Friday 26 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Đi tản cư vào Riền (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 20

 

ĐI TẢN CƯ VÀO RIỀN

          Chúng tôi đã chọn làng Riền để đến tản cư. RIỀN là một làng quê cổ kính, ở cách xa Tam Tỉnh khoảng trên 10 km, ở trong sâu thuộc huyện Duyên Hà. Nơi đây không thuận lợi cho quân đội Pháp chiếm đóng hay đổ bộ từ Namđịnh sang càn quét. Riền là tên gọi thông tục ở bên ngoài, còn trong giấy tờ chính thức thì là làng Duyên Lãng, tức giáo xứ Duyên Lãng thuộc địa phận (giáo phận) Bùi Chu bây giờ. Khi Thái Bình chưa được tách ra thành địa phận riêng như ngày nay, thì Duyên Lãng vẫn còn thuộc quyền cai quản của Bùi Chu, mặc dầu Bùi Chu nằm trong lãnh thổ của Namđịnh. Duyên Lãng thường là nơi đón nhận những chủng sinh của Bùi Chu gửi sang để rèn luyện và thực tập. Do đó, những ngày tản cư ở Riền, anh em tôi (ông Quyến và tôi) sau những buổi lễ ở nhà thờ thường hay có dịp tiếp xúc với những chủng sinh này để chuyện trò về thời cuộc hay hòa nhạc với nhau. Ở đây, chúng tôi đã quen thân với một tu sĩ là Thầy Sáu Trần Đức Huynh. Mấy năm sau, khi Thái Bình được tách ra thành lập địa phận riêng, những tu sĩ vốn ở Bùi Chu trước đây lại được trở về địa phận gốc. Thầy Sáu (sáu chức) về Bùi Chu được thụ phong Linh mục (bảy chức) và trở thành Linh mục Hiệu trưởng trường Trung học HỒ NGỌC CẨN Bùi Chu, hồi Bùi Chu và Phát Diệm trở thành hai tỉnh mới của quốc gia Việt Nam hồi đó. (thời Quốc Trưởng Bảo Đại). Chuyện liên hệ của ông Quyến và tôi với Bùi Chu còn dài. Xin sẽ được kể tiếp ở một chương sau.

          Ở làng Riền, gia đình tôi đến tản cư tại nhà  ông Chánh Trượng một dân vai vế trong làng. Hai ông bà chủ nhà rất niềm nở, đã vui vẻ đón tiếp gia đình chúng tôi, không những không phải thuê mướn gì cả, mà còn dành cho chúng tôi ở những chỗ tốt nhất trong nhà. Phải nói đây là một điểm son trong thời kỳ tản cư hồi kháng chiến chống Pháp, vì ở tất cả các địa phương có người tản cư đến ở, mọi người đều được đón tiếp như vậy. Nhà ông Chánh Trượng, tương đối rộng rãi, mát mẻ và nhất là không có trẻ con. Chỉ có ao nước trong nhà là rất thiếu vệ sinh : nước trong ao là nước của một ao tù, lưu cữu đã từ nhiều năm, màu xanh lè, và trong nước lúc nhúc những sinh vật li ti, khi có những tia nắng xuyên qua trông rất rõ. Nhất là đỉa thì thật là kinh khủng ! Khi có người khuấy nước để rửa tay, rửa chân hay làm gì đó, thì  lũ đỉa con thấy động, nhâu nhâu bơi ra, lúc nhúc trông đến phát sợ. Vì vậy, sau đó ít lâu gia đình tôi lấy cớ này nọ phải dọn sang tản cư ở làng Mạc, là một làng nhỏ cách Riền một cánh đồng khá rộng. Ở đây, gia đình tôi  cũng lại được ông chủ nhà là ông Chánh Thống, một lão nông chất phác, cùng với cả nhà đón tiếp  một cách niềm nở, chân tình. Gia đình tôi ở đây được vừa ý và đã tá túc ở đây cho đến lúc hồi cư về quê nhà.

Thursday 25 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Mộng đẹp không thành (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 19

 

MỘNG ĐẸP KHÔNG THÀNH.

