Tuesday 11 January 2022

Nguyễn Thành Nam có thể làm việc gì có ích cho đời?

 

Ông Cao Xuân Hạo từng than rằng ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần học một chữ nào cũng có thể làm được: đó là Văn và Ngữ.


Ông Nguyễn Thành Nam là một trong số nhiều người đó, đồng thời là một trong số ít người dám lên YouTube để dạy cái ông không cần học một chữ cũng có thể làm được” (ngữ).

Cái nốt này không nói chuyện “chủ trương đưa trẻ em đi lại con đường mà nhà ngữ âm học đã đi” là đúng hay sai. Tôi chỉ ghi nhận mấy chuyện sau:

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết nhà ngữ âm học nào đã chế tác ra chữ quốc ngữ;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết chữ quốc ngữ đã được chế tác như thế nào;

 

-Ông Nguyễn Thành Nam chỉ biết tiếng Pháp và tên của cha Đắc Lộ, còn ngoài ra ông không biết cha Đắc Lộ đã làm gì;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết gì về ngữ âm học ngoài cái tên tiếng Việt của môn học này.

Cả cái video dài gần nửa tiếng của ông Nguyễn Thành Nam chỉ có ba câu sau đây là đúng:

Đôi khi mình không biết mà mình phát biểu ý kiến thì nó sẽ gây hại... Thầy thấy nhiều người thà rằng họ im đi họ đừng nói thì họ sẽ làm việc tốt chứ còn nếu mà họ nói họ sẽ làm hại...  Nhiều người có thể làm việc tốt bằng cách im đi...

(https://www.youtube.com/watch?v=pY5qs3JkCpE)

Monday 10 January 2022

Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông (tiếp theo và hết) (An Chi - Năng Lượng Mới)

 

Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông (tiếp theo và hết)

07:30 | 21/11/2015

|
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng có câu "Mực thước thế gian dầu có phải. Cân xưng thiên hạ lấy đâu tày" (Bảo Kính 172.5)".  

AC: PAD-NCT khẳng định rằng "Mực (hay mức) có nhiều nghĩa" (đây là tên của tiểu đề mục 3). Vậy đó là những nghĩa nào? Hai tác giả này cho biết như sau: "Mực bộ thổ có nghĩa là đen, tham ô, mực (viết), một hình phạt (bôi mực lên chữ thích trên mặt), đạo Mặc, một đơn vị đo lường (bằng năm thước). Các từ cá (con) mực, chó mực cho thấy cách dùng mực đã phổ thông trong tiếng Việt như mực (viết)". Nhưng những nghĩa này cho thấy tên của tiểu đề mục 3 mà PAD-NCT đã đặt ra là một cách gọi hoàn toàn không thích hợp vì "mức" trong tiếng Việt không hề có các nghĩa đó. Rồi họ lại khẳng định rằng nghĩa cổ của "mặc"

