báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 11/2/1920, Nguyễn Ái Quốc thuyết trình đề tài Chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và vấn đề ruộng công điền ở Trung Quốc và Việt Nam, tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản Quận 2 (Theo báo cáo của mật thám Jean).
- Tại cuộc mít-tinh kỷ niệm ngày 1/5/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn nói về Chương trình hoạt động của Nhóm Xã hội đòi ngừng gửi người thuộc địa sang Pháp (Báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc, đại biểu duy nhất là người bản xứ, được mời tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, khai mạc tại thành phố Tours. Ngay buổi chiều hôm sau, anh được Chủ tịch phiên họp - Emile Goude - mời lên phát biểu. Lần đầu tiên trong đời, anh được dự một Đại hội lớn với sự có mặt của những trí thức tên tuổi của nước Pháp bấy giờ, nên không tránh khỏi xúc động, có lúc hơi thiếu bình tĩnh. Bài phát biểu ứng khẩu, được biên bản tốc ký ghi lại cho thấy ở anh một tư duy và ngôn ngữ Pháp sắc sảo, súc tích, sáng sủa, mạch lạc, tập trung vào mục tiêu tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi sự ủng hộ thiết thực sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Bài phát biểu đã được Đại hội nhiều lần vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Phát biểu tiếp theo đại biểu Đông Dương, chủ tịch phiên họp - E.Goude - đã nhận xét: “Bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt vời(en un excellent français), ông đã tố cáo những tội ác, những hành động đàn áp và chuyên chế mà hai mươi triệu người An Nam là nạn nhân, họ bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, bị bóc lột và truy nã bởi một thứ công lý tư sản đè nặng lên họ. Tất cả những đảng viên xã hội nhất trí phản kháng, chống lại những bất công và tội ác của thứ công lý tư sản ở Đông Dương” (Vỗ tay) [7].
Đưa ra một vài dẫn chứng để hiểu được trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào quãng năm 1919-1920, khi ông bước vào hoạt động chính trị ngay tại thủ đô Paris. Tất nhiên, từ văn nói đến văn viết còn phải qua một chặng đường học tập và rèn luyện nữa. Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng, hoạt động chính trị công khai giữa Paris phải sử dụng được vũ khí tuyên truyền sắc bén là sách báo, nên đã ra sức học viết, trước hết là học với người thầy trực tiếp ở ngay cùng nhà là Phan Văn Trường, sau đó là miệt mài ở các thư viện. Nhờ khiêm tốn và dày công học hỏi, nên ông Nguyễn đã tiến bộ rất nhanh trong viết báo. Dấu ấn phong cách Phan Văn Trường trong những bài viết đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là rất rõ, hoặc do Phan Văn Trường hướng dẫn hoặc được Phan trực tiếp sửa chữa, nên sự khó phân biệt cũng là dễ hiểu (chính Hồ Chí Minh sau này đã công khai nói rõ điều đó). Vì vậy, ngày nay mới cần đến sự thẩm định của nhà nghiên cứu.
Thụy Khuê xuất phát từ cái nhìn miệt thị cho rằng, Nguyễn Tất Thành tuy cũng xuất thân con quan, nhưng khi xuất dương đã phải sống một cuộc sống nghèo khổ, cực nhọc, không được học hành, không có bằng cấp như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, nên không đủ kiến thức và Pháp văn để viết, vai trò của ông trong tờ báo Le Paria chỉ là “giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn” thế thôi! Những câu viết khinh thị với đầu óc nặng bằng cấp này chứng tỏ Thụy Khuê tuy sống ở Pháp đã lâu nhưng lại không có được cái nhìn tiên tiến của giới trí thức Pháp.
Người Pháp thứ thiệt lại rất coi nhẹ bằng cấp mà coi trọng thực tài, đề cao tư duy độc lập, khả năng phản biện và cá tính sáng tạo. Hãy nghe một trí thức Pháp, ông Daniel Hémery, đánh giá về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này: “Hồ Chí Minh không hoàn thành trọn vẹn một chương trình giáo dục nào, ông cũng không tiếp nhận đầy đủ một nền tri thức hiện đại cũng như nền nho học cổ truyền mà đứng giữa hai nền văn hóa đó. Ông là một người tự học đầy tài năng, là hình mẫu của giới trí thức không bằng cấp, sẽ giữ vai trò quyết định trong phong trào cách mạng” [8].

