Thursday 21 April 2022

Ai dám đứng chung với Trotsky?

Trốt-xki và Xta-lin hục hặc với nhau từ thời nội chiến sau Cách Mạng Tháng Mười. Sau khi Lê-nin mất (1924), Trốt-xki thất thế dần rồi bị Xta-lin đuổi ra khỏi Đảng năm 1927.

Ở Pháp, Thư Điếm Lao Động (Librarie du Travail – viết tắt là LdT) không theo Xta-lin (Đệ Tam Quốc Tế) mà theo Trốt-xki (Đệ Tứ Quốc Tế). Năm 1935 LdT còn dám in quyển La bureaucratie stalinienne et l’assassinat de Kirov của Trốt-xki tố cáo tệ nạn quan liêu của triều đại Xta-lin và vụ ám sát Ki-rốp.

LdT ra được khoảng 150 đầu sách từ năm 1918 đến 1939. Tôi không có danh sách xuất bản phẩm của Ldt trong ba năm hoạt động cuối cùng nhưng trong số 128 ấn phẩm của LdT trong giai đoạn 1918-1936 có ba tựa của Lê-nin, tám tựa của Trốt-xki và không có tựa nào của Xta-lin. Riêng năm 1926, đang lúc rất khó sống với Xta-lin ở Nga, Trốt-xki vẫn có sách in ở LdT. Cũng trong năm này LdT in Les Procès de la Colonisation Française (tức Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp) cho Nguyễn Ái Quốc.

Wednesday 20 April 2022

Mình hạt sương mai hay mình hạc xương mai?

Phú Đức (Lữa lòng cuốn thứ tư, trang 104) đối xương mai với vóc liểu. Trong cùng một câu Phú Đức có năm lỗi chính tả theo chuẩn thời nay, nhưng người đọc năm 1928 không thấy vấn đề gì (cạng, giãi, liểu, lữa, thõa). Người Nam thời ấy khi nói về thân thể có thể viết xương mai / sương mai không phân biệt, nhưng đều hiểu đó là khung cốt chứ không hiểu là hạt sương.


 

Monday 18 April 2022

Phốt nào là phốt nào ?


Phốt 1 nghĩa là lỗi (gốc tiếng Pháp là faute). Có các loại phốt như phốt lơ đễnh (faute d’inattention), phốt nặng (faute lourde), phốt nghiêm trọng (faute grave), phốt nhẹ  (faute légère).  Có phốt / dính phốt nghĩa là có lỗi (avoir {fait / commis} une faute).[i]

Phốt 2 nghĩa là cái hố (gốc tiếng Pháp là fosse). Bể  phốt (fosse d’aisance) còn gọi là hố xí.[ii]

Phốt 3 gốc tiếng Pháp feutre (có khi được phiên là phớt).  Thay phốt nhớt là thay cái gioăng phớt (remplacer le joint [en] feutre pour la jauge à huile).[iii]

Phốt 4 từ chỉ thành phần kết nối tay lái với khung/sườn xe. Tiếng Pháp là potence, còn được phiên phốt tăngpô tăng.


[i] * Mục-đích sự học Cao-đẳng là để mở mang trí-thức cho người ta, nên không có hạn-định gì, những nghĩa-lý rất cao-thâm, những tư-tưởng rất mới lạ, thường giảng-giải đến luôn, thày giáo chỉ chủ phát-minh lẽ phải, khám-phá sự thực, học trò phải lĩnh-lược được hết cái tinh-thần ; chứ không phải là chỉ dạy cái hình-thức câu văn, viết văn không mất « phốt » mà thôi. Nam Phong Tạp Chí số 73 (1923:90)

* Hai cụ chỉ chữa cho vài cái « phốt » chữ tây vô-ý không biết, còn thời nhất-định quyết rằng nghe được, không những nghe được mà lại có cái giọng nhiệt-thành bạo-dạn, chắc sẽ có ảnh-hưởng, không đến nỗi là những lời không-ngôn. Nam Phong Tạp Chí số 93 (1925:223, P. Q.)