[墨] là "đo, mức độ" thì điều này cũng rất sai. "Đo" là một động từ, còn "mức độ" là một danh ngữ có nghĩa khái quát trong khi "mặc" là tên của một đơn vị đo chiều dài cụ thể. Trong 15 nghĩa của "mặc ≡ mực" [墨] đã cho trong Hán ngự đại tự điển (Thành Đô, 1993), không có nghĩa nào là "mức độ". Ta không biết PAD-NCT căn cứ vào đâu mà ghi nghĩa như trên; chỉ biết trước khi dẫn Tiểu nhĩ nhã thì ngay bên trên, Khang Hy tự điển đã ghi một cách cực kỳ súc tích rằng "(mặc [墨] là) độ danh [度名]", mà nếu dịch một cách chính xác thì "độ danh" là "tên [của đơn vị] đo lường". Thì đây: "Ngũ xích vi mặc, bội mặc vi trượng (năm thước là một mực, gấp đôi mực là một trượng)". Vậy "mặc" bằng 5 thước và bằng 1/2 trượng; sao lại nói "mặc" có nghĩa là "mức độ"? Thêm nữa, PAD-NCT cũng dịch không sát nghĩa câu "Bất quá mặc trượng tầm thường chi gian" trong Chu ngữ thành "chẳng qua cũng tầm thường trong khoảng một mực một trượng". Rất sai. "Tầm, thường" ở đây cũng có nghĩa cụ thể như "mặc" và "trượng". "Bát xích vi tầm, bội tầm vi thường" [八尺为尋,倍尋为常], nghĩa là "tám thước là một tầm, gấp đôi tầm là một thường". Vậy nếu đã dịch "mặc", "trượng" thành đơn vị đo lường thì cũng phải dịch "tầm", "thường" thành tên các đơn vị đo lường cho nhất quán chứ không thể dịch "tầm" và "thường" của tiếng Hán thành "tầm thường" trong tiếng Việt được. Và "bất quá" ở đây cũng không phải là "chẳng qua" (trong tiếng Việt), mà là "không bằng" (do ý "không quá" mà ra). Vậy "bất quá mặc trượng tầm thường chi gian" [不過墨丈尋常之間], là "không vượt qua khỏi cái độ dài của mặc, của trượng, của tầm, của thường", tức là nhỏ nhoi, ngắn ngủi.

Hai tác giả cũng không đúng vì cho rằng trong câu Kiều "Phong lưu rất mực hồng quần" thì chữ "mực" phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc", "phù hợp với nghĩa cổ ở trên", tức là nghĩa mà họ đã ghi là "đo, mức độ". "Mực" ở đây phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc" thì dĩ nhiên là đúng nhưng nói rằng nó liên quan đến nghĩa "đo, mức độ" thì sai vì, như đã nói, "mực" (≡ "mặc") là tên một đơn vị đo lường cụ thể chứ không phải là một từ chỉ mức độ chung chung. Cũng vậy đối với chữ "mực" trong câu "Mực thước thế gian dầu có phải" của Nguyễn Trãi. Còn nó liên quan đến cái gì thì chúng tôi sẽ nói sau.

PAD-NCT: "(…) mực với nghĩa mức là một từ thuộc nhóm phổ thông bậc nhất trong tiếng Việt, vẫn còn giữ nghĩa cổ của mặc 墨 là mức, độ, trong khi đó ở Hán ngữ nét nghĩa này có phần mai một, đây là một điều rất đáng lưu ý khi tìm hiểu lịch sử tiếng Việt, người Việt".

AC: Nhưng, như đã nói ở ngay trên đây, "mặc" [墨] không hề có nghĩa cổ là "mức, độ". Cái nghĩa "ngũ xích vi mặc" [五尺爲墨] của chữ "mặc" [墨] mà hai tác giả đã dẫn từ Tiểu nhĩ nhã là một khái niệm về đơn vị đo chiều dài cụ thể, hoàn toàn cụ thể, mà họ đã cưỡng chế thành hoàn toàn khái quát là "đo, mức độ". Ta cũng không biết được hai ông đã thống kê bằng phương pháp nào mà có thể khẳng định rằng "mực với nghĩa mức là một từ thuộc nhóm phổ thông bậc nhất trong tiếng Việt". Còn "mực" với nghĩa là "mức" liên quan đến cái gì thì chúng tôi cũng sẽ nói đến ngay dưới đây.

PAD-NCT: "Mực còn có thể là mặc bộ mịch 纆 [……….] TVGT (Thuyết văn giải tự - AC) ghi mực là sách dã 索也 (dây thừng). Đây là một nghĩa mà rất ít người biết đến! Ta có thể tìm thấy cách dùng chữ mực (viết) thông với dây đo mực 墨 (mực viết) hay mực/mức 纆 (dây đo) đã dùng tương đương trong thư tịch Hán cổ - được ghi nhận bởi học giả nhà Hán Dương Hùng 揚雄 (53 TCN - 18 SCN) trong Giải Trào, một chuyên gia (cũng như là tác giả) "Phương Ngôn"[………]".

