Showing posts with label bại não. Show all posts
Showing posts with label bại não. Show all posts

Thursday 5 July 2018

Phướng pháp làm mờ điểm sáng làm sáng điểm mờ (Quan Văn Đàn - Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM)

(http://tuanbaovannghetphcm.vn/phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo-so-499/)

Giáo sư Phan Huy Lê với đệ tử và cộng sự vừa xuất bản công trình Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ, do Tạp chí Xưa & Nay và Nhà Hồng Đức ấn hành, H.2018. Đây là tập hợp các bài viết của Giáo sư và cộng sự đã đăng trên Xưa & Nay nhằm phản bác lại ý kiến trao đổi của các tác giả trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Có vẻ khách quan, trong Bảng I. Thống kê bài viết trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh gồm 34 bài mục của 19 tác giả (theo bút danh). Bảng II. Thống kê bài viết trên tạp chí Xưa & Nay và tạp chí Nghiên cứu lịch sử, gồm 12 bài mục của 11 tác giả.

Đây là dấu hiệu chứng tỏ nạn học phiệt không còn ngự trị tuyệt đối trên diễn đàn sử học. Bởi một bên là Giáo sư Sử học – Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, một trong bộ tứ “Lâm – Lê – Tấn – Vượng” đã ngự trị trên Diễn đàn sử học từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước cho đến gần đây và có thể là cả hiện nay, tuy không còn vẹn nguyên và các cộng sự là các Giáo sư – Tiến sĩ, Phó Chủ tịch, Phó Tổng thư ký, Phó Hiệu trưởng… Còn bên kia là các nhà văn Vũ Hạnh, Chu Giang; nhà báo Đặng Minh Phương, còn lại đều là các bạn đọc rất quan tâm đến Sử học nước nhà, phần lớn làm việc ở các ngành nghề khác. Bởi thế… “các vị (các tác giả trên VN TP.HCM) không có cùng một nền tảng kiến thức, lại khác xa nhau về phương pháp tiếp cận, nên làm sao có thể cùng nhau đi đến ngọn nguồn của vấn đề” (Xưa & Nay, sđd, trg.190), cũng là dễ hiểu.
Đây là một ngộ nhận rất lớn của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự mà chúng tôi sẽ trao đổi dưới đây.
Thông thường trong sự biện luận, các yếu điểm của đối phương được khai thác để tạo ra hiệu ứng đôminô, tựa như lấy đoản binh để thắng trường trận. Song, với nhà học thuật chân chính và cầu thị, thì bỏ qua những bắt bẻ vụn vặt, xem cái đại ý của người trao đổi có điều gì cần làm sáng tỏ, để nhân với một hay một số người mà làm sáng tỏ cho đông đảo bạn đọc. Tìm đến cái đại ý đại cục, bỏ qua cái tiểu tiết tiểu khí là một sự rất khó trong học giới từ xưa tới nay. Chúng tôi theo gương đó mà có lời thỉnh đáp với GS. Phan Huy Lê, qua đó với các vị học giả có nền tảng kiến thức cao sâu, chỉ vì một khao khát đến nền sử học khoa học và dân tộc ngày một tinh túy hơn lên. Nếu có phải dẫn đến các tiểu tiết là để làm rõ cái đại cục.
Chúng tôi xem quan niệm của GS. Hà Văn Tấn có tầm quan trọng hàng đầu cho nghiên cứu lịch sử: “Muốn viết sử, phải biết phương pháp Sử học, và trước hết, phải là người trung thực, chứ không phải là tên cơ hội” (Lịch sử, sự thật & sử học. 1999. Trg.15. Dẫn theo Nguyễn Thị Đông Thái, Tạp chí Hồn Việt số 33 (tháng 3-2010, trg.16).
Trung thực là khát vọng chung của nhân loại từ xưa tới nay. Nó dễ nói mà khó làm nên luôn luôn là vấn đề thời sự của học thuật. Trung thực như thế nào thể hiện ở việc làm cụ thể.
GS. Phan Huy Lê có quan điểm rất không đúng khi ông nói: “Phải vượt qua rào cản ý thức hệ để có cái nhìn khách quan trung thực”.
Tư tưởng này ông đưa ra vào tối ngày 22-10-2011 và được thuật lại trên báo Tuổi trẻ ngày 23-10-2011.
Nhưng vượt qua rào cản ý thức hệ nào, vượt qua rồi thì đứng ở đâu để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi và nhiều bạn viết khác đã nêu ra vấn đề này nhưng GS. Lê không đáp lại, cho đến hôm nay, trong công trình đã dẫn trên.
Đây là vấn đề tiên quyết cho sử học nói riêng và khoa học – xã hội nói chung. Lẩn tránh nó tức là đã có một chỗ để lẩn tránh; cái chỗ đó không nói ra nhưng ai cũng hiểu được, qua đối chiếu với thực hành, thực tiễn.