Bản án chế độ thực dân Pháp.
3. BÚT DANH NGUYỄN ÁI QUỐC TRỞ THÀNH TÊN RIÊNG CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH NHƯ THẾ NÀO VÀ TỪ BAO GIỜ?
3.1. Bút danh Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tháng 6/1919 trong bản Thỉnh nguyện thư gửi hội nghị Versailles, đồng thời cũng được gửi đến Tổng thống Hợp chủng quốc và các đoàn đại biểu nhiều nước tham dự Hội nghị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sáng kiến đưa thỉnh nguyện thư là của Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành và do Phan Văn Trường chấp bút, dưới ký một bút danh chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng địa chỉ ghi bên dưới không phải 6 Villa des Gobelins mà là 56 phố Monsieur le Prince, nơi cư trú lúc đó của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 14/11/1919, Bộ Thuộc địa Pháp có thư mời Nguyễn Ái Quốc đến gặp để kiểm tra lý lịch, đã gửi thư về địa chỉ này, nhưng khi đó anh Thành đã chuyển đến số 6 Villa des Gobelins, nhà của Phan Văn Trường [9]. Nhận được thư mời, Nguyễn Tất Thành ung dung đến trụ sở Bộ Thuộc địa diện kiến Bộ trưởng A. Sarraut - người đã có hai nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương - và sau đó với P. Pasquier (người sau này cũng trở thành Toàn quyền Đông Dương). Qua những cuộc gặp gỡ và đối thoại thẳng thắn này, cùng với kết quả xác minh của những mật thám người Việt bủa vây quanh anh, người mang tên Nguyễn Ái Quốc hiện diện bằng xương bằng thịt đã được khẳng định chính là Nguyễn Tất Thành.
Tất nhiên, bút danh Nguyễn Ái Quốc có thể vẫn được Phan Văn Trường tiếp tục sử dụng trong một thời gian nữa, từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1920, một là vì thời gian đó, bản Yêu sách vừa mới được công bố trên L’Humanité, các thế lực thực dân đang có phản ứng mạnh về nội dung bản Yêu sách, bút danh Nguyễn Ái Quốc đang nổi như cồn, ký bút danh đó sẽ được người đọc chú ý hơn; hai là xét về nội dung các bài báo xuất hiện cuối năm 1919 như Ở Đông Dương, vấn đề dân bản xứ (L’Humanité, ngày 2/8/1919), bài Đông Dương và Triều Tiên (Le Populaire ngày 4/9/1919), bài Thư gửi ông Outrey (Le Populaire, ngày 14/10/1919), nói chung đều xoay quanh nội dung bản Yêu sách, cùng một mạch văn, nên có thể vẫn do Phan Văn Trường viết.
Điều này cũng đã từng được Tiến sĩ sử học Thu Trang nêu lên qua phân tích sự khác nhau trong lối hành văn, cách lý luận giữa Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc, một bên là luật sư, “có một túi luật lệ”, nên thỉnh thoảng ông đưa sự hiểu biết chuyên môn của mình ra để đấu khẩu với những tên thực dân” (như bài Thư gửi ông Outrey); còn Nguyễn Ái Quốc, trong những bài báo về sau, “không mấy khi Nguyễn dùng luật lệ để bắt bẻ thực dân, mà phần nhiều hay dùng những chứng cớ hiển nhiên, dễ hiểu, thực tế đập vào mắt độc giả. Nội dung giản dị, dễ đọc, không đi vào chuyên môn; khi cần dẫn chứng thì mới trích đoạn chỗ này, chỗ khác, hoặc trích vài con số để chứng minh sự thật” [10].
Thu Trang nghi vấn các bài này có thể là của Phan Văn Trường, chứ không hề nghĩ đến Nguyễn An Ninh hay Nguyễn Thế Truyền như Thụy Khuê đã gán một cách vô căn cứ cho hai người này, đơn giản là vì, vào năm 1919-1920 Nguyễn Thế Truyền vẫn chưa có mặt tại Paris. Theo Đặng Hữu Thụ [11], từ năm 1916-1920, ông Truyền đang học đại học ở Toulouse, miền Nam nước Pháp; năm 1920 tốt nghiệp kỹ sư hóa học và cử nhân khoa học ban Lý - Hóa, sau đó ông về nước cưới vợ và ở lại trong nước hơn một năm. Ngày 23/8/1921, ông lại được học bổng của Thống sứ Bắc Kỳ, tiếp tục đi du học lần thứ ba, theo học tại Đại học Sorbonne, cuối năm 1922 đậu cử nhân triết học và bắt đầu kết giao thân thiết với Nguyễn Ái Quốc và viết báo Le Paria; có một thời gian ngắn ông tá túc ở số 6 Villa des Gobelins, sau đó ông Truyền thuê nhà ở tại số 6 đường Saint-Louis-en-l’Ile Paris. Như vậy, những bài báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền sẽ chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 1922 trên tờ Le Paria.
Còn Nguyễn An Ninh, sinh năm 1900, 18 tuổi ông mới sang Paris, tiếp tục học luật tại Sorbonne, hai năm sau (1920) đậu xuất sắc bằng cử nhân luật, nhưng chưa thấy nói đến những hoạt động chính trị của ông vào thời gian này. Như vậy, khó có thể nói võ đoán như Thụy Khuê rằng Thư gửi ông Outrey là của Nguyễn An Ninh viết, với một lập luận “kỳ khôi” rằng: “Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh,… khi đọc văn, y đoán chắc là của Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh”(sic)!
Thụy Khuê cần biết rằng Outrey là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ viện Pháp, rồi làm Thống đốc Nam Kỳ, đang dòm ngó chức Toàn quyền Đông Dương; còn Nguyễn An Ninh khi ở trong nước mới chỉ là một học sinh Cao đẳng pháp chính thuộc Đại học Đông Dương, chưa đến 18 tuổi, hãy còn vô danh, nghĩa là chưa viết lách và chưa có hoạt động chống đối tiếng tăm gì, vậy tại sao một quan chức thực dân cao cấp như Outrey lại có thể “biết rõ gốc gác và hành tung của Nguyễn An Ninh, khi đọc văn y nhận ra ngay để có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh? (Những lập luận kiểu “tự do sáng tác” như thế này không hiếm trong bài viết của Thụy Khuê, có dẫn ra nữa cũng chỉ làm mất thêm thì giờ của độc giả).
3.2. Vậy bút danh Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành từ bao giờ? Cần nói ngay rằng, “nhóm Ngũ Long” là do người đời sau đặt ra để tôn vinh năm nhà hoạt động yêu nước nổi tiếng có mặt tại Paris trong những năm 20 của thế kỷ trước (ví như người ta vẫn đặt: “Nam Đàn tứ hổ”, “Thăng Long tứ kiệt”,…) chứ không phải là một “nhóm” có ý nghĩa về tổ chức, hình thành và hoạt động bên nhau cùng một lúc. Mỗi người có một vai trò và nổi lên ở một giai đoạn nhưng không phải khi nào họ cũng nhất trí với nhau về xu hướng, quan điểm và phương pháp hành động.