          Nhà ông Trần Hạnh Lâm ở Hội Kê, sát liền cạnh nhà tôi, là nơi đón tiếp một gia đình bà con ở thành phố Namđịnh đến tản cư ở đó. Ông Lâm là một cựu công chức của sở Hỏa xa Hànội, về nghỉ dưỡng bệnh ờ quê nhà. Ông hơn tôi đến 10 tuổi, tính tình rất phóng khoáng, nên đã coi tôi là bạn vong niên và giao du rất thân mật. Ông đã giới thiệu tôi với con gái người bà con tản cư của ông (bà Hanh) tên là cô Liên Thành. Cô này cùng trạc tuổi với tôi, một thiếu nữ dễ thương và là dân thành phố. Chúng tôi quen nhau dễ dàng, và chỉ ít ngày sau đã có quan hệ tình cảm với nhau khá sâu đậm. Nhân thế ông Lâm gợi ý là tôi nên tính đến việc xây dựng tổ ấm với cô Thành. Tôi vui vẻ đón nhận ý kiến của ông Lâm và đã phác họa ra, mơ tưởng đến cái cảnh nên thơ và lãng mạn của tuổi trẻ ngày xưa « Một túp lều tranh, hai trái tim vàng ». Sau đó, tôi đã hý hửng trình bày việc này với cha tôi, hy vọng là cha tôi sẽ đồng ý và  giúp  đỡ. Không ngờ cha tôi đã nghiêm nghị trả lời : « Mày vừa mới lớn, chưa kịp học hành và chưa có nghề ngỗng gì mà đã nghĩ đến chuyện vợ con là thế nào ? Rồi làm gì mà sống đây ? Sẽ sống bằng cái gì ? Không lẽ « ăn đất » mà sống à ? » Tôi mắc cỡ với cha tôi, bị khớp và hoàn toàn cụt hứng. Từ đó, tôi không còn dám nghĩ và nhắc đến việc này nữa. Tôi cũng đã buồn bã mất mấy ngày, quên ăn mất ngủ, nhưng rồi việc ấy cũng nguôi ngoai dần.

          Bỗng nhiên, một buổi sáng sớm có tiếng la ơi ới : « Anh em ơi ! Tây lên ! Tây lên ! Tây đã đổ bộ lên làng mình để càn quét rồi đấy ! Chạy đi ! Chạy mau đi ! » Tôi cùng nhiều người khác, chẳng còn biết làm gì ngoài việc chạy trốn cho lẹ ! Tôi chạy sang làng bên (Gia Lạc), được một lát thấy mệt quá, bèn nghĩ cách lội xuống ao một nhà gần đó bên đường, giấu mình núp trong một bụi cây sát bờ, ngụy trang sau một đám bèo Nhật Bản thật kín đáo, rồi chờ cho bọn Tây đi qua. Lúc bọn Tây đi qua, tôi được thấy rõ đủ cả, nào lính Lê dương (bọn lính chuyên đi đánh thuê ở Âu châu), nào lính thuộc địa Phi châu (tụi Maroc và Sénégal đen xì, rạch mặt) đi trên đường. Đang đi, tự nhiên chúng dừng lại. Tôi hết hồn, phen này chắc là chết rồi. Thì ra có một con bê mà chủ nó chưa kịp đắt đi chạy loạn, còn nằm đó. Chúng sắp sửa dắt con bê này đi để mang về làm chiến lợi phẩm. Nhưng rồi chúng thấy rằng đây là một con bê cái, có thể thay cho một phụ nữ nào đó mà chúng chưa tìm bắt được chăng ? Thế là mấy thằng trong bọn, thi nhau lần lượt hiếp con bê này một cách rất tự nhiên, man rợ, còn cười nói ồn ào nữa ! Tôi đã không ngờ, được chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này, một hình ảnh quái dị và tồi tệ nhất của thời chiến, hết chỗ nói. Sau đó, chúng lại đi tiếp, không quên dắt con bê đi theo ! Tôi thoát nạn rồi trở về nhà an toàn. Thật là hú vía !

          Thời gian này,  thực dân Pháp lại mở rộng mặt trận bên Namđịnh thêm ra vài cây số, đồng thời lập thêm một đồn bốt mới trên sát bờ sông, chỗ bến đò Hữu Bị, tức bốt Hữu Bị ngay Ngã Ba Tuần Vường ngày xưa, đối diện với nhà ngoài, chỗ tôi ở bên này sông. Ngồi đọc sách ở nhà, qua cửa sổ, tôi thấy rõ ràng từng tên lính đi lại trong sân đồn. Đồn binh này khá lớn, có lẽ đến hơn một trăm lính (phỏng đoán vậy mà thôi). Suốt ngày bọn chúng thỉnh thoảng lại bắn thị uy vu vơ sang bên này sông. Tiếng đạn nghe « tắc bọp » dễ sợ, vì đạn nổ hai lần, một lần nổ khi đạn ra khỏi nòng súng và một lần nổ nữa khi đã hết đà hoặc khi tới đích. Người ta gọi loại  đạn này là đạn « đum đum ». Một lần giữa ban ngày, chúng lại cao hứng nã một trái « moóc chê » sang qua sông, rơi trúng ngay vào nơi một người đang cày ruộng là ông Phó Thôn ở Phú Hậu. Cả người và bò đều chết ngay tại chỗ, giữa cánh đồng. Sau vụ này, dân Tam Tỉnh hoảng sợ, thấy cần phải đi tản cư tị nạn ở nơi khác.