So-499--Anh-minh-hoa---Phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo---Anh-1
Theo chúng tôi, nhân loại cho đến hôm nay vẫn bị chi phối bởi các hệ tư tưởng khác nhau, dù có ý thức hay không. Ngay trong đời sống thường nhật nó hiện ra rất rõ ràng, đa dạng. Chỉ là có chú ý hay bỏ qua. Ta thường thấy nhiều đồng bào rất tự đắc khi bế con mèo, hôn hít con chó, vỗ về âu yếm như bé cưng. Và rất khinh bỉ những đồng bào đang lam lũ kiếm sống một cách cơ cực trên các bãi rác, hè phố… Họ lại rất “thông minh ý thức hệ” khi xua mèo xua chó ra phóng uế ngoài đường phố, ngõ phố, ở đâu cũng được, miễn đừng ở trong nhà họ. Yêu chó nuôi chó một cách chó như thế, có phải là tư tưởng chung của một giai tầng nào đó, có là biểu hiện của một ý thức hệ hay do một ý thức hệ nào đó chi phối hay không? Các đại gia tỉ phú bài bạc cá độ hàng ngàn tỉ đồng, biệt thự biệt phủ như lãnh chúa… có là biểu hiện của một ý thức hệ nào đó hay không? Nhà làm sử đứng ở đâu giữa các thái cực đó. Lịm chết theo người ở thế giới bên kia để “khách quan trung thực” hay đứng giữa cuộc đời hôm nay để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi đã nói, lịch sử là cái đã qua, nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu về cái quá khứ. Nhưng con người làm sử, nghiên cứu lịch sử lại thuộc về hiện tại, đang là… Cái đang là hay thuộc về cái đang là quyết định sự nghiên cứu chứ không phải vượt qua rào cản ý thức hệ quyết định. Chừng nào nhân loại vượt thoát sự tha hóa một cách triệt để, tứ hải giai huynh đệ, không còn các vấn đề Trung Đông, Biển Đông, Hai miền Triều Tiên, các đợt giải cứu lợn, gà, thanh long, dưa hấu… thì mới hết rào cản ý thức hệ, vì không còn ý thức hệ nào để phải vượt qua; khi Nhà nước của các quốc gia tự tiêu vong trở thành Nhà nước tự quản và loài người chỉ còn quan hệ duy nhất giữa các dân tộc trong tình hữu nghị mà nền tảng là chủ nghĩa nhân bản, nhân văn, nhân đạo. Chưa đến hay không đến được đoạn đó thì GS. Lê chỉ có thể thoát khỏi vỏ dưa lại gặp vỏ dừa mà thôi. Nôm na như thế, nhưng lẩn tránh nó thì không còn khoa học lịch sử, chỉ có thể là các dạng khác nhau của khoa học không khoa học mà thôi. Bảy năm qua (tháng 10-2011 đến nay), GS. Lê lẩn tránh sự chỉ nghị của bạn đọc về vấn đề cốt lõi này nhưng thực hành thì vẫn không thay đổi mà chúng tôi sẽ nói.
Về phương pháp tiếp cận toàn diện, toàn bộ lịch sử Việt Nam (Sđd. Trg.190) được xem là phương pháp luận tối ưu duy nhất để nhìn nhận và đánh giá lịch sử Việt Nam là chuyện rất mông lung, như đem tấm voan che phủ lên thực tế lịch sử. Chúng tôi đã nhiều lần nói đến. Nay Quí vị vẫn khẳng định lại thì chúng tôi xin nhắc lại.
Nhìn toàn diện là yêu cầu sơ đẳng của nghiên cứu khoa học, đâu phải thành tựu. Phát kiến mới. Không cần phải biện luận gì nhiều. Chỉ một chuyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi đủ biết trí tuệ dân gian Việt Nam đã phê phán cái nhìn không toàn diện từ xưa lắm rồi.
Cái quan trọng nhất là trên cái toàn diện đó, nhìn ra cái gì là chính, là bản chất, nếu trưng toàn bộ cái toàn diện ra thì là chụp ảnh lịch sử, đâu phải nghiên cứu lịch sử.
Cái nhìn toàn bộ chỉ có giới hạn. Ở cấp vi mô, như với con voi, hay cơ thể con người cụ thể đối với cuộc hội chẩn, thì có thể thực hiện được, tuy rằng cũng chỉ là tương đối, vì mỗi con người là một thế giới, nhân thân tiểu thiên địa, cho đến nay khoa học vẫn chưa khám phá hết.
Ở cấp vĩ mô của lịch sử, cái nhìn toàn bộ chỉ là một uyển ngữ, một lời nói quen miệng, một câu khẩu đầu (Phạm Thượng Chi). Lịch sử của một cộng đồng dù nhỏ, trong một khoảng thời gian xác định cũng đã khó nắm bắt hết, nói gì đến lịch sử của một dân tộc có đến hàng chục, nay là trăm triệu người, qua rất nhiều biến cố theo thời gian hàng ngàn năm, trên một địa dư hàng vạn, tới cả triệu kilômét vuông đất liền và vùng biển, làm sao một hay một nhóm người có thể thấu thị xuyên tầng được toàn bộ? Các sử gia đâu phải là các vị Bồ Tát có thiên nhãn thông! Đem một câu khẩu đầu, một lời văn nói ra làm phương pháp tiếp cận Sử học thì đó là khoa học gì? Mong Giáo sư và các Giáo sư – Tiến sĩ chỉ giáo cho. Nhìn toàn diện – là một yêu cầu – và nhìn toàn bộ – là một tham vọng – không sai nhưng chưa đủ và chưa phản ánh cái bản chất của phương pháp luận lịch sử. Bởi cái thuật ngữ sáo ngữ này dùng vào đâu cũng được. Khảo sát dân số, kế hoạch hóa gia đình, tình trạng dân cư và chất lượng đời sống cũng phải có cái nhìn “toàn diện toàn bộ”, đâu phải chỉ Sử học mới có. Một trưởng thôn hiện đại (tú tài hay cử nhân) đều nói được câu này, đâu cứ phải các Giáo sư – Tiến sĩ khoa học lịch sử. Đó là cái chỗ mơ hồ không mơ hồ của phương pháp sử học Phan Huy Lê. Bởi trong khoa học – xã hội và nhân văn hiện đại, theo khảo sát của chúng tôi, thì nhãn quan (cái nhìn, cách nhìn, góc nhìn, chỗ đứng để nhìn…) mới là quyết định. Vượt qua rào cản này ắt thuộc về rào cản kia, “chân không đến đất cật không đến giời” thì làm sao thấy được “toàn diện toàn bộ”!
Phải quan sát cái nhìn thực tế để phân định. Xin nêu ba đối tượng để khảo sát cái “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
1/ Nhìn nhận Gia Long và Vương triều Nguyễn.
2/ Nhìn nhận lại một số nhân vật lịch sử như Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh…
3/ Một số sử liệu theo cách khai thác “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