AC: Vậy thì cái nghĩa "dây, thừng" ("sách dã" [索也]) của chữ "mặc" [墨] và, hiện tượng chữ "mặc" [墨] bộ "thổ"

[土] cũng dùng thay cho chữ "mặc" [纆] bộ "mịch" [糸] do đâu mà ra? Xin thưa rằng "dây, thừng" (sách dã) thực chất là một cái nghĩa phái sinh từ nghĩa "mực" của chữ "mặc" [墨]. Đó là một hoán dụ đã từ vựng hoá từ danh ngữ "mặc thằng" [墨繩], tức là "dây [có thấm] mực". Nhiều nguồn thư tịch như tc.wangchao.net.cn, zhidao.baidu.com, v.v... đều cho biết rằng "trọng thùy tuyến tại cổ đại thời hậu đích khiếu pháp thị mặc thằng" [重垂线在古时候的叫法是"墨绳"], nghĩa là "vào thời cổ xưa thì mặc thằng là cách gọi dùng để chỉ dây dọi (fil à plomb [Pháp]; plumb line [Anh])". Các quyển từ điển Hán Anh trực tuyến đều dịch "mặc thằng" [墨绳] thành "inked marking string", nghĩa là "dây [có thấm] mực [dùng để] đánh dấu". Trở xuống, chúng tôi sẽ gọi "mặc thằng" là "dây mực" cho gọn. Trong cái đấu mực, tức "mặc đẩu" [墨斗], thì dây mực là bộ phận chính dùng để nảy mực lên gổ làm chuẩn cho việc cưa, xẻ theo đường thẳng. "Nảy mực", tiếng Hán xưa gọi là "phụ thằng" [負繩], mà baike.com/wiki giảng là "dụng mặc thằng đả trực tuyến vu mộc" [用墨绳打直线于木], nghĩa là "dùng dây mực [để] kẻ đường thẳng trên gỗ". Còn Tàu hiện đại thì gọi "nảy mực" (tức "phụ thằng") là "đàn tuyến"

[彈綫]. Nếu hiểu thành danh từ thì "đàn tuyến" là "dây dùng để nảy mực lên gỗ" còn ở đây, chúng tôi hiểu theo động từ, tức là "nảy mực bằng dây mực" (tiếng Việt cũng có dị bản dùng "nẻ" thay cho "nảy"). "Nảy mực bằng dây mực" thường được nói tắt thành "nảy mực", như có thể thấy trong thành ngữ "cầm cân, nảy mực". Và chính vì căn cứ vào cái thực tế cụ thể và hiển nhiên này mà chúng tôi khẳng định rằng "mực ở đây là cái chất sệt thường là màu đen, dùng để viết, vẽ, đánh dấu, v.v... chứ không phải là cái dụng cụ của nghề mộc, như PAD-NCT đã khẳng định, và như chúng tôi sẽ phê phán ngay dưới đây. PAD-NCT: Mực tàu có hiệu Đốc Thằng thẳng ngay [………] "Mực tàu" ở đây chỉ một dụng cụ của thợ mộc vì đề mục đã xác định rõ là "Mộc công bộ", có lý hơn so với nghĩa thường hiểu (hiện nay) là mực (viết) của người Tàu (người Trung Hoa). Nếu mực trong mực tàu là mực viết/vẽ, thì đây chỉ là cách dùng đơn giản hóa trong tổ hợp "mực tàu" chỉ dụng cụ gồm ba thành phần chính: (a) mực (b) dây (thằng) và (c) tàu (hũ chứa, máng chứa mực)".