* Tao mất ba « phốt »... Nam Phong Tạp Chí số 96 (1925:553, T.-V.)

* Hồi năm 1926, nhà in ấy in xong trọn bộ Kinh-thánh quốc-ngữ, suốt cả 327 trang giấy, người ta khó tìm lấy được một phốt in nào. Tri Tân Tạp Chí số 49 (1942:4, Hoa Bằng)

* Moa biết rất rõ toa là người có tầm cỡ chiến lược, để toa phụ trách một quân đoàn cũng phí lắm ; nhưng hiện nay toa đang có « phốt » và hồi toa ở dưới đồng bằng thiên hạ cũng dị nghị về toa ghê gớm lắm. Nguyễn Khắc & Lê Kim (1976:61)

* Duy còn những tờ báo in bằng chữ Nhật là còn phải xếp chữ, sửa phốt trên bản kẽm mà thôi, nhưng công việc này tổ chức cũng mau lẹ chớ không kéo dài như ở nước ta. Vũ Bằng (2003t:331)

* Vạn sợ cái “phốt” ấy đấy, cái phốt Vạn trót sờ tý mụ hôm mụ sang xin muối. Dương Hướng (2004:286)

ĐVT (1950:565), LVĐ (1970b:1169), NQT (1992:328), TTA (2009:97)

[ii] * Ở những nhà xây dựng sau này, phương pháp phổ biến là xây bể “phốt” nhiều ngăn để xử lý phân theo kiểu “tự hoại”. Đinh Anh Tuấn (2006:27-28)

* Nhưng thợ vừa đến đào bể phốt ngay dưới chân cầu thang trời thì chủ căn hộ cạnh đầu cầu thang cấm. Trần Đĩnh (2014-2:323)

* Giọng run rẩy, nghẹn lại nói tiếp, sáu mươi năm làm cách mạng không đào nổi cái phốt cứt! Trần Đĩnh (2014-2:323)

CBT (2006:14), TTA (2009:97)

[iii] TTA (2009:97)

Sunday 17 April 2022

Phong cách chính là người vậy

Buffon nói rằng phong cách chính là người vậy (Le style, est l'homme même / Le style, c'est [tout] l'homme).

Đọc đoạn văn sau đây có thể thấy bút lực của người viết thật đáng sợ: 

Ils étaient accoutumés à  boire   un   alcool   qui   présentait    un   certain   goût empyreumatique agréable, dû à la quantité des matières premières que, eux , ils employaient et, parmi lesquelles, un riz des plus délicats : la drogue qu'on ingurgite de force aux Annamites, est fabriquée avec des riz à bon marché, des ingrédients chimiques et a un sale goût.

(Nguyen Ai Quac – Le Procès de la Colonisation Française)

 

Empyreumatique tiếng Pháp nghĩa là khét. Đồng nghĩa với nó là brûlé. Đồng nghĩa nhưng phạm vi sử dụng khác nhau: empyreumatique là từ dùng trong hóa học ; brûlé là từ phổ thông. Tần số sử dụng cũng khác nhau: empyreumatique  chỉ xuất hiện đúng hai (2) lần trong khi brûlé xuất hiện 2123 lần trên các văn bản văn chương của TLF - Trésor de la Langue Française (tổng kích thước khối ngữ liệu là 150 triệu lượt từ). Kết quả thống kê này cho thấy rằng nếu đi hỏi một người Pháp học vấn phổ thông empyreumatique là gì, ta có thể chắc chắn là người đó không trả lời được trong khi xác suất để người đó đã từng nghe/gặp và hiểu brûlé là khá cao (cao hơn cả từ savon, nghĩa là xà bông / xà phòng, có tần số trên các văn bản văn chương là 452).