- Về Gia Long và Vương triều Nguyễn đã được nói đến rất nhiều. Chúng tôi tiếp tục khẳng định là GS. Phan Huy Lê đã cắt xén về Gia Long và Vương triều Nguyễn, dương cái phụ ẩn cái chính, làm sáng chỗ mờ, làm mờ chỗ sáng, tự mâu thuẫn với mình. Về Gia Long, chúng tôi đã nói rõ trong bài Sự phủ định của lịch sử – VN TP.HCM, số báo 497 ngày 10-5-2018. Sao lại chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ là sự cầu viện quân Xiêm? Tội cắt đất để cầu viện quân Pháp qua Hiệp ước ủy quyền cho Bá Đa Lộc ký với người Pháp và tội cầu viện quân Xiêm là hai tội lỗi cụ thể, rất nặng nề trên phương diện quốc gia. Nhưng Gia Long mới chính là thủ phạm về tinh thần và tư tưởng đưa đất nước vào con đường bế quan tỏa cảng, bảo thủ lạc hậu, càng ngày càng suy yếu đến chỗ mất nước, chỉ sau 60 năm khi giành lại vương quyền, 1802 – 1862. Đây mới là yếu điểm của Vương triều Nguyễn. Nhưng GS. Lê không nói đến, không đưa ra. Không phải vì không nhìn thấy. Gia Long đã có cơ hội vàng trước người Nhật nửa thế kỷ. Người Nhật mở cửa đón nhận (1854), Gia Long đóng cửa sau khi lên ngôi (1802). Người Nhật lớn mạnh. Con cháu Gia Long lụn bại hết chỗ nói khi Bảo Đại tự nhận: Tôi mới là con điếm đích thực (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam. Daniel Grandclément). Lẩn tránh chỗ tử huyệt này làm sao cắt nghĩa, đánh giá đúng được Vương triều Nguyễn.
GS Phan Huy Lê và cộng sự giành quá nhiều tâm huyết cho công lao thống nhất quốc gia, xây dựng bộ máy quản lý đất nước, để lại di sản văn hóa đồ sộ của Gia Long và Vương triều Nguyễn. Vâng, tất cả đều có như thế, đúng như thế. Nhưng Vương triều Nguyễn có trực tiếp để lại cái “gói thơm thảo” đó cho các thế hệ “thần dân” hay không? Lẩn tránh chỗ này, lịch sử Việt Nam hiện đại là vô nghĩa, nếu không nói là xuyên tạc, giả dối. Bởi từ chỗ tì vết, điểm mờ của Gia Long đến Tuyên ngôn Độc lập ở Thủ đô Hà Nội, giữa thanh thiên bạch nhật, trước toàn thể quốc dân và thế giới, cả dân tộc đã phải trả giá không kể xiết, núi xương sông máu gần trọn trăm năm (1858 – 1945). Kinh tế xã hội cũng do đó mà bị chậm lại rất nhiều. Thế mà cứ khăng khăng tôn vinh công ơn của Gia Long và Vương triều Nguyễn thì có phải là một thứ sử học bất công và vô đạo hay không?
- Một số nhân vật lịch sử văn hóa như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… đúng rằng họ là những người có tài, thậm chí rất tài, có đóng góp ít nhiều cho sự phát triển chữ quốc ngữ, nhưng nếu nhìn toàn diện thì họ đem cái tài để phục vụ cho ngoại bang là chính. Để đồng hóa dân An Nam (Trương Vĩnh Ký), để người nước Nam quên cả Tổ quốc của mình, chấp nhận nền đô hộ của Pháp như một ân huệ của Chúa hay một Thiên Hựu… (Phạm Quỳnh). Cái tài của họ có làm đẹp cho dân cho nước hay làm trở ngại cho công cuộc rửa nỗi nhục mất nước… Lẩn tránh những tử huyệt đó mà toàn diện toàn bộ, thì sẽ hướng đạo tinh thần cho quốc dân đi về đâu?
Lòng yêu nước, hành động xả thân vì nước của Cụ Phan Châu Trinh là vĩ đại, phải kính trọng và noi gương theo Cụ. Nhưng đường lối, chủ trương cứu nước của Cụ không đúng và đã thất bại. Chủ trương “tam dân” của Cụ (khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh) mới chỉ là một giả định lịch sử, một lời hô hào của Cụ. Thực tế nó đã không thành hiện thực được. Phải giành lại độc lập tự do mới có thể khai dân trí, chấn dân khí theo tinh thần dân tộc được. Nếu không chỉ là thứ dân trí nô lệ, tay sai, cao lắm là cố tránh những việc làm có hại cho dân cho nước. Làm sao có được dân trí và dụng dân trí vào sự nghiệp ích nước lợi dân nếu dân tộc còn nằm trong vòng nô lệ. Lịch sử đã hai năm rõ mười như thế mà cứ lặp lại kịch bản Nguyên Ngọc, dẫn lại một học giả Pháp, Daniel Hémery rằng Phan Châu Trinh mới là khuôn mặt chói sáng vĩ đại nhất, lãng quên con người và sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh mà cả thế giới đã tôn vinh là Anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hóa… Thế là toàn diện toàn bộ ư, thưa GS-TS. Nguyễn Văn Khánh?
Cuối cùng xin dẫn ra sự tự mâu thuẫn hay là tính chất “Double mission” (Theo tạp chí Hồn Việt, số 125, bài “Chung quanh vấn đề Phạm Quỳnh”) của GS. Phan Huy Lê.
Ông nói phải vượt thoát rào cản ý thức hệ… nhưng trong thực tế ông không dám rời ý thức hệ nửa bước:
- Ông có Đề án trình lên lãnh đạo Đảng về biên soạn bộ Quốc sử do ông làm Tổng chủ biên. Từ Đề án đến thực tiễn biên soạn là quá nhanh. Các ông đang dồn sức làm cho kỳ được bộ Quốc sử. Nếu các ông tự lo kinh phí biên soạn và xuất bản bộ Quốc sử là một chuyện khác. Còn vẫn phải có câu kinh phí cho Dự án là… thì đâu phải vượt qua rào cản ý thức hệ. Và bạn đọc, và quốc dân, và những người đóng thuế cho Ngân sách quốc gia có quan tâm đến phương pháp sử học “toàn diện toàn bộ Phan Huy Lê” cũng là điều chính đáng, phải không? Vậy thì xin ông nói với các cộng sự, đừng đưa ra cái “nền tảng kiến thức” để hù dọa bạn đọc. Kiến thức của quí vị đã hơn hay bằng với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký chưa? Kiến thức và vận dụng kiến thức đâu phải là đồng nhất!
- Ông xin được Báo cáo thành tựu nghiên cứu sử học ở Hội trường Ban Tuyên giáo dưới sự chủ trì của Trưởng Ban Tuyên giáo mà vẫn nói sử học đến nay vẫn theo phương pháp sử học thời quân chủ, đó là lịch sử của các triều đại… còn lịch sử của nhân dân thì rất mờ nhạt… Chỗ này đúng là rối như công múa trong lồng. Không ra cướp diễn đàn cũng không ra mượn gậy ông. Mà sao lại mị dân đến như thế. Hãy đến các nghĩa trang Điện Biên Phủ, Trường Sơn, Bến Dược, Côn Đảo… xem lịch sử của nhân dân mờ nhạt như thế nào? Ông có biết đá cho kiến trúc cố đô Huế, lăng mộ, bia, tượng… là phải đem từ Núi Nhồi (An Hoạch, Đông Sơn – thuộc thành phố Thanh Hóa bây giờ) vào tận Huế hay không? Xương máu của dân ở đâu khi ông cứ một chiều ca ngợi di sản văn hóa đồ sộ mà nhà Nguyễn để lại. Tấm ván chạy ngạch suốt chiều dài cung điện Thái Hòa là một tấm ván lim liền mạch, nó được xẻ ra từ một cây lim phải là cổ thụ siêu trường siêu trọng (theo nhà Huế học Phan Thuận An). Nó ở rừng sâu núi thẳm lam sơn chướng khí nào của đất Thanh – Nghệ (xưa nổi tiếng là nhiều gỗ lim), ông đã thấy lịch sử của nhân dân ở đó chưa? Thế là Giáo sư bộc lộ rằng suốt hàng chục năm nghiên cứu và giảng dạy sử học Giáo sư đã cúc cung cho sử học Triều đại mà nhạt nhẽo với lịch sử của nhân dân. Đến bây giờ mới nhận ra cũng là rất quí, muộn còn hơn không, nhưng chẳng thấy Giáo sư trong dàn sử học thời quá khứ, chỉ thấy Giáo sư tuyên ngôn ở thời Hiện tại, Giáo sư có từ trên trời rơi xuống hay không?