AC : Vì mải miết theo đuổi cách hiểu chủ quan của họ về hai tiếng "mực tàu" nên PAD-NCT đã không quan tâm đến đặc điểm cú pháp – ngữ nghĩa của danh ngữ này. Hai tác giả cho rằng trong "mực tàu" thì "tàu" là "hũ chứa, máng chứa mực". "Tàu" thì đúng là "máng" nhưng phải là máng có kích thước to, cỡ như máng trong chuồng ngựa, chuồng voi chứ ngay cả máng lợn thì cũng chẳng ai gọi là "tàu". Thế cho nên ta chỉ có "tàu ngựa", "tàu voi", chứ không có "tàu lợn". Vậy "tàu" là một loại máng, nhưng phải là máng to. Đến như nói "tàu" là "hũ chứa [mực]" thì chỉ là nói đùa cho vui về kích thước của cái "tàu" mà thôi. Cái "tàu" không thể nằm gọn trong cái "mực tàu" của PAD-NCT được. Đó là nói về mặt ngữ nghĩa. Còn nói về cú pháp thì, nếu được phép dùng "tàu" với nghĩa "hũ", người ta cũng sẽ phải gọi cái đồ nghề của PAD-NCT là "tàu mực", chứ không phải "mực tàu" vì đây chỉ là cách nói "ngược" của Tàu mà thôi.

TẠM KẾT LUẬN: Với những nhận xét trên đây, ta đã có thể thấy rằng bài "Tản mạn về nghĩa của 'mực tàu' 墨艚 qua từ điển Việt Bồ La (phần 1)" của PAD-NCT có nhiều chỗ sơ hở quan trọng nên không phải là chỗ dựa đáng tin cậy để tìm hiểu về nghĩa của hai tiếng "mực tàu". "Mực tàu", với chúng tôi, vẫn là mực Trung Hoa.

 

Năng lượng Mới 475

Sunday 9 January 2022

Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông (An Chi - Năng Lượng Mới

Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông

14:14 | 16/11/2015

|
Bạn đọc: Trong bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE”, đăng trên Báo Năng lượng Mới số 454 (4-9) & 456 (11-9-2015), ông An Chi vẫn khẳng định rằng “Tàu” trong “mực tàu” là từ dùng để chỉ nước Trung Hoa. Mới đây, www.khoahocnet.com (29-10-2015) đã đăng bài “Tản mạn về nghĩa của ‘mực tàu’  墨艚  qua từ điển Việt Bồ La (phần 1)” của Phan Anh Dũng/ Nguyễn Cung Thông. Xin ông An Chi cho biết nhận xét của ông về bài này. Xin cám ơn. LVT  (Phú Yên)  

Học giả An Chi: Chắc sẽ còn ít nhất là "phần 2" nên kỳ này chúng tôi chỉ xin nhận xét sơ bộ theo trình tự: PAD-NCT (ý kiến của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông) rồi liền ngay dưới là nhận xét của AC (An Chi). Sau đây là các chữ viết tắt của PAD-NCT : - VBL là Từ điển Việt Bồ La); - HV = Hán Việt.

PAD-NCT: "Sinh thì (nghĩa là chết/VBL) so với sinh thì (sinh thời, dạng này hiện diện sau thập bán thế kỷ XIX cho đến nay) nghĩa là lúc còn sống".

AC: Hai tác giả đã so sánh không đúng. VBL có hai mục từ "sinh" khác nhau. Mục trước là "sinh, sóũ [sống]" mà A. de Rhodes dịch sang tiếng Bồ là "vivo" (= sống, còn sống) và tiếng La là "vivus,a,um" (cùng nghĩa). Còn mục sau là "sinh, lên" mà A. de Rhodes dịch sang tiếng Bồ là "subir" (= lên, lên cao) và tiếng La là "ascendo, is" (cùng nghĩa). Mục sau còn có "sinh thì, giờ lên" mà "giờ lên" chính là nghĩa của "sinh thì". Vậy "sinh" trong "sinh thì" là "lên" chứ không phải là "sống" nên không thể đánh đồng "sinh thì" ở đây với "sinh thời" hiện nay được. Huống chi, chính hai tác giả đã khẳng định rằng "sinh thời" chỉ "hiện diện sau thập bán thế kỷ XIX" thì nó không thể trực tiếp dính dáng gì về nguồn gốc với "sinh thì" của VBL (1651). Từ điển từ cổ của Vương Lộc và Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện đều xác định rõ ràng rằng "sinh thì" chỉ là một lối nói riêng của Công giáo. Nó không thuộc tiếng Việt toàn dân. Vậy "sinh thời" không phải là "sinh thì" mở rộng nghĩa.