Nguyễn Ái Quốc từ khi gia nhập Đảng Xã hội rồi trở thành người cộng sản thì xu hướng ngày càng cấp tiến, hoạt động ngày càng mạnh mẽ; Phan Văn Trường là một trí thức có quốc tịch Pháp nên chủ yếu muốn dựa vào pháp luật và báo chí công khai để đấu tranh; Phan Châu Trinh thì chủ trương cải cách ôn hòa, mềm mỏng, không muốn làm mất lòng người Pháp. Họ thường tranh luận, có khi to tiếng với nhau, từ đêm này qua đêm khác, khiến hàng xóm phải than phiền. Tranh luận mãi mà không thuyết phục được nhau cũng mệt mỏi, cuối cùng đành mỗi người tạm đi một nơi: Cụ Phan dọn về ở 21 Pernety rồi cuối năm đó xuống Marseille làm việc hơn một năm; Nguyễn Ái Quốc dọn về số 9 Ngõ Compoint, Phan Văn Trường đi Mayence, ngôi nhà ở Gobelín bỏ trống. Tuy vậy, về mặt tình cảm, họ vẫn kính trọng nhau và duy trì quan hệ với nhau hết sức tốt đẹp.
Thực tế đó cho thấy, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo một con đường riêng, xu hướng thiên tả của anh được bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ trong hoạt động cũng như trong các bài viết, điều đó làm cho một số người e ngại. Phan Châu Trinh nhận xét về anh Thành là còn quá trẻ và có bầu máu quá nóng; Khánh Ký thì cho là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cảnh sát đã làm rầy rà cho những người An Nam ở số 6 villa des Gobelins (mật báo của Devèze ngày 27/12/1920). Có thể nói, từ khi gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919, rồi sau Đại hội Tours (tháng 12/1920), trở thành người cộng sản, bút danh Nguyễn Ái Quốc ký dưới những bái báo có xu hướng xã hội chủ nghĩa, thường hay nhắc đến Quốc tế Cộng sản, đã trở thành bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Đó là điều dễ thấy, không ai có thể xuyên tạc được.
4. VỀ TÁC PHẨM ĐÔNG DƯƠNG VÀ BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP
4.1. Trong bài viết của mình, Thụy Khuê có nói đến cuốn La France en Indochine của Nguyễn An Ninh được viết và xuất bản tại Pháp tháng 4/1925, nhưng thừa nhận nay không còn dấu tích (nghĩa là Thụy Khuê cũng chưa từng nhìn thấy, chưa nói là từng đọc), chỉ còn bài viết La France et l’Indochine của ông đăng trên Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925 cho ta biết tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh. Thế mà Thụy Khuê đã vội phỏng đoán một cách hồ đồ rằng: “Cuốn sách mang tên Đông Dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?” (sic!).
Để tránh những kết luận liều lĩnh như trên, tôi khuyên Thụy Khuê nên đến Trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử Nga, vào phòng Quốc tế cộng sản, mở cặp tư liệu về Nguyễn Ái Quốc, đọc Hồ sơ số 7, sẽ thấy bản thảo bút tích, đánh máy tiếng Pháp, cuốn sách nhỏ nhan đề Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc được lưu tại đó. Trang bìa in nền hoa văn, có chữ viết tay của thủ thư bằng tiếng Nga, dịch ra như sau:
ĐÔNG DƯƠNG
Dự thảo cuốn sách nhỏ của đồng chí Quốc
(1923-1924)
Dự thảo có 18 bài, gồm 82 trang đánh máy tiếng Pháp, với các đề mục như sau: 1. Sa géographie. Les classes. L’histoire; 2. Sa vie économique; 3. Les méfaits du militarisme; 4. Les atrocités de la civilisation; 5. Mentalité coloniale; 6. Les administrateurs; 7. Parasitisme et pétaudière; 8. Le consortium des bandits; 9. Concessions et concessionnaires; 10. Les travaux publics; 11. Corvées ou travaux forces; 12. L’obscurantisme; 13. La presse; 14. Les impôts; 15. La résistance; 16. L’Eglise; 17. La Justice; 18. L’Annam vu par les français.
Đọc qua, người đọc có thể thấy ngay tên một số đề mục có sự trùng hợp với tên một số chương của Bản án chế độ thực dân Pháp, có điều cuốn Đông Dương chỉ giới hạn tố cáo tội ác chế độ thực dân trong phạm vi xứ Đông Dương, còn Bản án đã được tác giả bổ sung và phát triển, mở rộng sự tố cáo ra các thuộc địa Á - Phi khác thành một tác phẩm đầy đặn hơn. Ông D. Hémery đã cho rằng Đông Dương chính là tiền thân của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
4.2. Trước khi đề cập đến tác phẩm Bản án, tưởng cũng nên nói qua về những bài viết trên báo Le Paria. Vẫn quen lối nói bất cần khảo chứng, Thụy Khuê cứ tùy tiện nói bừa: “những bài xuất hiện trên báo Le Paria và L’Humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprékorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền” (sic)! “Nói có sách, mách có chứng”, yêu cầu đó đối với người Việt Nam, ngay cả trẻ con, ai cũng đều biết cả. Nhưng vì quá hăng hái “lập công” nên Thụy Khuê đã liều lĩnh nói bừa, vì vậy cũng chẳng đánh lừa được ai!
Cần nhắc lại rằng báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập, trực tiếp làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và viết chính, số đầu ra ngày 1/4/1922, ngay trong số 1 đã có giới thiệu về số 2: đón đọc bài “Động vật học” được viết rất hay của Nguyễn Ái Quốc, photographe - (chữ thợ ảnh được chú thích đàng hoàng như một chức danh, đó là bài viết của một thợ ảnh chứ không phải của một avocat hay licencié nào).
Còn Nguyễn Thế Truyền, như đã nói ở trên, mãi cuối năm 1922 mới kết thân với Nguyễn Ái Quốc và tham gia cộng tác với Le Paria, khi đó bút danh Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành rồi. Trong 38 số báo Le Paria, có tới 37 bài của Nguyễn Ái Quốc, không kể bài dịch, với văn phong giản dị, thiết thực nhưng không kém phần trào lộng tinh tế, châm biếm sắc sảo, dồi dào tình cảm cách mạng và có tính chiến đấu cao, không thể trộn lẫn được. Chính nội dung những bài viết này, sau đã được Nguyễn Ái Quốc sử dụng lại, đưa vào tác phẩm “Bản án”.
Có điều lạ là Thụy Khuê đều vơ tất cả các bài trên Le Paria và trên các báo khác về cho Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh mà lại gạt Phan Văn Trường ra? Nên nhớ, mãi đến 6/12/1923, ông Phan Văn Trường mới lên tàu về nước. Dưới một bút danh mới là PHAN, ông đã viết nhiều bài cho Le Paria, theo GS Nguyễn Phan Quang, trong cuốn Luật sư Phan Văn Trường [12], các bài đó được đăng trên Le Paria các số: 11, 12, 13, 14, 16, 18-19, 21,… trong các năm 1922 - 1923.
Đối với tác phẩm Bản án, lúc đầu, Thụy Khuê khẳng định rằng đó là của Nguyễn Thế Truyền, sau có lẽ thấy nói thế không thuyết phục được ai, nên đổi giọng: “có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm chủ biên và viết lời giới thiệu”.