Về tiểu tiết, xin nêu một số:
Giáo sư khai thác thư tay của GS. Trần Huy Liệu (xem trang 164, sách đã dẫn).
Nếu “GS. Trần Huy Liệu có nguyên tắc làm việc là những thư riêng do GS tự viết thì trước khi gửi, Thư ký chép lại một bản để lưu giữ trong hồ sơ” (Mấy tư liệu mới về Lê Văn Tám, Nguyễn Huy, sđd, trg.163). Vậy cần phải đối chiếu bản Thư ký chép lại với bản chính đã gửi đi (tới Ban Khoa giáo TW). Do bản của Thư ký chép lại không có thủ bút của GS. Trần Huy Liệu xác nhận nên cần có bản đã gửi đi để đối chiếu. Nếu không có sự đối chiếu nên xếp vào mục tồn nghi, không thể xem là một bản sao có giá trị. Trong trường hợp này phải chấp nhận tình ngay mà lý chưa ngay. Tư liệu dù rất quan trọng vẫn không có giá trị chính thức. Có thể sử dụng trong nghiên cứu như là một sử liệu còn tồn nghi, chưa thể khai thác như một sử liệu chính thức được. Bài viết của GS về sự tích Lê Văn Tám mới là sự nôn nóng khoe sử liệu, chưa qua hạch sử liệu trên tầm mức của lương tri sử học để tiếp nhận lịch sử.
Nếu đã cho Lê Văn Tám là anh hùng vô danh, là truyền thuyết có cốt lõi sự thật (sau này các ông Lý Hoài Châu và nhiều vị khác ở TP. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, xác nhận là có thực. Xem các số về chủ đề này trên Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh năm 2017 và trước đó), thì không nên khai thác, nhấn mạnh rằng chuyện này là do GS. Trần Huy Liệu, Bộ trưởng phụ trách công tác tuyên truyền lúc đó, bịa ra, sáng tác ra, đặt ra. Thực ra, tên Lê Văn Tám lại xuất phát từ vở kịch của Phan Vũ. Cách khai thác của GS. Phan Huy Lê là hướng người đọc theo chiều tuyên truyền của Cộng sản, của Cách mạng đều là bịa đặt.
- Nguyễn Ái Quốc năm 1922 đánh giá Gia Long như thế và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh năm 1947 đánh giá Gia Long hoàn toàn khác. Chúng ta chọn bề nào. Ông Tống Văn Lợi (xem trang 159-160, sđd trên) chọn năm 1922, một đoạn trong truyện ngắn “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, hết lời ca ngợi vua Gia Long. Chúng tôi chọn thời điểm 1947, là phù hợp, khoa học, đúng đắn hơn. Tại sao? Nếu lấy thời điểm 1922 thì tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là bất biến, chỉ dừng lại ở đó. Chúng tôi cho rằng nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ 1922 đến 1947 là một sự phát triển liên tục. Đỉnh cao là Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Nếu so sánh với Bản yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Versailles năm 1919 thì thấy rõ, qua thực tiễn cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người ngày càng sâu sắc hơn. Nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1922 đến nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1947, sau khi đã viết Tuyên ngôn Độc lập (1945), Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (1946) là một sự phát triển rất logic, rất biện chứng. Biện luận của Tống Thạc sĩ rõ ràng là một ngụy biện.
- Về Tuyên bố của Trần Văn Hữu ở Hội nghị San Francisco năm 1951 cần phải vận dụng qui luật phủ định biện chứng mới giải quyết được. Theo đó, không phủ định sạch trơn mà giữ lại những yếu tố tích cực. Lịch sử ghi nhận việc làm của Trần Văn Hữu trong bối cảnh đó và xem là tình tiết giảm khinh cho tội làm tay sai, bù nhìn cho thực dân Pháp. Trần Văn Hữu phải được đối xử như Nguyễn Cao Kỳ hay Phạm Duy sau này. Song không phải lấy tình tiết đó mà khôi phục lại cả thể chế quốc gia Việt Nam. Công, tội phải phân minh cụ thể.
- Về giá trị pháp lý quốc tế của các Hiệp định nhà Nguyễn đã ký với phương Tây của GS-TS. Nguyễn Văn Kim, Phó Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chứng tỏ các vị rất sính các Hiệp định và rất kinh viện. Họ ký Hiệp định như thế, nhưng trên thực tế họ có tôn trọng không và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được hưởng lợi như thế nào từ các Hiệp định đó? Và có thể phủ nhận tuyên bố xóa bỏ mọi quan hệ với thực dân Pháp được nói đến trong Tuyên ngôn Độc lập (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Cũng cần tham khảo, trong Tuyên cáo độc lập của Bảo Đại có mục xóa bỏ mọi Hiệp ước đã ký với Pháp. Cần phải xem Hiệp định và thực tiễn. Nếu phía Pháp và Quốc gia Việt Nam thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ 1954 thì lịch sử đã như thế nào? Cãi lý trên văn bản giấy tờ với quân cướp nước bằng vũ khí hiện đại thì quả là một nền tảng kiến thức cao siêu lắm lắm!
Những điều chúng tôi trình bày trên chứng tỏ quan điểm lịch sử, nhãn quan lịch sử, chỗ đứng để nhìn nhận lịch sử là quyết định chứ không phải cái nhìn toàn diện, toàn bộ quyết định. Rất rõ trong trường hợp Gia Long. Chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ cầu viện quân Xiêm mà không thấy tham vọng vương quyền, tâm lý thỏa mãn khi giành được vương quyền liền đóng cửa quốc gia, củng cố quyền lực thống trị và hưởng thụ cung cấm đền đài lăng tẩm… Cái hãm địa của kinh đô Huế đã kìm hãm lịch sử dân tộc. Vương triều Nguyễn đã không chịu thừa kế Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi)… Họ nhất nhất noi theo Thiên Triều và kết cục ở vị Hoàng đế của săn bắn, sòng bạc, hộp đêm và gái nhảy: Chính tôi (Bảo Đại) mới là con điếm đích thực!
Đó là con đường lịch sử của Vương triều Nguyễn, rất dễ dàng nhận ra, thưa Phan sử gia đáng kính.