PAD-NCT: "Nhân danh dùng trong Kinh Thánh (nhân danh cha...) bây giờ đã mở rộng nghĩa (nhân danh đạo đức, nhân danh con người ...)".

AC: Cũng chẳng có mở rộng nghĩa gì cả. Chẳng qua là ở đây, Kinh Thánh đã xài lối nói của tiếng Việt toàn dân.    PAD-NCT: "bơm (bơm thơm - tóc bờm xờm, bù xù) - bây giờ không còn dùng nữa mà thay thế bằng nét nghĩa ống (máy) bơm từ kỹ thuật Tây phương nhập vào. AC: Ở đây hai từ "bơm" cũng chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau cả. Trong "bơm thơm" thì "bơm" là một hình vị không rõ nghĩa của tiếng Việt hiện đại còn trong "máy bơm" thì "bơm" là một động từ có nghĩa và xuất xứ cụ thể (< "pompe" của tiếng Pháp). Thật là dị thường khi hai tác giả lại đánh đồng "bơm" này với "bơm" kia!

PAD-NCT: "Ghe nghĩa là nhiều (VBL) bây giờ không còn dùng nữa, thay bằng danh từ ghe (tàu)". AC: Ở đây ta cũng có hai từ "ghe" hoàn toàn khác nhau. Làm sao có thể nói "ghe" trong "ghe tàu" đã thay thế cho "ghe" có nghĩa là nhiều. Ta chỉ có thể nói "ghe" (= nhiều) là một từ cổ còn từ đồng âm với nó là "ghe" (= thuyền) thì vẫn còn tồn tại trong phương ngữ Nam Bộ.

PAD-NCT: "Non dạ (VBL - buồn nôn) bây giờ hàm ý thiếu suy nghĩ, còn non nớt ...".

AC: Ở mục này, ta phải nhận xét với óc phê phán rằng đây là "nôn" chứ không phải "non", nhất là khi mà chính A. de Rhodes đã liên hệ "non dạ" với "buồn nôn". Đây có thể chỉ là do lỗi in ấn mà ta có thể thấy không ít trong VBL (nên chính A. de Rhodes cũng đã phải làm bảng "Đính chính" [Appendix - Errata declarationis linguae corrige] nhưng vẫn còn để sót nhiều).

PAD-NCT: "Mực (hay mức) có nhiều nghĩa. Mực là một biến âm của mặc HV, thường là chữ mặc bộ thổ 墨 [……….] Chữ Mặc 墨 vốn có một nghĩa cổ là đo, mức độ. Khang Hy Tự Điển dẫn Tiểu nhĩ nhã và Chu ngữ: 小爾雅】五尺爲墨,倍墨爲丈。【周語】不過墨丈尋常之閒。 [Tiểu nhĩ nhã] ngũ xích vi mặc, bội mặc vi trượng (năm thước là một mực, gấp đôi mực là một trượng). [Chu ngữ ] bất quá mặc trượng tầm thường chi gian (chẳng qua cũng tầm thường trong khoảng một mực một trượng). Truyện Kiều có câu "Phong lưu rất mực hồng quần. Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" rõ ràng mực câu này phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc", phù hợp với nghĩa cổ ở trên.

 

Năng lượng Mới 474

 

 https://petrotimes.vn/ve-mot-bai-viet-cua-phan-anh-dung-nguyen-cung-thong-349441.html

Saturday 8 January 2022

Moong mỏ là gì?