Wednesday 24 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Cách Mạng Tháng Tám (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 18

 

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.

Tình hình xã Quần Hiền đang được dần dần cải thiện, thì bỗng nhiên ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc Cách Mạng tháng Tám bùng nổ. Thế là xã Quần Hiền, vừa mới được thành lập sau ngày Nhật đảo chính  Pháp được nửa năm, thì nay lại trải qua một cuộc đổi mới nữa. Nhà Nuớc Cách mạng đã sáp nhập làng Thượng Hộ cũ và xã Quần Hiền mới, thành một liên xã duy nhất gọi là TAM TỈNH. Tên gọi Tam Tỉnh này, cũng vẩn lại do Cụ Giáo Tứ Hội Kê đề nghị và được mọi người thông qua. Ông Nguyễn Hữu Trọng, con trưởng Cụ Giáo Tứ đã đưọc bầu làm Chủ tịch đầu tiên của xã Tam Tỉnh này. Vùng đất Thượng Hộ, Quần Hiền vốn thuộc huyện Duyên Hà, nhưng là đất ngoại đê (ngoài đê quan) và cách xa huyện lỵ, nên Nhà nước đưa sang nhập vào huyện bên cạnh là huyện Thư Trì để đi lại cho thuận tiện hơn. Như vậy Tam Tỉnh là một xã mới của huyện Thư Trì. Hai chữ Tam Tỉnh thường được hiểu như sau : Tam Tỉnh là một xã ở giữa ranh giới ba tỉnh Namđịnh, Hà Nam ở hữu ngạn, và Thái Bình ở đối diện bên tả ngạn sông Hồng. Đó chỉ là nghĩa thông thường, có tính cách đại chúng. Có người nói rằng ở đây, một con gà gáy, dân cả ba tỉnh đều nghe tiếng. Quả là đúng như vậy. Thực ra, Tam Tỉnh còn có một ý nghĩa nữa cao xa hơn, dựa trên hai chữ Tam Tỉnh trong câu nói của Tăng Tử[1]  - một cao đệ của Khổng Tử - là  : « Ngô nhật tam tỉnh ngô thân : - Vi nhân mưu nhi bất trung hồ - Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ - Truyền bất tập hồ », nghĩa là : « Ta, mỗi ngày xét lại bản thân[2]  về ba điều  sau đây :

1.- Mưu tính giúp cho một người, hay cùng làm một việc với người nào đó, đã thật hết lòng chưa ?

2. Cùng với bạn bè giao du có giữ được chữ TÍN chăng ? Bạn bè có tin tưởng mình không ? Mình có giả dối với bạn bè không ?

3. Những lời Thày truyền dạy có học tập, ôn luyện chăng ?

          Xã Tam Tỉnh thành lập chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra. Việt Nam là một trong ba nước, cùng với Ai Lao (Lào) và Cao Miên (Kampuchia) thuộc Đông Dương, cũng còn gọi là Đông Pháp, trước đây là thuộc địa của Pháp. Lúc này, thực dân Pháp lại điên rồ, tìm đủ cách để tái chiếm lại thuộc địa cũ của chúng. Toàn dân Việt Nam đã đứng lên kháng chiến, trẻ già,  trai gái đều theo lời kêu gọi của Cụ Hồ, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cách mạng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mọi người đều quyết tâm thà chết chứ không chịu để mất một tấc đất của tổ tiên và làm nô lệ cho thực dân Pháp một lần nữa.  Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lăng đã dần dần lan rộng ra toàn quốc và kéo dài. Một số dân thành phố Namđịnh đã lục tục chạy sang Thái Bình, đến tản cư tại xã Tam Tỉnh.


[1] Tăng Tử tức Tăng Sâm, con của Tăng Tích. Hai cha con đều là học trò giỏi của Khổng Tử. Tăng Sâm thờ cha mẹ rất có hiếu, lại là người không ham thích danh lợi, nhà rất nghèo, chỉ làm thuê để kiếm ăn, mà dốc lòng học đạo thánh hiền. Ông là người đã học được những điều tâm truyền của Khổng Tử, rồi truyền lại cho cháu nội của Ngài là Tử Tư, người đã đưa ra thuyết TRUNG DUNG mà chúng ta đang tìm hiểu ngày nay.

[2] Mỗi ngày xét lại bản thân là cách tu luyện đem lại kết quả rất tốt, tránh được lỗi lầm, mau chóng sửa đổi, hoàn thiện bản thân. Không những ông tự xét về cách đối xử với bạn bè, giao thiệp với mọi người, mà còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề học vấn.