Hà Nội, tháng Năm lịch sử,
Năm Mậu Tuất – 2018


Quan Văn Đàn
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 499

Wednesday 15 February 2017

Nguyên Bí thư Hà Nội: 'Hở bình thường không cấm, hở hang mới cấm' (Hoàng Phong - Tiền Phong)

Nguyên Bí thư Hà Nội: 'Hở bình thường không cấm, hở hang mới cấm'

TPO - "Như thế nào là phản cảm? Nếu lấy tiêu chí riêng của mỗi người thì phản cảm khác nhau nhưng tiêu chí của số đông là quá ngắn, quá lôi thôi, lếch thếch, hở hang”, Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nói.
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
Phát biểu tại cuộc họp vào chiều 14/2, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đã có những chia sẻ về Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan của Hà Nội và ứng xử nơi công cộng.
Ông Nghị cho biết, theo những thông tin ông nắm được thì đa phần  mọi người đều đón nhận, hoan nghênh và mong muốn có bộ quy tắc này dù nó chưa thực sự hoàn hảo.
"Tôi chắc rằng, sự vật ngay từ đầu chẳng thể hoàn hảo. Thế nên quá trình thực hiện bộ quy tắc nếu có vấn đề phát sinh chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện bổ sung”, ông Nghị nói.
Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội chia sẻ, rất nhiều người bày tỏ ý kiến với ông về quy tắc không được mặc quần áo hở hang, phản cảm nêu trong Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ công chức Hà Nội.  
"Họ cũng hỏi như thế nào là phản cảm? Nếu lấy tiêu chí riêng của mỗi người thì phản cảm khác nhau nhưng theo tiêu chí của số đông, phản cảm là quá ngắn, quá lôi thôi, lếch thếch, hở hang.
Khi tôi còn là Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin, thảo luận vấn đề này ở Quốc hội, cũng có người hỏi: "Thế nào là hở hang?". Tôi nói hở bình thường người ta không cấm, còn hở hang mới cấm.
Chúng ta chẻ ra hở bao nhiêu phần trăm, hở ở chỗ nào nhưng ăn mặc là các vấn đề về phạm trù văn hóa không thể mô tả chính xác như toán học được...", ông Nghị nói.
(http://www.tienphong.vn/xa-hoi/nguyen-bi-thu-ha-noi-ho-binh-thuong-khong-cam-ho-hang-moi-cam-1121085.tpo)

Sunday 22 January 2017

Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm (Trần Hữu Dũng - Viet-Studies)

Thời Báo Kinh tế Sài Gòn
Xuân Đinh Dậu (2017)

(http://www.viet-studies.net/THDung/THDung_GSTS.htm)

Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm

Trần Hữu Dũng

Khi mới từ nước ngoài trở về Việt Nam, không ít người có cảm giác lạ lẫm khi đọc báo thấy những trí thức khoa bảng luôn được kèm theo danh hiệu Giáo Sư (GS), Phó Giáo Sư (PGS), Tiến Sĩ (TS), và nhất là khi những danh hiệu này đi kèm nhau: GS TS, PGS TS.[1]  Thậm chí, nhiều bạn đã có tiến sĩ, là giáo sư ở nước ngoài, cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi “được” gọi như vậy trên các phương tiện truyển thông đại chúng, không liên hệ gì đến học thuật, ở Việt Nam.  Hơi ngượng, khá bối rối, nhưng rồi lại không dám yêu cầu báo chí không gọi là tiến sĩ vì như thế lại e bị hiểu lầm là lập dị, là “kênh kiệu ngược” (reverse snobbery)

Thực ra, so với vô số đại sự của quốc gia thì chuyện danh xưng này quả là “nhỏ như con thỏ”, nhưng nhân dịp Tết nhứt, xin có đôi dòng phiếm luận để giải khuây cho bạn đọc.

Bằng tiến sĩ chứng tỏ điều gì và để làm gì?[2]

Ai đã lấy PhD ở Mỹ đều biết rằng bằng cấp này chỉ là một cái vé vào cửa để được phỏng vấn khi đi xin việc ở các đại học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài. Thế thôi. Theo nhà kinh tế nổi tiếng Michael Spence (Nobel 2001) thì bằng cấp (do một đại học có uy tín cấp) cốt yếu là một tờ giấy chứng nhận cho những người không có cách nào khác để chứng tỏ khả năng (trong đó có sự kiên trì) của mình.  Spence giải thích: Một người có thực tài, ai nhìn cũng thấy ngay, thì không cần bằng cấp khi đi xin việc!  Nói theo thuật ngữ kinh tế: Bằng cấp là một “tín hiệu cho thị trường”.

Tiến sĩ là một bằng cấp tối hậu (terminal degree) của hệ thống giáo dục hiện đại, nhưng nó chỉ là một (trong nhiều) chỉ dấu của trí thức. Và ngay khi là chỉ dấu như thế, nó cũng không là chỉ đấu tột bực. Ở các nước có một nền học thuật lâu đời, bằng tiến sĩ chỉ là một tấm vé để bước chân vào ngưỡng cửa của cộng đồng nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học. Nó không phải là “vinh quang” tối hậu của một sự nghiệp học thuật.  Uy tín của một nhà nghiên cứu, của một giáo sư tùy thuộc hoàn toàn vào những thành tựu của người ấy sau khi đã có tiến sĩ (Einstein, chẳng hạn, không cần ai gọi mình là GS TS!). Thậm chí, một nhà khoa học xuất chúng, dù không có bằng tiến sĩ vẫn được xã hội nễ trọng hơn những người có tiến sĩ, nếu người ấy có một sự nghiệp học thuật tầm vóc.