 Phu mỏ thời Pháp thuộc xuống làm việc ở độ sâu bao nhiêu mét thì gọi là moăng bấy nhiêu. Tiếng Pháp là moins (dấu trừ chỉ số âm). Xem mấy ví dụ sau:

* Chúng tôi cứ vào làm moăng cát-to này làm chỗ hôm qua chứ bác cai ? Đàn-Bà số 112 (1941:5, Nguyễn-Ngọc-Kha)

* Không, kíp anh hôm nay làm dưới moăng-tăng-xanh có cái làm cần ngày hôm nay cho kíp thứ ba phải tới muya để sáng mai cậu  ký họa xuống vẽ còn gửi về cho chủ. Đàn-Bà số 112 (1941:5, Nguyễn-Ngọc-Kha)

* Lại một lần ở nóc  « bốt  » số 4 tôi chắc chắn đóng máy rồi mới trèo lên, thế mà không biết đứa nào vô ý lại mở, dật mình bắn lên, may mà rơi vào bãi cỏ, chứ xa tý nữa thì lăn xuống đến tận moăng-tăng-xanh nát người ra. Đàn-Bà số 117 (1941:11, Nguyễn-Ngọc-Kha)

Moăng cát to  cote -14m (âm 14 mét) ; moăng tăng xanhcote -35m (âm 35 mét).

Moăng trong mấy ví dụ trên chính là moong trong moong mỏ.

Nghĩa gốc của moong có thể thấy rõ ở bài báo sau:

Mùa hạ moong ở mỏ lộ thiên Cọc 6

Công ty CP Than Cọc Sáu là một trong những mỏ lâu đời và xuống sâu nhất của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. Đó vừa là niềm tự hào mà cũng là thách thức lớn trong chặng đường hình thành và phát triển của đơn vị 60 năm qua.

Thăm moong sâu -300

(https://dichvucong.quangninh.gov.vn/Default.aspx?tabid=121&ctl=ndetail&mid=511&nid=181653)

Cũng bài báo đó viết:
Hạ moong như Ninh nói, tôi hiểu đó là quá trình bơm nước, xử lý bùn… để nền moong sạch, phục vụ cho việc mở vỉa khai thác than. Với đặc thù khai mỏ lộ thiên như Cọc 6 chỉ có thể khai thác 7-8 tháng/năm thôi, nên việc hạ moong phải tính toán làm sớm để có thể ra than thuận lợi.

Hạ moong xong rồi mới mở vỉa (ouvir un gisement).

Bài báo đó viết
mong như moong:
Mùa hạ mong mới - hành trình xuống sâu để chinh phục đỉnh cao

Cùng kiểu chuyển đổi moăng / moong / mong còn nhiều trường hợp khác trong tiếng Việt như:

 

 

boăng-tơ pointeur. thư ký ~ secrétaire-pointeur.[i]

bon 1 point. bản sấp ~ classement par points ; cho ~ donner des points ; đúng ~ exactement [point par point].[ii]

bonpointer.[iii]

boong 2 point. ~ xuống hàng point à la ligne.[iv]

bông mo point mort.[v]

bông tu pointeau. ~ bình xăng con pointeau de carburateur.

poong tu pointeau. ~ trong bình xăng con pointeau de carburateur.[vi]

 

 

Bon ca rê Pointcaré.[vii]

Poanh ca rê Poincaré. ~  chiến tranh  Poincaré-la-Guerre.[viii]

Poăng ca rê Poincaré.[ix]

 

 

 

 

 

coăng tơ rô (BOISSON) cointreau.[i]



[i] * Ăn gỡ nho táo lê, bánh kem, kẹo súc cù là,... uống rỡ rượu coăngtơrô, píppécmanh, canhkina,... mượn gỡ quần áo, bôi gỡ phấn sáp nước hoa, mở gỡ kèn hát để nhảy gỡ với nhau. Nguyên Hồng (2005c:694)

coong trô Cointreau.[x]

quanh trô Cointreau.[xi]


doàng joint.[xii]

gioang  (MÉCANIQUE) joint.[xiii]

gioàng  (MÉCANIQUE) joint.[xiv]

gioăng 1  (MÉCANIQUE)  joint. ~ cổ hút joint de collecteur d’admission ; ~ cổ xả joint de collecteur d’échappement ; ~ mặt bích joint à brides ; ~ mặt bít joint à brides ; vòng ~ anneau de joint.[xv]

joăng joint. [xvi]

joen joint.[xvii]

roan joint.[xviii]

ron joint. ~ bằng cao su joint en caoutchouc ;  ~ mặt bích joint à brides ; ~ mặt bít joint à brides.[xix]

roong joint. ~ cao su joint en caoutchouc.