Nguyễn Tất Thành năm 1911. Ảnh: TL.
Thụy Khuê dẫn thêm một câu của Trần Dân Tiên: “Ông Nguyễn chỉ viết một cuốn sách duy nhất là quyển Bản án chế độ thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, để rồi lu loa lên rằng: viết như thế “chứng tỏ ông chưa đọc Bản án chế độ thực dân Pháp vì “chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện để ông chép lại”(sic)!
Ô hay! Thật kỳ lạ cho tư duy của một nhà phê bình! Chẳng lẽ ở Pháp, Thụy Khuê chỉ quen biết với toàn những tên thực dân mà quên rằng nước Pháp còn là quê hương của lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, của những người xã hội và cộng sản, của những trí thức chân chính theo đuổi lý tưởng nhân đạo và chính nghĩa, như J. Jaurès, A. France, M. Cachin, Vigné D’Octon và rất nhiều người khác nữa. Họ viết sách, viết báo lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, bênh vực các dân tộc thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc trích dẫn họ như là một cách dùng “gậy ông đập lưng ông” thì có gì là lạ? Đây là dụng ý của Nguyễn Ái Quốc, được mật thám Jean ghi lại và đưa vào mật báo ngày 19/1/1920: “Tôi không muốn tự mình viết lấy, vì như thế không có giá trị trung thực. Tôi sẽ dùng những đoạn văn trong số sách đã viết về thực dân Pháp. Tôi sẽ cố gắng làm cho đậm nét những đoạn ấy” [13].
Có thể thấy, chính Thụy Khuê chưa đọc, hơn nữa có thể còn chưa được nhìn thấy tác phẩm Bản án chế độ thực dân Phápcủa Nguyễn Ái Quốc được xuất bản năm 1925 (hay 1926?) tại Paris, nếu được nhìn qua thôi, chắc không dám liều lĩnh nói sách này là của Nguyễn Thế Truyền hoặc do ông Truyền làm chủ biên, đơn giản là vì ngay trước trang bìa bên trong, sách đã in trang trọngảnh chân dung tác giả của nó là: Nguyễn Ái Quốc! Một điều cũng hiếm thấy ở phương Tây lúc bấy giờ. Chính Nguyễn Thế Truyền trong Lời giới thiệu cũng viết: chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra những bản án của các dân tộc là thuộc địa của Pháp trong một loạt các tập sách nhỏ mà mở đầu bằng bản án của một người An Nam: Nguyễn Ái Quốc.
Đề cập đến vấn đề tác giả của Bản án, ông Đặng Hữu Thụ, vốn người Hành Thiện, tác giả cuốn sách khá đầy đặn về Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, cho biết: “Trước khi đi Mạc Tư Khoa, ông Nguyễn Ái Quốc có viết cuốn sách lên án chế độ thực dân Pháp bằng Pháp ngữ. Ông có giao bản thảo sách cho ông Nguyễn Thế Truyền nhờ sửa chữa lại bản thảo, đề tựa và cho in tại Pháp. Sách được in năm 1926 tại Paris, có bài tựa của ông Nguyễn Thế Truyền” (tr.120). Ông Truyền nhờ ông Bửu Nghi, du học ở Pháp, là bạn thân của ông Truyền, sửa dùm các lỗi chính tả, văn phạm, lời văn; sau ông Truyền xem lại, sửa chữa lần nữa, gọt giũa câu văn, viết lại nhiều câu ý tưởng còn thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in (tr.123-124). Ông Thụ kết luận: “Vậy tác giả cuốn sách trên là ông Nguyễn Ái Quốc” (tr.125).
Thụy Khuê chắc đã đọc kỹ cuốn sách này vì đã đôi lần trích ý kiến Đặng Hữu Thụ trong bài của mình, nhưng đến đoạn này lại lờ đi không nhắc đến chỉ vì nó không có lợi cho dụng tâm đang muốn thực thi. Cách trích dẫn của Thụy Khuê là như vậy, nhiều khi cố tình cắt xén, cốt sao đạt được ý đồ của mình. Bản Việt Nam yêu cầu ca được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành văn vần để cho những người ít chữ dễ thuộc, dễ nhớ, nhưng không thể đưa in vì ở Pháp lúc đó không có chữ in Quốc ngữ có dấu, nên Nguyễn Tất Thành phải viết tay, làm bản chụp rồi in ra. Bài ca viết theo thể lục bát, bản phô-tô trong sách của Thu Trang cho thấy Nguyễn Ái Quốc viết liền 2 câu 6/8 cùng 1 dòng. Thụy Khuê chỉ chép lại trong bài viết của mình toàn các câu 6, bỏ các câu 8, làm cho nó trở nên ngô nghê, chẳng còn vần điệu gì, cốt để hạ một câu: Nguyễn Tất Thành do sớm bỏ học, nên tiếng Pháp sơ sài, Quốc ngữ cũng kém!
Vở kịch Le Dragon en bambou (chứ không phải de bambou như Thụy Khuê viết) cũng đuợc gán cho là của Nguyễn An Ninh mà không đưa ra được chứng lý nào. Chúng ta được biết, Nguyễn Ái Quốc không chỉ viết báo chính luận mà còn sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như truyện, ký, kịch, tranh biếm họa để phục vụ cho tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 5/1922, Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc địa tại thành phố Marseille để khoe công lao khai hóa thuộc địa và có mời vua bù nhìn Khải Định sang dự để khoe như một món hàng triển lãm. Sự kiện này làm cho những người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp cảm thấy bị sỉ nhục. Một chiến dịch phản đối bùng lên, phê phán mạnh mẽ tên vua bù nhìn ươn hèn, ăn chơi trác táng.
Phan Châu Trinh viết Thất điều thư, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài báo và truyện ngắn châm biếm Khải Định, trong đó có vở kịch ba hồi Con rồng tre (trước đó ông đã diễn thuyết về đề tài Sân khấu Việt Nam tại CLB Faubourg buổi sinh hoạt tháng 4/1922). Vở kịch được nhóm Faubourg đem công diễn và đã được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Điều này được chính Léo Poldès, một trí thức phái tả, là chủ nhiệm CLB Faubourg thời bấy giờ thừa nhận, trong một bài viết đăng trên Tuần báo Ici Paris số 53, ra ngày 11, 12/6/1946 [14], sau khi được gặp lại Nguyễn Ái Quốc đang thăm chính thức nước Pháp thời gian đó.
Bài viết có đoạn: “Tôi đã đọc tập bản thảo. Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm kiểu Aristophane… Thật không ngờ rằng 25 năm sau, người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint, tác giảCon rồng tre, lại trở nên một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”.
Đỉnh cao của sự xuyên tạc được gói lại trong phần kết luận của bài viết cuối cùng, trong đó Thụy Khuê đưa ra danh sách những bài báo ký bút danh Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1922, tất cả đều được gán cho Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và nhiều nhất là cho Nguyễn Thế Truyền, không có bài nào là của Nguyễn Ái Quốc! Làm một cuộc phủ định sạch trơn như vậy, tác giả muốn nhằm mục đích gì? Thụy Khuê đã vu cáo một cách thâm độc: “Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của mình” vì “chính những bài báo đó đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh”, “đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh”! “Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận”! (sic).
Tuy nhiên, như bạn đọc đã thấy, âm mưu “lật đổ thần tượng” của Thụy Khuê đã thất bại thảm hại. Ở thời đại thông tin phát triển rộng rãi như hiện nay, mọi nguồn lưu trữ đã được bạch hóa, đến những tài liệu được coi là tối mật của Mỹ cũng đã được Wikileaks tung lên mạng, trình độ nhận thức của đa số người đọc ngày nay cũng đã khác xưa; thủ đoạn vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, tung hỏa mù,…của thời chiến tranh lạnh mà Thụy Khuê quen dùng đã trở nên cũ kỹ, rất gây phản cảm cho người đọc. Viết văn, viết báo - dù là tiểu trí thức - thường bao giờ cũng phải lấy sự thật làm đầu, theo đuổi chân lý, chính nghĩa; nếu cứ ngụy tạo một cách trơ trẽn, để lộ một nhân cách tầm thường, thì chẳng đánh lừa được ai.
5. THAY LỜI KẾT LUẬN
Mấy bài báo ở thời kỳ đầu khi Nguyễn Ái Quốc mới bước lên vũ đài chính trị chỉ là số rất nhỏ trong hàng vạn bài báo và tác phẩm Hồ Chí Minh viết sau này, nó chẳng có vai trò như Thụy Khuê suy diễn, nếu như có sự lầm lẫn một đôi bài nào đó thì chính là lỗi ở các sử gia, các nhà sưu tầm, cả Pháp lẫn Việt, chứ không liên quan gì đến Hồ Chí Minh. Huyền thoại Hồ Chí Minh đâu có thể hình thành từ vài bài báo? Đó là sản phẩm của một đời đấu tranh vào sinh ra tử, phải vượt qua bao thử thách hiểm nguy, phải đối phó với bao kẻ thù hung bạo, trong một bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, để lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập, tự do; đó cũng là sản phẩm của cuộc đời một chính khách trong sạch và liêm khiết có một không hai như Hồ Chí Minh. Đóng góp vào sự hình thành huyền thoại đó còn phải nói đến vai trò của các bạn bè Pháp, kể cả mật thám Pháp, như P. Arnoux,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một hệ thống quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi tới xây dựng thành công một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng đó là kết quả của quá trình học tập, thâu hóa tinh hoa tư tưởng nhân loại, của các vĩ nhân như Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,… để từ đó thăng hoa lên thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trả lời câu hỏi của một phóng viên: ông là ai, theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Hồ Chí Minh từng trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày trước - một người yêu nước. Tôi hiến dâng cả đời tôi cho Tổ quốc tôi”. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã kết tụ đầy đủ lý tưởng, bản chất, mục tiêu chiến đấu, phẩm chất đạo đức của cuộc đời Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không “vơ vào” cho mình một chút gì cả! Sinh thời, Người thẳng thắn từ chối mọi danh hiệu mà người đời khen tặng. Có một nhà văn nước ngoài gọi Người là nhà thơ, Người khoát tay: nhà thơ gì tôi, chẳng qua là trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi. Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất. Cũng cần nhắc lại: Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo Việt Nam duy nhất không có huân chương, người không tán thành dựng tượng đồng, bia đá, bảo tàng,… cho mình khi nhân dân còn thiếu bệnh viện, trường học.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống đau khổ hơn ba mươi năm, như một kẻ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng (Un excommunié). Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm nước Pháp, vào đúng lúc sự biến Đông Âu đang xảy ra. Phóng viên báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne” (cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng nhân cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
- GS Nguyễn Mạnh Tường: Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hi vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực hiện nó.
- PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
- GS NMT: Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo kaki đã sờn và một đôi dép lốp cao su đã vẹt gót.
- PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
- GS NMT: Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc [15].
Tôi muốn dẫn một người nữa, GS Hoàng Xuân Hãn, một học giả đáng kính, được coi như là lương tâm của trí thức Việt kiều ở hải ngoại. Một phóng viên của Diễn đàn (Paris), trong một lần trao đổi với GS về sự đánh giá của ông đối với công lao của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được nghe ông tâm sự: “Bây giờ lòng người còn phân tán, hận thù còn quá nhiều, nên sự đánh giá còn lệch lạc. Nhưng với con mắt của người nghiên cứu lịch sử dân tộc, bác tin rằng vài chục năm nữa, có lẽ sớm hơn, người ta sẽ nhìn nhận công lao của cụ Hồ”. Rồi ông nói cụ thể hơn: “Cũng những anh thanh niên ấy mà bác đã quan sát, vì đã dạy học họ trong mấy năm, nhưng không tập hợp nhau được, hay tập hợp được cũng chẳng làm nên việc gì, thế mà hôm trước hôm sau, họ thay đổi hẳn”.
Theo lời phóng viên được đối thoại thì ý này của GS Hoàng Xuân Hãn trùng hợp với nhận xét của viên tướng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương thời đó, trên đường từ Hà Nội vào Sài Gòn ngay sau ngày 19/8/1945, ông ta cũng nhận thấy “những đôi mắt, những ánh mắt” trên khuôn mặt người Việt Nam chỉ “hôm trước, hôm sau” đã “hoàn toàn khác hẳn” (do GS Vĩnh Sính thuật lại). Sau khi ôn lại những cố gắng liên tiếp của các thế hệ cha ông từ cuối thế kỷ XIX, tìm đường giải phóng đất nước mà không thành, GS Hãn kết luận: “Vì chưa bao giờ trong lịch sử của mình, dân ta phải đương đầu với một quốc gia xâm lược mà thế lực, trình độ phát triển, hơn hẳn ta đến như vậy” [16]. Vậy mà cụ Hồ đã thành công. Có lẽ, đó cũng là nhận thức chung của những trí thức Việt kiều có lương tri ở hải ngoại hiện nay.
Hàng chục năm nay, đã có không ít kẻ xấu xa bị thất bại ê chề trong âm mưu “lật đổ thần tượng”. Họ phải biết rằng Hồ Chí Minh, cũng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…là những thần tượng muôn đời của dân tộc, nên một vài đứa con lạc bầy, dù có hò hét điên cuồng đến đâu, cũng không thể nào đánh đổ được. Mong rằng Thụy Khuê sẽ không ăn phải đũa của những kẻ “bội tín”, sẽ tiếp bước lớp trí thức tinh hoa ở hải ngoại, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đoàn kết, hòa hợp dân tộc và phát triển đất nước.