Đi đâu cũng tự xưng, hay đòi người khác gọi mình là Giáo Sư Tiến Sĩ (dù là giáo sư tiến sĩ thật, không phải dỏm), không chỉ là làm dáng, phô trương, nhưng còn cho mình một cảm giác (thường) sai lầm về những thành tụu thật sự của bản thân, rằng mình hiện đã đạt đến tột đỉnh của học thuật, và khó tránh khỏi sự tự mãn đầy kiêu căng. Không gì “phản trí thức” hơn phong thái ấy.

Tự xưng và gọi nhau là GS TS thì có hại gì?

Nhiều người sẽ bảo, dù các cơ quan truyền thông có tâng bốc các giáo sư tiến sĩ, không bao giờ quên kèm theo học vị học hàm khi viết tên họ, thì có hại gì ai? Sao không xem đó như phản ảnh sự kính trọng “kẻ sĩ” của văn hóa Việt Nam? Vâng, nhìn từ một góc cạnh nhỏ hẹp thì quả việc này là không đáng kể so với những vấn đề trọng đại của đất nước.  Tuy nhiên, nó có thể liên hệ đến những hiện tượng khác làm suy giảm chất lượng đòi sống của chúng ta. Chẳng hạn như:

Bằng cách tung hô danh xưng GS, PGS, TS... các cơ quan truyền thông vô tình đơn điệu hóa thang trí thức học thuật, và từ đó, đến giá trị xã hội.  Bởi, như đã nói, những học hàm, học vị này là chức vụ trong lãnh vực giáo dục, là một chỉ dấu của khả năng nghiên cứu.  Chúng không nhất thiết có hàm ý nào về giá trị toàn diện của con người (mà phần chính, hiển nhiên, là đạo đức).  Gắn kết học vị học hàm, mà không một đặc điểm nào khác, với danh tính một người là mặc nhiên đưa nó lên vị trí hàng đầu.  Nói thẳng ra, theo ý người viết bài này, chính “thói quen” này của giới truyền thông đã giúp duy trì nạn “sính bằng cấp” trong xã hội Việt Nam.

Nạn sính bằng cấp, từ đó, sẽ có hậu quả dễ hiểu đến chất lượng tiến sĩ: Khi mà sự ham muốn bằng cấp không thể được thỏa mãn vì khả năng học tập và nghiên cứu của “đương sự” là “có hạn” thì tất nhiên sẽ sinh ra những tiến sĩ dỏm, những luận văn không đáng được gọi là luận văn. Báo chí đừng gọi họ là tiến sĩ nữa thì chất lượng tiến sĩ sẽ khá lên, vì lúc ấy chỉ những người thật sự có năng lực, có trí tuệ, đam mê nghiên cứu, giảng dạy... mới bỏ công dùi mài kinh sách trong một chương trình tiến sĩ, loại bỏ những “phần tử” “sinh ra không phải để theo đuổi học thuật” (mà trong một xã hội bình thường là hoàn toàn bình thường, không có gì để mặc cảm), chạy chọt lấy "tiến sĩ' chỉ vì hám danh.  Gạn lọc những phần tử “không thích hợp” này thì chất lượng tiền sĩ đương nhiên sẽ khá lên!

“Giải pháp”

Báo chí vô tình cũng là tòng phạm trong hiện tượng này.  Vì thói quen, hay để “tâng bốc” đương sự, báo chí ít khi quên gọi một giáo sư tiến sĩ là GS/PGS TS.  Bởi vậy, tôi nghĩ, các giáo sư tiến sĩ khi được phòng vấn, hãy nói thẳng với phóng viên là không cần để là GS TS trước tên ông/bà. 

Song, phải nhìn nhận, đây là một tập quán khó thay đổi.  Nếu một cá nhân muốn như thế và yêu cầu người phỏng vấn mình làm như thế thì cũng chưa chắc nhà báo sẽ nghe theo, vì nhà báo cũng muốn được hãnh diện là họ phỏng vấn một vị “giáo sư, tiến sĩ” chứ không phải “thường dân”!

Vậy, có vài đề nghị:

(1) Nếu người ấy có hiện giữ một chức vụ khác (Bộ trưởng, Chủ tịch...) thì chỉ nên dùng những chức vụ hiện tại, không cần phải thêm là GS TS gì cả.

(2) GS, hoặc TS là đủ, không cần gọi cả hai (GS TS).  Ở các quốc gia có những danh hiệu này lâu đời, hầu hết giáo sư đều có tiến sĩ, gọi GS TS là thừa.  Nên để ý rằng tiến sĩ có thể không là giáo sư (chẳng hạn như những nhà khoa học làm việc trong các viện nghiên cứu)

(3) Chỉ tự xưng là giáo sư hay tiến sĩ trong những hoàn cảnh mà danh hiệu ấy chuyển tải một thông tin có ich cho người đọc/nghe, và nếu người đối thoại không biết thông tin ấy.[3]  Theo tôi, chỉ nên gọi giáo sư (hoặc tiến sĩ, không cần cả hai) trong khuôn viên đại học, viện nghiên cứu, hoặc trong các hội nghị, hội thảo khoa hoc.

Tôn vinh những người có đạo đức, thực tâm, thực tài là một điều xã hội nên làm.  Nhưng để tôn vinh những người xứng đáng, và với sự trân quý thật lòng, xã hội không nên dừng lại ở danh hiệu tiến sĩ mà phải chịu khó tìm biết xem người ấy có những công trình nghiên cứu, những đóng góp khoa học nào, dạy ở trường nào, bao nhiêu năm... và thể hiện sự nễ trọng (nếu thấy họ xứng đáng) bằng cách nghiêm túc lắng nghe ý kiến của họ, đọc những gì họ viết.   Dù rằng việc kiểm chứng ấy sẽ không dễ đối với đa số không quen thuộc với môi trường học thuật (nhưng lắm khi Google vài phút là biết ngay!), song đó cũng là một cách nâng cao kiến thức của mọi người.  Một trí thức đích thực sẽ vô cùng cảm kích khi đối thoại với một người quan tâm đến nghiên cứu của mình, được nghe những câu hỏi phản ảnh một sự hiểu biết về công việc và những thành tựu của trí thức ấy.  Đó là cách tốt nhất để tôn vinh “tiến sĩ”!