[i] Sương nằm cạnh Bạch, muốn tìm một chút cảm giác bùi ngùi để thấu hiểu cái gió mơ cho rõ hơn, để yêu thương mình hơn lên trong đêm đất khách gió thổi, tự ví mình như một người phẫn uất với gia đình vì mình là một kẻ lỡ lầm và vì muốn cho họ hàng quên mình, liền cầm một mảnh bằng vào đất mỏ xin một chân thư ký boăng-tơ, rồi bị Tây chủ đuổi ra cửa, rồi bị chủ quán bắt nợ hành lí vì thiếu tiền cơm, rồi bị tự ái đoạt mất con đường về cổ lí. Nguyễn Tuân (2006c:161)

NQT (1992:72), NNY (1999:176)

[ii] * Rồi đến hiệp ba thì ăn lại ; song ban đầu cũng để cho bên kia ăn 4 bon như mình, rồi mới ráng mà ăn luôn một giọt. Trung Lập Báo số 29 (1924:3)

* Bon nhơn cho 4. Trung Lập Báo số 124 (1924:2)

* Phải chi anh ta đề phòng cẩn-thận thì có lẻ ăn đặng, vì coi bon (points) của anh ta trổi hơn của Faure. Trung Lập Báo số 152 (1924:4)

* Bữa thứ năm 24 tây, có sáu cập vỏ-sỉ tỉ-thí nữa thì ắt sữa đổi cái bản sấp bon (points) nầy chớ chẳng không. Trung Lập Báo số 154 (1924:4, L. T.)

* Song lòng va không phục, cho là Giám-cuộc và bàn trị-sự bất công, tư-vị Bathandier nên cho bon (points) Bathandier, nên nay quyết trã thù. Trung Lập Báo số 180 (1924:4)

* Vì chọc gái, thả giọng trừu, chủ xe rình bắt đặng, giận không biết săn sóc lo lắn xe cho chủ, lảnh xe ra bỏ đậu bến, chủ mắng nhiếc, tới tháng lảnh tiền, chủ phát đũ bob, không thiếu một đồng, bổn phận làm không sốt sắng, làm cho chủ mất lòng tin cậy đứa ăn ở. Trung Lập Báo số 181 (1924:4)

* 3- Một bài luận Pháp văn (thơ từ, một chuyện thường hay là làm một cái rặp-bo để thường.) Hai giờ - Bon nhơn cho 4. Trung Lập Báo số 244 (1924:1)

* Bon định được chấm đậu là 330. Trung Lập Báo số 244 (1924:1)

* Đó thím thấy không : tôi nói cái gì là y bon cái đó ! Lê Xuyên (1965:308)

* Đúng bon như vậy. Lê Xuyên (1965:400)

CVC (1963:80), HCT (2007:1389)

[iii] * Không TKS nào muốn bị dạ chiến vì bị dạ chiến có nghĩa là... nhiều “bơ phờ” mệt mỏi, có nghĩa là... từ nay sẽ bị “bon-tê”, và có nghĩa là... sẽ phải bị dạ chiến thường xuyên hơn! Đa Hiệu 102 (2014:232, Tsu A Cầu)

[iv] * Ông Hương-tuần đoán đúng boong đa !... Lê Xuyên (1965:39)

* Ngay boong trên đường, Hạm phó. Thế Kỷ 21 số 52 (1993:82, Trần Quán Niệm)

* Đúng boong giờ Ngọc hẹn. Nguyễn Đông Thức (2006:18)

* Căn cứ hỏa lực Tango nằm ngay boong trên một cái đồn cũ của Tây. Đa Hiệu 98 (2013:242, Vương Mộng Long)