[1]
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 (tr.128) và Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), tr.47.
[2]
D. Hémery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Descouvertes Gallimard, Paris, 1990. p. 42.
[3]
Michèle Zecchini: Le Calligraphe (Người viết chữ đẹp). Tạp chí Planète-Action, số 3/1970, p. 24-28.
[4]
Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé, Genese d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911. Approches-Asie, No 11/1992. Xem phần Documents Annexes, No 15, Déclarations de Nguyen Tat Dat, 19 mars 1920. p. 144.
[5]
Xem D. Hémery: Sđd, phần Documents, các số 6, 7, 9 tr. 131, 132, 134.
[6]
Dẫn lại theo Thu Trang-Gaspard: Ho Chi Minh à Paris, p. 69.
[7]
Dẫn theo Alain Ruscio: “Le délégué de l’Indochine”(Nguyen Ai Quoc), Intervention au Congrès de Tours, 27 décembre 1920, trong cuốn Le Journal L’HUMANITÉ et l’Indochine coloniale 1904-1954 + quelque textes d’Histoire. Về bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc Discours au Congrès de Tours, (extrait du procès-verbal sténographié), xin xem “Hồ Chí Minh - écrits”, Édition en langues étrangères, Hanoi-1976, p.11-13.
[8]
D. Hémery: Ho Chi Minh, De l’Indochine au Viet Nam, sđd, tr. 33.
[9]
Trong Hồi ký 41 năm làm báo, Hồ Hữu Tường có kể: Lúc đầu, các cụ chọn bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (có nghĩa là Nguyễn ghét Pháp); bút danh này bị các bạn Pháp phản đối, coi là sô vanh, cực đoan nên mới đổi ra là Nguyễn Ái Quốc. Giai thoại này cần được thẩm tra lại, vì đến nay vẫn chưa tìm được bài báo nào ký bút danh Nguyễn Ố Pháp trên các báo ở Paris trước năm 1919; theo thống kê của A. Ruscio trong “La question coloniale dans L’Humanité (1904 - 2004)”- La Dispute, Paris, 2005, cũng không thấy có. Bút danh này chỉ thấy xuất hiện trên Le Paria các số 31 (11, 12/1924), số 32 (2/3/1925 và số 33 (4/1925). Số kép 36+37 (10, 11/1925), có đưa tin Nguyễn Ố Pháp dự Đại hội lần thứ ba Quốc tế những người lao động trong ngành giáo dục, họp ở Paris sau chuyển sang Bruxellles tháng 8/1925, thời gian này Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đã về nước, còn Nguyễn Ái Quốc đã rời Paris từ 6/1923 và lúc đó đang ở Quảng Châu.
[10]
Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Nxb Chính Trị Quốc Gia, H-2002, tr. 94-95.
[11]
Đặng Hữu Thụ: Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Paris, 1993, chương I, phần gia thế.
[12]
GS Nguyễn Phan Quang-Phan Văn Hoàng: Luật sư Phan Văn Trường, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr.78 và 169.
[13]
Dẫn lại theo Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, sđd, tr.128.
[14]
Léo Poldès: “Le Mystère de Ho Chi Minh”, Ici Paris Hebdo, No 53, 11,12/6/1946.
[15]
Dẫn lại theo Bee.net.vn ngày 4/12/2010.
[16]
Nguyễn Ngọc Giao: Hoàng Xuân Hãn: con người và chính trị, bài đăng Diễn Đàn số 53-54, ngày 6/7/1996.