Trần Hữu Dũng
15/12/2016


 


[1] Nhiều quốc gia khác, như Nga, Đức, cũng có phong tục này, nhưng tôi không biết nhiều về bối cảnh xã hội và truyền thống lịch sử của họ nên chỉ xin nói về trường hợp Việt Nam.  Đèn nhà ai nấy sáng!
[2] Xin nói rõ, đây là nói về bằng tiến sĩ “thật”.  Dường như vấn nạn tiến sĩ dỏm, tiến sĩ kém chất lượng, cũng rất trầm trọng ở Việt Nam, nhưng đó là một vấn đề khác.
[3] Ví dụ,  nếu trên máy bay có một hành khách ngả bệnh, và nếu bạn là bác sĩ, thì bạn có quyền (đúng ra là bổn phận!) hô lớn: Tôi là bác sĩ!  Nhưng bạn không cần phô trương học hàm học vị của bạn với người bán cà phê chẳng hạn!

Saturday 21 January 2017

Bán nguyên âm là gì?




Âm lâm. Chữ là chữ. Trẻ con bên Tây Úc học phân biệt nguyên âm và bán nguyên âm như sau:



 Các nhà ngữ học có sợ không?

Ông bà ta có câu Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Nhưng dường như với một số người, muốn tìm được một cái cột để mà dựa cũng là chuyện vượt quá giới hạn của năng lực.

Thursday 19 January 2017

Mỗi khi chửi tục người Việt phải cúi đầu bao nhiêu lần?




Sách Tiếng Việt Đơn Giản (2013) của trường Việt Ngữ Tây Úc mô tả thanh điệu trong tiếng Việt như sau:




Theo cách mô tả này, tất cả những ai chửi đ.m. đầu phải cúi gầm (sic) xuống hai lần. Nếu chửi con c., chmột lần lđủ. Nhưng nếu khen vợ đẹp, đầu lại phải cúi hai lần!

Tác giả khoe sách được meritus professor Bửu Khải hướng dẫn, nhưng ông giáo sư này không chđược cho học trò của mình biết gầm vgằm khác nhau thế nào. 

Tuesday 14 June 2016

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông (Lê Thế Mẫu - Infonet)

(https://infonet.vietnamnet.vn/the-gioi/nga-chua-bao-gio-thay-doi-lap-truong-ve-tranh-chap-lanh-tho-o-bien-dong-165055.html)

Gần đây, trên một số báo của Việt Nam có đưa tin và đăng một số bài viết bình luận quan điểm của Nga về tình hình Biển Đông như “Nga gây 'sốc' tuyên bố không can dự tranh chấp ở Biển Đông và “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông”.

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông - ảnh 1

Đại tá Lê Thế Mẫu

Xuất phát từ một bài viết gây “sốc”

Gần đây, trên một số báo của Việt Nam có đưa tin và đăng một số bài viết bình luận quan điểm của Nga về tình hình Biển Đông như “Nga gây "sốc" tuyên bố không can dự tranh chấp ở Biển Đông (baomoi.com) “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông” (giaoduc.net.vn).

Đáng chú ý là bài viết của Hồng Thủy với tiêu đề “Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông”, trong đó tác giả đưa ra nhận định gây “sốc” rằng, phía Nga “tiếp tục có xu hướng đánh tráo, đánh đồng khái niệm về các tranh chấp ở Biển Đông hòng bao che, chạy tội cho Trung Quốc trước thềm Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai và vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông”.    

Đây là nhận định có tính chất xuyên tạc quan điểm của Bộ Ngoại giao Nga, gây hoang mang trong dư luận và làm tổn hại đối với quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga mà vừa qua trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga Thủ tướng nước ta Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Cá nhân tôi, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng tuyệt đối vào nước bạn Nga”.

Thực chất vấn đề là gì?

Trước hết, cần khẳng định, đây không phải là “tuyên bố mới nhất về lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông” như tác giả Hồng Thủy nhận định trên giaoduc.net.vn, mà chỉ là sự tái khẳng định quan điểm nhất quán, trước sau như một, của Nga về các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, được đưa ra trong cuộc họp báo của Đại diện chính thức của Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova ngày 10/6/2016, trong đó chủ đề tranh chấp ở Biển Đông chỉ là một nội dung ngắn trong số 19 thông báo về hoạt động đối ngoại của Nga trong những ngày gần đây. Vì sao, Bộ Ngoại giao Nga lại phải tái khẳng định quan điểm này trong cuộc họp báo ngày 10/6/2016?

Đại diện chính thức của Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova giải thích: “Trong thời gian gần đây, chúng tôi đã từng lưu ý về những bài viết trên các phương tiện truyền thông, trong đó có những thông báo trích dẫn lời của các quan chức cấp cao của Nga rằng dường như Nga ngày càng dính líu sâu vào chủ đề về tình hình trên biển Nam-Trung Hoa (Biển Đông). Ngoài ra, trong những bài viết đó đưa ra sự khẳng định rằng chúng tôi đang nghiêng về ủng hộmột trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển này. Vì vậy, mặc dù đã rất nhiều lần đề cập tới chủ đề này, hôm nay chúng tôi muốn đưa ra lời bình luận riêng về vấn đề đó”.

Toàn văn bình luận của bà M.Zakharova về tranh chấp ở Biển trong cuộc họp báo ngày 10/6/2016

Để tiện theo dõi, chúng tôi xin dịch và đăng lại toàn văn bài bình luận của Đại diện chính thức Bộ Ngoại giao Nga M.Zakharova ngày 10/6/2016, được lấy từ trang web của Bộ ngoại giao Liên bang Nga:

Chúng tôi đang chú ý theo dõi sự phát triển tình hình ở Biển Đông. Chúng tôi coi đó là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới an ninh và sự ổn định trong toàn bộ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Nga không phải là một trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và sẽ không để bị lôi kéo vào các cuộc tranh chấp đó. Về nguyên tắc, chúng tôi không đứng về bất cứ bên nào (trong cuộc tranh chấp này). Chúng tôi tin tưởng rằng việc các lực lượng thứ ba tham gia vào các cuộc tranh chấp này chỉ có thể khiến cho tình tình trong khu vực này căng thẳng thêm.