LVH (1957:113), NQT (1992:75)

[v] KMA (1977b:127), TTA (2009:28)

[vi] TTA (2009:99)

[vii] * Hay là triều đình Annam tâu cùng Đức Kim Hoàng-thượng xin ngài lập một hội Hàn-Lâm (Académie) đễ làm quyển sách ấy, hoặc thêm tiếng mới vô, như : sà-bong, nhà ga, cái son, cái tách, ô-tô, còn như king-đô các nước, các tánh danh thì đừng âm theo chữ Tàu, âm cho gần chữ gốc như : Ơ-rốp, Phơ-răng-xơ, Ba-ri, Ăn-lê, Ben-gít, Bon-ca-rê, Cờ-rít-tốp cô-lôm, Na-bô-lê-ông, Sa-rô v. v. Hồ Văn Lang (1924:166)

[viii] * Nước Pháp do Poanh-ca-rê làm tổng thống. Hồng Hà (1976:73)

* Hắn là một con người cực kỳ phản động, giữ vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhân dân đặt cho hắn cái tên « Poanh-ca-rê chiến tranh ». Hồng Hà (1976:73)

* Anh nhớ nhiều đến kinh nghiệm của Đảng cộng sản Pháp chống tên phản động Poanh-ca-rê cầm đầu chính phủ Pháp lúc bấy giờ. Hồng Hà (1976:136)

* Khi đến thăm một nghĩa địa có hàng nghìn mộ lính Pháp, Poanh-ca-rê nhăn răng cười. Hồng Hà (1976:136)

* Đảng cộng sản lấy được bức ảnh đó cho in ra hàng triệu tấm dưới đề chữ « Poanh-ca-rê nó cười » và bán khắp nước Pháp. Hồng Hà (1976:136)

* Bức ảnh đó gây một phong trào sôi nổi chống Poanh-ca-rê và cuối cùng chính phủ của hắn đổ. Hồng Hà (1976:136)

[ix] * Một hôm có một nhà toán học nổi tiếng đi từ Phần Lan sang Pari để gặp Poăngcarê. Lê Hải Châu (2013:191-192)

[x] LNT (1993:513)

[xi] Ngồi cạnh một cái bàn trên đặt hai chai Uýt-xki và Quanh-trô là một người lực lưỡng, nặng gần tạ, quai hàm bạnh, mắt nâu, ria mép chum chủm. Ma Văn Kháng (2003VI:558)

[xii] NQT (1992:151)

[xiii] Toàn bộ gioang và can máy. Nghị định 23-LĐ/NĐ năm 1958 ban hành bản tiêu chuẩn kỹ thuật một số nghề nghiệp của công nhân cơ khí do Bộ Lao Động ban hành ngày 7/4/1958

NQT (1992:151), TTA (2009:57)

[xiv] NQT (1992:190)

[xv] * Và các cơ sở hóa chất thuộc khối xí nghiệp địa phương nghiên cứu sản xuất tanin, gioăng ống nước, cuppen ô tô, nắp chia điện, má phanh và lá côn ô tô, thuốc tẩm gỗ chống mục, chế biến bột khoai nước, bột ngô và các loại rau cải, xu hào, bắp cải v.v... Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 6 (1963:63)

* Anh xem, nhôm dầy năm ly, nắp bầu dục, xoay kín gioăng, trên có su-páp an toàn để phì hơi. Ma Văn Kháng (2003III:87)

NQT (1992:190)

[xvi] Chúng chỉ hỏng vì mỗi cái joăng cao su ở bên trong mới tức. Nguyễn Thanh Bình (2009:302, Trần Đức Tiến)

[xvii] * Kết quả tốt, đạt được những yêu cầu nói trên và phẩm chất không kém da joen ngoại. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 7 (1962:40)

[xviii] Theo phát ngôn viên Air France, thì có thể sự hiện diện của các roan đã cản trở việc kiểm tra các ốc vít. Nam Úc Tuần Báo số 823 (2011:20, RFI Thụy Mi)

[xix] TTA (2009:104)