Saturday 14 June 2014

Tam quyền phân lập không phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta (Bùi Văn Học - An Ninh Thủ Đô)



Tam quyền phân lập không phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta

Thứ ba 10/09/2013 07:16
ANTĐ - Thời gian gần đây, lợi dụng việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã cổ súy cho việc thực hiện cái gọi là “tam quyền phân lập”, đòi tách biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để “kiềm chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này theo mô hình nhà nước tư sản... Đây là những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Quốc hội và HĐND các cấp luôn đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng của người dân
(Trong ảnh: Cử tri phường Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa XIII)

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm việc củng cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; đồng thời, có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước. 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một bước phát triển mạnh mẽ trong việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng ta. Với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta được xác định bởi bốn nội dung quan trọng: thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực.

Thời gian gần đây, lợi dụng việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã cổ súy cho việc thực hiện cái gọi là “tam quyền phân lập”, đòi tách biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để “kiềm chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này theo mô hình nhà nước tư sản và đưa ra các luận điệu “để xây dựng cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, điều kiện đầu tiên là áp dụng hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng”; “điều kiện khác của việc áp dụng chế độ tam quyền phân lập là phải trung lập hóa, phi chính trị hóa lực lượng quân đội và cảnh sát”(?!). Đây là những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 

Cần khẳng định “tam quyền phân lập” có thể phù hợp ở các mức độ khác nhau với một số nước trên thế giới, nhưng không phù hợp với thể chế chính trị nước ta, bởi lẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước theo phương thức nào là phụ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nhân dân là chủ nhân của quyền lực chính trị, quyền lực nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, quyền lực đó chỉ có thể thực hiện một cách thống nhất dưới sự giám sát của nhân dân, chứ không thể phân chia, chia cắt, phân rã. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được bảo đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ trực tiếp (tức là nhân dân trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và xã hội, giám sát hoạt động của Nhà nước) và dân chủ đại diện (tức là nhân dân phân công và ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ chính trị, xã hội, pháp lý của mình đều hướng tới phục vụ nhân dân, thực hiện “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, không để lập pháp vị lập pháp, hành pháp vị hành pháp, tư pháp vị tư pháp như các thể chế “tam quyền phân lập”. Quyền lực nhà nước là thống nhất do tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân và thống nhất về mục tiêu chính trị: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công rành mạch giữa các cơ quan nhà nước là tiền đề quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mặt khác, sự phân công đó cũng rất cần thiết để xây dựng một nền hành chính quốc gia ổn định, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Yếu tố kiểm soát ở đây không phải là sự “kiềm chế”, “đối trọng”, mà là để tăng sự giám sát giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước.

Từ sự phân tích ở trên, tôi hoàn toàn đồng tình với quy định tại Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bùi Văn Học

Friday 13 June 2014

Chỉ thị của Ban Bí thư số 24-CT/TW - Ngày 10 tháng 6 nǎm 1955 "Về chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng giảm tô ở vùng mới giải phóng" (Lê Văn Lương - Đảng Cộng Sản)



Hôm nay, ngày 26 tháng 2 năm 2014
Văn kiện Đảng  Văn kiện Đảng toàn tập
 In trang
Chỉ thị của Ban Bí thư số 24-CT/TW - Ngày 10 tháng 6 nǎm 1955 "Về chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng giảm tô ở vùng mới giải phóng"
15:50 | 23/05/2003
I- Tình hình, đặc điểm các chi bộ nông thôn ở vùng mới giải phóng
Các chi bộ nông thôn vùng mới giải phóng (bao gồm cả ba vùng: tạm bị chiếm, du kích và cǎn cứ du kích) về số lượng đảng viên tuy có sút nhiều, trung bình sút tới 50%, có nơi 80%, 90% so với hồi phát triển mạnh nhất, đôi nơi tan rã hẳn, nhưng thực tế vẫn còn phức tạp rất nghiêm trọng. Qua việc nghiên cứu tình hình chi bộ vùng mới giải phóng trong phát động quần chúng giảm tô đợt 6 và đợt 7 ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Hà Nam, Thái Bình, Quảng Bình đã thấy rõ:
1- Quá trình từ lúc thành lập, xây dựng đến khi địa phương bị địch tạm chiếm đóng, chi bộ cũng bị giai cấp địa chủ lũng đoạn hoàn toàn giống như vùng tự do cũ.
2- Đến khi địch tạm chiếm, chi bộ vốn đã bị bọn địa chủ lũng đoạn, lại bị thêm bọn đế quốc, đảng phái phản động tấn công. Chúng tìm mọi cách cấu kết với nhau chui vào Đảng ta để phá hoại cơ sở, phá hoại kháng chiến, đàn áp nhân dân. Vì thế trong chi bộ, ngoài số địa chủ ra, còn có những tên nội gián, phản động, những phần tử đảng phái phản động. Như ở Hà Nam, trong số 121 chi bộ thì 37 chi bộ phát hiện rõ ràng là có cơ sở Quốc dân Đảng, 23 chi bộ còn hiềm nghi. Số Quốc dân Đảng nằm trong chi bộ cũng chiếm một tỷ lệ khá đông, có chi bộ 50% đảng viên là Quốc dân Đảng, có chi bộ tới gần 90%.
Ngoài ra còn có một số lớn đảng viên trước sự khủng bố, doạ nạt, lừa phỉnh, mua chuộc của đế quốc đã nằm im, chạy dài, đầu thú, đầu hàng, khai báo, thậm chí có một số ít đi đến phản bội. Có một số đã bị địch bắt, chưa rõ thái độ và hành vi khi đứt liên lạc với Đảng, đã được những phần tử xấu trong chi bộ tập hợp và vẫn còn sinh hoạt Đảng cho đến nay. Tình hình đó làm cho chi bộ càng thêm phức tạp nghiêm trọng.
Trong chi bộ cũng có một số đảng viên đã anh dũng bền bỉ chiến đấu chống địch. Nhưng số đảng viên này lại thường bị hy sinh trong chiến đấu hoặc cấp trên điều đi nơi khác, nên còn lại rất ít, thậm chí có nơi không còn.
3- Cơ quan lãnh đạo của chi bộ lại càng phức tạp. Thí dụ: 57 chi bộ của Bắc Giang, Sơn Tây có tới 25,67% tổng số chi uỷ viên là địa chủ, phú nông, nội gián, phòng nhì hoặc đã tham gia các tổ chức phản động. ở Hà Nam, Bắc Giang có nơi Bí thư và chi uỷ viên của chi bộ Quốc dân Đảng đồng thời lại là Bí thư và chi uỷ viên của chi bộ Đảng ta. Có chi bộ từ khi thành lập đến khi phát động quần chúng đã qua 10 khoá chi uỷ, có tất cả 23 chi uỷ viên đều là Quốc dân Đảng và Bí thư chi bộ từ trước đến nay đều do thành phần phú nông nắm giữ.
Trong một số chi bộ có một vài đảng viên tốt được đề bạt vào chi uỷ thì riêng đối với mặt lãnh đạo du kích có ít nhiều tác dụng, đối với các mặt khác vẫn bị bọn địa chủ, bọn phản động tay sai đế quốc lũng đoạn.
4- Do hoàn cảnh vùng tạm bị chiếm, chi bộ phải tổ chức phân tán, hoạt động bí mật; đảng viên ít được sinh hoạt, học tập, kiểm điểm phê bình. Vì vậy lập trường tư tưởng và tác phong của đảng viên có nhiều sai lầm, ý thức Đảng và trình độ chính trị rất kém, nhất là nhận thức về nhiệm vụ chống phong kiến và cả về nhiệm vụ chống đế quốc còn rất mơ hồ.
Ngoài ra, hiện nay còn có một số đảng viên bị đình chỉ sinh hoạt Đảng, đang mong chờ thái độ của Đảng.
II- Mấy vấn đề chủ yếu trong chỉnh đốn chi bộ vùng mới giải phóng
Tình hình các chi bộ vùng mới giải phóng cũng phức tạp nghiêm trọng như các chi bộ vùng tự do cũ, nên mục đích yêu cầu cũng như phương châm chính sách và phương pháp tiến hành của công tác chỉnh đốn chi bộ trong phát động quần chúng giảm tô ở vùng mới giải phóng cǎn bản không có gì thay đổi khác với tinh thần Chỉ thị số 59-CT/TW ngày 29-12-53. ở đây chỉ thêm bớt và cụ thể hoá một số điểm trong yêu cầu và chính sách cụ thể đã nêu trong Chỉ thị đó cho thích hợp:

A- Xử trí đảng viên

Chỉ thị số 59-CT/TW về việc chỉnh đốn chi bộ trong phát động quần chúng giảm tô đã nêu rõ: đối với những phần tử địa chủ, phần tử Việt gian, phú nông phản động, phần tử đầu hàng địch, phản bội và những phần tử mất lập trường nghiêm trọng kiên quyết chống cuộc phát động quần chúng, đã trải qua giáo dục mà không sửa chữa thì kiên quyết khai trừ ra khỏi Đảng.
Chính sách đó áp dụng đối với các đảng viên ở vùng mới giải phóng vẫn thích hợp, nhưng cần quy định cụ thể thêm mấy trường hợp cho sát hoàn cảnh hơn.
1- Trường hợp đầu thú, đầu hàng, phản bội, khai báo
a) Những trường hợp đầu hàng, phản bội theo như Chỉ thị số 59-CT/TW đã quy định, nghĩa là đều khai trừ đảng tịch.
b) Trường hợp khai báo trước địch mà việc khai báo đó đã giúp cho địch có tài liệu để phá hoại cách mạng, phá hoại cơ sở nói chung thì khai trừ đảng tịch. Trường hợp vì bị địch uy hiếp mà khai báo, nhưng việc khai báo đó chưa gây nên tác hại cụ thể và sau đó vẫn tiếp tục hoạt động thì tuỳ theo tính chất nặng nhẹ của việc khai báo mà có thể giữ nguyên đảng tịch hoặc lưu lại trong Đảng một thời gian để xem xét. Nhưng nếu sau khi khai báo lại không chịu hoạt động và đến nay trong phát động quần chúng vẫn không tích cực công tác thì khuyên họ xin ra Đảng.
c) Trường hợp đầu thú có tính chất thông thường không làm gì hại cách mạng, hại nhân dân sau đó lại tiếp tục công tác thì vẫn được giữ nguyên đảng tịch.
Trường hợp khuất phục về chính trị như ký giấy cam đoan không hoạt động cách mạng nữa hoặc tuyên bố ǎn nǎn hối lỗi với địch, nhưng không khai phá cơ sở hoặc chỉ khai cho người đã chết, đã vào vùng tự do xa, v.v., sau đó lại tiếp tục công tác, biểu hiện khá thì có thể giữ nguyên đảng tịch. Nhưng nếu sau đó công tác không tích cực, trong phát động quần chúng tỏ ra không tiến bộ thì khuyên họ xin ra Đảng.
2- Trường hợp tham gia các tổ chức phản động và các tổ chức tôn giáo mê tín
a) Tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền:
- Những phần tử thuộc thành phần giai cấp bóc lột và tay sai của chúng, trong thời gian địch tạm chiếm đóng, đã tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền thì khai trừ ra khỏi Đảng.
- Những đảng viên thuộc thành phần lao động đã tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền trong một thời gian ngắn, quần chúng không có ý kiến gì phản đối, sau khi tham gia vẫn tiếp tục lao động và tiếp tục hoạt động, trong phát động quần chúng biểu hiện tích cực thì được giữ nguyên đảng tịch.
- Những đảng viên thành phần tốt nhưng lịch sử phức tạp, trong thời gian tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền có tội ác với nhân dân, thì khai trừ đảng tịch. Nhưng nếu thời gian tham gia không có tội ác, sau khi thôi làm nguỵ quân, nguỵ quyền tích cực công tác, qua học tập kiểm thảo biểu hiện tốt thì giữ nguyên đảng tịch, nếu biểu hiện không tốt thì có thể lưu lại trong Đảng một thời gian để xem xét hoặc khuyên họ ra khỏi Đảng.
b) Tham gia tổ chức chính trị phản động:
- Những đảng viên trước Cách mạng Tháng 8-45 đã tham gia các tổ chức chính trị phản động nhưng trong khi tham gia không có tội ác, sau này về tổ chức đã cắt đứt quan hệ với tổ chức đó từ lâu, về tư tưởng đã cải tiến, đã triệt để kiểm thảo và báo cáo rõ ràng với Đảng, thì có thể được giữ nguyên đảng tịch. Trường hợp hiện nay về mặt tổ chức và tư tưởng chưa cắt đứt quan hệ với các tổ chức ấy thì khai trừ đảng tịch.
- Sau Cách mạng Tháng 8, những đảng viên đã tham gia các tổ chức chính trị phản động, nói chung đều khai trừ đảng tịch. Trường hợp cá biệt có đảng viên thành phần và lịch sử tốt vì bị lừa dối hoặc uy hiếp mà tham gia các tổ chức chính trị phản động nhưng thời gian tham gia ngắn, chưa có hành động gì tác hại và sau đó đã cắt đứt, trong phát động quần chúng biểu hiện tốt thì có thể được giữ nguyên đảng tịch.
c) Những đảng viên đã tham gia các tổ chức tôn giáo mê tín thì tiến hành giáo dục, nâng cao tư tưởng. Nếu đã hoạt động phá hoại cách mạng hoặc tàn hại nhân dân thì khai trừ đảng tịch.
3- Đối với đảng viên thuộc giai cấp bóc lột
a) Đối với địa chủ và con cái họ thì theo như Chỉ thị số 59-CT/TW.
b) Những đảng viên thuộc thành phần nhân dân lao động, trong kháng chiến đã lập được nhiều thành tích, nhưng vì trình độ giác ngộ thấp, bị bọn địa chủ mua chuộc, dụ dỗ mà đã có những hành động che chở cho bọn chúng, cản trở phong trào phát động quần chúng thì kiên trì giáo dục cải tạo.
Trường hợp đã gắng công cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng trong cả quá trình phát động quần chúng vẫn kiên quyết bao bọc, che chở cho địa chủ, chống phát động quần chúng thì khai trừ ra khỏi Đảng.
Ngoài ra còn một số trường hợp cần phải có thái độ thích đáng:
1. Đối với trường hợp cá biệt một vài phú nông và con cái họ, qua đấu tranh chống đế quốc đã lập được nhiều thành tích, trong phát động quần chúng lại nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của Đảng thì cần được chú ý giáo dục và sau đó điều đi công tác nơi khác để tranh thủ cải tạo.
2. Đối với số đảng viên có nhiều hiện tượng hiềm nghi hoạt động cho các tổ chức phản động thì phải đình chỉ sinh hoạt chi bộ và tiến hành thẩm tra thêm.
3- Những phần tử bản chất xấu đã nằm im, chạy dài, bị địch bắt rồi thả ra hoặc tự ý thoát ly Đảng một thời gian, đã được những phần tử xấu trong chi bộ cho sinh hoạt Đảng từ trước hoặc sau ngày địa phương được giải phóng thì nay không công nhận là đảng viên.
4. Đối với số đảng viên chưa được sinh hoạt chi bộ thì cần chú ý giải thích cho họ tự giác nhận thấy và hoan nghênh việc đình chỉ sinh hoạt và chờ sự thẩm tra của Đảng, mặt khác kêu gọi họ tích cực tham gia phát động quần chúng. Nhất thiết chưa đề ra việc xét và phục hồi đảng tịch cho những đảng viên này trong phát động quần chúng giảm tô.