 

Tất cả các quốc gia tham gia vào các cuộc tranh chấp lãnh thổ trong khu vực này cần phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc không sử dụng sức mạnh, cần tiếp tục tìm kiếm những cách thức giải quyết các vấn đề còn tồn đọng bằng các giải pháp chính trị-ngoại giao dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982 (UNCLOS), theo tinh thần của Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở biển Nam-Trung Hoa (DOC) mà Trung Quốc đã ký với ASEAN năm 2002, cũng như các nguyên tắc chỉ đạo thực thi DOC đã được các bên thống nhất vào tháng 7-2011. Chúng tôi cho rằng các cuộc tham vấn và đàm phán về các vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được thực hiện trực tiếp giữa các bên có liên quan trong khuôn khổ hợp lý do chính các bên xác định.

Xuất phát từ tình hình, yếu tố có ý nghĩa then chốt để giải quyết mâu thuẫn trong tiểu khu vực này có thể là xây dựng một cấu trúc an ninh mới dựa trên các nguyên tắc tập thể, không liên kết và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi đề xuất với tất cả các bên đối tác tích cực tham gia thực hiện sáng kiến do phía Nga đưa ra về việc nghiên cứu xây dựng các nguyên tắc củng cố an ninh và phát triển hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Về phần mình, chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)

Chúng tôi để nghị tuân thủ quan điểm cơ bản của Nga khi đưa tin hay viết bài về chủ đề này, không nên viện dẫn lập luận của tác giả này hay tác giả khác, mà là nên xuất phát từ quan điểm nhất quán trước sau như một của chúng tôi”.

Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông - ảnh 2

Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Nga Maria Zakharova.

Bình luận về những điểm then chốt trong bài phát biểu của Đại diện chính thức Bộ Ngoại giao Nga

(1) Quan điểm nhất quán trước sau như một của Nga là “do không phải là một trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, nên Nga không đứng về bất cứ bên nào trong cuộc tranh chấp này” hoàn toàn trùng hợp với quan điểm của Mỹ cũng như nhiều nước khác về tranh chấp ở Biển Đông, hoàn toàn không có ý ủng hộ Trung Quốc như Bắc Kinh cố ý giải thích sai rằng Nga đứng về phía Trung Quốc.   

(2) Quan điểm của Nga vềviệc “các lực lượng thứ ba tham gia vào các cuộc tranh chấp này chỉ có thể khiến cho tình tình trong khu vực này căng thẳng thêm”. Quan điểm của Nga phản ánh một thực tế là, từ trước tới nay, tất cả các cuộc đàm phán về DOC, hay COC, hay tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đều chỉ được tiến hành trong khuôn khổ song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước khác có tranh chấp, hoặc trong khuôn khổ ASEAN-Trung Quốc.

(3) Theo quan điểm của Nga, “các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được giải quyết trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc không sử dụng sức mạnh, thông qua các giải pháp chính trị-ngoại giao, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là UNCLOS, theo tinh thần của DOC. Nga sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)”. Quan điểm này của Matxcơva đã gián tiếp lên án Trung Quốc bởi hành động của Bắc Kinh xây cất, tôn tạo các bãi đá ở Trường Sa do họ chiếm đoạt của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng DOC và UNCLOS. Hơn nữa, khi Nga nói tới “luật pháp quốc tế” thì trong đó không loại trừ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Như vậy, quan điểm của Nga hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ASEAN, quan điểm của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. Đương nhiên, xuất phát từ quan hệ Nga-Trung Quốc, Matxcơva chỉ yêu cầu “các bên tranh chấp tuân thủ DOC và UNCLOS”, mà không chỉ đích danh Trung Quốc. Cũng tương tự như vậy, các nước khác như Mỹ, Nhật Bản, EU cũng chỉ yêu cầu “các bên kiềm chế”, “không thay đổi nguyên trạng” ở Biển Đông, chứ không chỉ đích danh Trung Quốc.

(4) Về sáng kiến mới của Nga việc “xây dựng một cấu trúc an ninh mới trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương dựa trên các nguyên tắc tập thể, không liên kết và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế”. Sáng kiến này đã từng được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Nga ở Sochi nhân kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Nga-ASEAN. Sở dĩ cấu trúc này phải tuân thủ nguyên tắc “tập thể” và “không liên kết” là để mở cửa cho sự tham gia của tất các bên có liên quan nhằm duy trì môi trường hòa bình, an ninh bền vững, hợp tác để phát triển trong khu vực, trong đó có cả các quốc gia đã từng tham gia liên minh quân sự như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines… Đây là một sáng kiến hay, phù hợp với đặc điểm chính trị và an ninh của khu vực này, đáp ứng lợi ích của tất cả các bên và do đó có tính khả thi cao.

Như vậy, xét từ quan điểm nhất quán của Nga về các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, không thể có chuyện Matxcơva “đánh tráo, đánh đồng khái niệm về các tranh chấp ở Biển Đông hòng bao che, chạy tội cho Trung Quốc trước thềm Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai và vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông”.

Thật khó giải thích về động cơ của những ai, không biết vì lý do gì, lại cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Nga về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, gây hoang mang trong dư luận, làm tổn hại tới quan hệ giữa hai nước trong bối cảnh chúng ta đang tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng tế, còn Trung Quốc lại đang ra sức cố tình giải thích và áp dụng sai về UNLOS, về DOC, cũng như cố tình xuyên tạc và bóp méo quan điểm của Nga và một số nước khác theo hướng “ủng hộ Bắc Kinh” trong vấn đề Biển Đông.

Thiết nghĩ, trong thời điểm hiện nay, chúng ta cần tranh thủ tất cả những ai có quan điểm tương đồng với Việt Nam để hình thành mặt trận rộng rãi ủng hộ chúng ta trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền ở Hoàng Savà Trường Sa trên Biển Đông-một cuộc đấu tranh không cân sức, lâu dài, khó khăn và phức tạp, chứ không nên có hành động gây chia rẽ Việt Nam với các bàn bè và đối tác, trong đó Nga lại là một đối tác chiến lược toàn diện.

Đại tá Lê Thế Mẫu