 

Một người không học hóa học khó có khả năng tiếp xúc với từ empyreumatique, càng không có lý do gì phải sử dụng từ đó để nói với những người không học hóa học, nhất là khi có sẵn một từ ai cũng hiểu là brûlé. Tuy nhiên hai khả năng sau đây có thể xảy ra ở một câu văn dùng từ empyreumatique:

1)     Một người ngoại quốc (Việt Nam chẳng hạn) tra từ điển Việt Pháp thấy mục từ khét = brûlé, empyreumatique chọn hú họa một từ với niềm tin rằng cả hai cách dịch tương đương với nhau. Chuyện này vẫn thường xảy ra ở những người học ngoại ngữ chưa đến nơi đến chốn. Đầu thế kỷ 20 chưa có từ điển Việt Pháp nên nếu phải đi qua nhiều chặng trung gian Việt Hán, Hán Pháp hay Việt Nhật, Nhật Pháp thì khả năng dùng từ ngữ sai phạm vi phong cách càng dễ xảy ra hơn.

2)     Người viết dùng từ ngữ bác học với một ý đồ phong cách nào đó. Một là khoe chữ. Hai là tạo cho câu văn một dáng vẻ khoa học, khách quan với ý định giễu nhại. Hoặc cả hai. Nhưng muốn gì thì cũng phải là người có hiểu biết về hóa học (như Nguyễn Thế Truyền) mới dùng chữ kiểu này được.

 

Lẽ thường phải là như thế. Dĩ nhiên không đúng với các trường hợp thiên tài xuất chúng, không cần học hóa học, không cần học cả tiếng Pháp nhưng vẫn viết được tiếng Pháp như các kỹ sư hóa học.

Friday 15 April 2022

Chơi chữ tài tình trong Procès de la colonisation française

 

Tiếng Pháp có từ chinoiserie, vốn dùng để chỉ những thứ có mùi Tàu. Từ này dùng ở số nhiều (chinoiseries) chỉ hàng mỹ nghệ của Trung Quốc nói chung: magasin de chinoiseries (cửa hàng mỹ nghệ Trung Hoa), cũng có thể dùng để chỉ những chuyện rất ư là phiền toái, rắc rối, không giống ai... vì người Pháp vẫn nghĩ “Tàu là thế”.
Dựa vào từ chinoiserie Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra từ indochinoiserie để chỉ một sự hết sức vớ vẩn chỉ có ở Đông Dương:
Vous diriez peut­être que c'est une vaste indochinoiserie que de faire gouverner un pays par un homme qui n'y entend rien.
Bản dịch của nhà xuất bản Sự Thật (1975):
Có lẽ các bạn cho rằng đưa một người không hiểu gì về Đông Dương đến nắm vận mệnh Đông Dương thì thật là một trò hề lớn kiểu Đông Dương chứ gì.

Thursday 14 April 2022

Công sứ Darles chưa bao giờ bán cháo

 

Bản án chế độ thực dân Pháp có ít nhất hai lần gọi công sứ Darles là anh hàng cháo:

Cái ông Đáclơ ấy quả là một nhà cai trị có tài. Khoa cai trị của ông ta, ông ta đã học được ở khu phố latinh khi ông còn là một anh hàng cháo.
(Ce M. Darles est un administrateur de valeur. Il a acquis sa science politique au Quartier latin, où il fut marchand de soupe.)
...
Chễm chệ đứng đầu một tỉnh có hàng vạn dân, và được giao cho quyền hành tuyệt đối, ông ta vừa là tỉnh trưởng, vừa là thị trưởng, vừa là quan toà, vừa là mõ toà, vừa là người đốc thuế; tóm lại, ông ta nắm trong tay tất cả mọi quyền hành: Toà án, thuế khoá, điền thổ, tính mạng và tài sản của người bản xứ, quyền lợi của viên chức, việc bầu cử lý trưởng và chánh tổng, tức là vận mạng của cả một tỉnh được đặt vào tay cái anh hàng cháo ngày xưa ấy.
(Confortablement mis à la tête d'une province de plusieurs milliers d'habitants et investi d'un pouvoir sans contrôle, il est préfet, maire, juge, huissier, garnisaire, en un mot, il cumule tous les pouvoirs. Justice, impôt, propriété, vies et biens, des indigènes, droits des fonctionnaires, élections des maires et chefs de canton, c'est­à­dire la destinée d'une province entière est confiée aux mains de cet ancien popotier.)
Bản dịch này có chỗ không ổn.
Trước hết, cháothức ăn lỏng nấu bằng gạo hay bằng bột (Văn Tân, 1994:144) và thường thì nói tới cháo là người Việt nghĩ ngay tới gạo (Lê Văn Đức et al., 1970a:264). Nhưng người Việt thường dùng gạo để nấu thành cơm, ít khi nấu cháo. Bữa ăn trong tiếng Việt còn được gọi là bữa cơm. Ăn cháo là chuyện vạn bất đắc dĩ. Người Việt không ăn cháo nếu không đau ốm hoặc không quá túng thiếu.
Nhưng ở Pháp người ta không mấy khi ăn cơm. Bây giờ vẫn thế. Cách đây một thế kỷ chỉ nhà giàu mới rùng rẻng bạc tiền đi ăn cơm Tàu. Ăn được một bát cháo ở trời Tây còn khó hơn. Làm chủ hàng cháo ở khu phố La Tinh đại khái cũng giống như mở nhà hàng 5 sao giữa thành phố Hồ Chí Minh bây giờ.
Các từ marchand de soupepopotier trong bản gốc chỉ nhấn mạnh xuất thân hạ tiện của công sứ Darles, nguyên là một tay bán hàng ăn bình dân. Không việc gì phải đoán xem soupecháo hay xúp, món nào sang trọng (hay hèn kém) hơn món nào. Xúp là một món chủ lực của người Pháp nên từ soupe cũng có nghĩa là bữa ăn, không khác gì người Việt gọi bữa ănbữa cơm.
Theo cùng nguyên tắc này, người Công Giáo Việt Nam không xin bánh mì khi đọc kinh Lạy Cha:
Xin Cha cho con lương thực hàng ngày dùng đủ.
Pain trong tiếng Pháp (Donnez-nous aujourd'hui notre pain quotidien) panis trong tiếng La Tinh (Panem nostrum supersubstantialem da nobis hodie) có thể là miếng bánh đối với Tây, nhưng là bát cơm của ta. Nó là lương thực, là cái ăn trong mọi trường hợp.

Wednesday 13 April 2022

Bà Rôm là ai?



Lê Đức Dục và Phạm Xuân Dũng giải thích nguồn gốc địa danh đồn điền Bà Rôm / Mụ Rôm như sau:

Đường 9 hoàn thành, công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp cũng đã được cấp thời tiến hành với hàng loạt đồn điền mọc lên dọc đường 9 như đồn điền cà phê của một bà đầm người Pháp tên Camerom mà dân quen gọi là đồn điền “Bà Rôm” (nay thuộc xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa), các đồn điền mang tên các ông chủ Tây như Poilan, Lavan, Pecada, Alain, Auperi...

(Đường 9 - dâu bể trăm năm - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

Xem giấy tờ của Phòng Nông Phố Trung Kỳ (Chambre Mixte d’Agriculture et de Commer de l’Annam) thấy Bà Rôm chính là Mme Rome. Tên đầy đủ của bà là Marie Rome. Có tên ông Rome, thường là bên trên tên bà, trong các danh sách của Phòng Nông Phố Trung Kỳ.

Tạp chí Journal d’Agriculture et de Botanique Appliquée (Nông Nghiệp và Thực Vật Học Ứng Dụng) năm 1935, số 167 và số 168 có đăng bài “Aperçu sur la culture du caféier en Indochine française”, trong đó tác giả A. Rome có nhắc đến đồn điền của mình ở vùng cao Quảng Trị (số 168, tr.612: Sur notre plantation du Haut Quang Tri – le Borer se comporte de même au Kontum et dans tout le Sud-Annam – nous avons remarqué que la galerie du Borer avant de s’enfoncer dans l’intérieur de la tige décrivait une ou plusieurs spires presque en surface du tronc sous l’écore). Nhiều khả năng ông A. Rome này chính là chồng của bà Rome.