B- Vấn đề giải tán chi bộ

Đối với những chi bộ cǎn bản xấu, cần phải công khai giải tán và lấy đó mà giáo dục đảng viên và quần chúng, khiến cho đảng viên và quần chúng tiến lên một bước nhận thức được thế nào là Đảng Lao động Việt Nam và người như thế nào mới có thể làm người đảng viên Đảng Lao động.
Những chi bộ cần giải tán là những chi bộ mà trong đó đại đa số đảng viên là phần tử địa chủ, cường hào, phần tử đầu hàng, phản bội, phần tử nội gián hoặc tham gia các tổ chức phản động, trong chi bộ không có đảng viên tốt hoặc cũng có một số ít nhưng không nêu được tác dụng.
Trước khi giải tán, đối với những phần tử xấu có tội ác với nhân dân, với cách mạng, cần khai trừ ra khỏi Đảng. Sau khi giải tán, trải qua theo dõi trong công tác, sẽ tập hợp những đảng viên tốt thuộc thành phần lao động để giáo dục, bồi dưỡng cho họ thành cốt cán của chi bộ mới sau này. Những đảng viên này khi thành lập chi bộ mới, vẫn được tính tuổi đảng từ trước.
Ngoài ra, đối với những chi bộ đã hoàn toàn tan rã, nếu tự động tập hợp lại trước hoặc sau khi địa phương được giải phóng đều không công nhận là chi bộ của Đảng.

C- Vấn đề giáo dục đảng viên

Vì tình hình tổ chức, hoạt động và hoàn cảnh đấu tranh của đảng viên ở vùng mới giải phóng, trước đây có nhiều điểm khác vùng tự do cũ nên việc giáo dục họ trong phát động quần chúng phải được đặc biệt chú ý: không những phải động viên họ tích cực tham gia phát động quần chúng, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, mà còn phải tǎng cường giáo dục, nâng cao lập trường và tinh thần chiến đấu bất khuất chống đế quốc cho họ nữa, làm cho mọi đảng viên nhận rõ cả hai nhiệm vụ: chống phong kiến, đồng thời phải chống đế quốc, phản động để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp và dân tộc.
Muốn đạt yêu cầu nói trên, trước hết phải giải thích kỹ cho đảng viên về chính sách ruộng đất của Đảng, mục đích yêu cầu của chỉnh đốn chi bộ, đồng thời nêu cao thành tích chiến đấu của đảng viên trong thời gian địa phương bị địch chiếm đóng, để ổn định tư tưởng đảng viên.
Suốt trong quá trình phát động quần chúng cần động viên đảng viên thực tế tham gia đấu tranh để rèn luyện và cải tạo họ. Chủ yếu là làm cho đảng viên bước đầu phân rõ ranh giới giữa nông dân và địa chủ để tập trung mũi nhọn chống giai cấp địa chủ, thiết thực phục vụ cho phát động quần chúng thắng lợi. Nhưng đồng thời phải phân rõ ranh giới giữa ta với đế quốc, Việt gian phản động và tẩy trừ ảnh hưởng của chúng trong chi bộ.
Đến bước 5 của phát động sẽ đẩy mạnh công tác giáo dục thêm một bước bằng cách lấy việc học tập lịch sử chi bộ bị địa chủ lũng đoạn và chi bộ đấu tranh chống đế quốc, lấy việc tổng kết công tác chi bộ trong phát động quần chúng, lấy việc biểu dương các đảng viên có thành tích chống đế quốc, chống phong kiến (kể cả đảng viên đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu) để giáo dục đảng viên; nâng cao thêm một bước về lập trường giai cấp, tinh thần chiến đấu bất khuất chống phong kiến và chống đế quốc cho đảng viên.

D- Vấn đề kết nạp đảng viên mới

Tình hình vùng mới giải phóng có nhiều phức tạp; cơ sở Đảng thì non yếu lại bị bọn địa chủ, đế quốc, phản động lũng đoạn nghiêm trọng; quần chúng thì bị địch tuyên truyền lừa bịp, xuyên tạc, nên bị ảnh hưởng xấu khá nặng và ít hiểu về Đảng; phát động quần chúng giảm tô thì tiến hành trong một thời gian ngắn.Việc tìm hiểu, điều tra đối tượng để tuyên truyền, phát triển đảng viên mới gặp rất nhiều trở ngại. Do đó, nói chung chưa đề ra việc kết nạp đảng viên mới trong phát động quần chúng giảm tô ở vùng mới giải phóng. Trường hợp ở những nơi là khu du kích mạnh hoặc cǎn cứ du kích, từ lâu qua đấu tranh thử thách chống đế quốc có cá biệt quần chúng thành phần bần cố nông, đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu, nay trong phát động quần chúng cũng tích cực, có đủ điều kiện là đảng viên, thì có thể kết nạp.
Điều chú trọng hơn hết ở vùng mới giải phóng là phải tuyên truyền gây ảnh hưởng Đảng rộng rãi qua từng bước công tác, bồi dưỡng, giáo dục cho những quần chúng tốt tương đối hiểu về Đảng và có ý thức với Đảng, để chuẩn bị cho việc kết nạp đảng viên mới trong cải cách ruộng đất. Có thể cuối bước 5, đội công tác mở lớp huấn luyện ngắn ngày để giáo dục về Đảng cho họ.

E- Vấn đề tuyển cử chi uỷ, đề bạt đảng viên

Đối với những đảng viên tuy trước đây về tư tưởng lập trường hoặc tác phong, sinh hoạt có sai lầm, nhưng đã tỏ ra bền gan anh dũng chiến đấu chống đế quốc, lập được nhiều thành tích, trong phát động quần chúng lại tích cực công tác thì không những phải chú ý biểu dương và bồi dưỡng giáo dục trong cả quá trình phát động, mà còn phải xét và đề bạt vào các cơ quan lãnh đạo của chi bộ.
Để thích hợp với hoàn cảnh vùng mới giải phóng, đối với số chi bộ có rất ít đảng viên tốt không đủ để lập thành Ban chi uỷ mới, thì chỉ cần cử một Bí thư, một Phó Bí thư cũng được. Tuỳ theo tình hình chi bộ phức tạp nhiều hay ít, tuỳ theo điều kiện từng nơi, không nhất luật phải dùng bầu cử để thành lập các ban chi uỷ. Đội công tác có thể chỉ định, miễn là việc lựa chọn người vào chi uỷ phải thận trọng và phải dựa vào ý kiến của đảng viên tốt và quần chúng tốt.
Chi bộ ở vùng mới giải phóng phức tạp nghiêm trọng; trình độ quần chúng còn thấp kém; thời gian tiến hành phát động quần chúng giảm tô lại ngắn, cán bộ phần lớn lại chưa có kinh nghiệm về phát động quần chúng ở vùng mới giải phóng. Vì vậy các Đoàn uỷ cần tǎng cường lãnh đạo về chỉnh đốn chi bộ: trước hết phải làm cho cán bộ nhận rõ tình hình và đặc điểm của chi bộ vùng mới giải phóng, giải quyết tư tưởng chủ quan cho là chi bộ không có vấn đề gì, đánh giá không đúng tình hình chi bộ; phải tổ chức cho cán bộ nghiên cứu kỹ Chỉ thị này trước khi xuống xã và trong quá trình thực hiện ở xã, Đoàn uỷ phải luôn luôn theo dõi, nghiên cứu tình hình phát hiện ở các chi bộ, đặc biệt luôn luôn theo dõi, nghiên cứu tình hình các tổ chức phản động lũng đoạn chi bộ để có kế hoạch chỉnh đốn cho thích hợp và đôn đốc cán bộ thực hiện.
T/M Ban Bí thư
Lê Vǎn Lương
Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.