Thursday, 5 July 2018

Phướng pháp làm mờ điểm sáng làm sáng điểm mờ (Quan Văn Đàn - Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM)

(http://tuanbaovannghetphcm.vn/phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo-so-499/)

Giáo sư Phan Huy Lê với đệ tử và cộng sự vừa xuất bản công trình Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ, do Tạp chí Xưa & Nay và Nhà Hồng Đức ấn hành, H.2018. Đây là tập hợp các bài viết của Giáo sư và cộng sự đã đăng trên Xưa & Nay nhằm phản bác lại ý kiến trao đổi của các tác giả trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Có vẻ khách quan, trong Bảng I. Thống kê bài viết trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh gồm 34 bài mục của 19 tác giả (theo bút danh). Bảng II. Thống kê bài viết trên tạp chí Xưa & Nay và tạp chí Nghiên cứu lịch sử, gồm 12 bài mục của 11 tác giả.

Đây là dấu hiệu chứng tỏ nạn học phiệt không còn ngự trị tuyệt đối trên diễn đàn sử học. Bởi một bên là Giáo sư Sử học – Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, một trong bộ tứ “Lâm – Lê – Tấn – Vượng” đã ngự trị trên Diễn đàn sử học từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước cho đến gần đây và có thể là cả hiện nay, tuy không còn vẹn nguyên và các cộng sự là các Giáo sư – Tiến sĩ, Phó Chủ tịch, Phó Tổng thư ký, Phó Hiệu trưởng… Còn bên kia là các nhà văn Vũ Hạnh, Chu Giang; nhà báo Đặng Minh Phương, còn lại đều là các bạn đọc rất quan tâm đến Sử học nước nhà, phần lớn làm việc ở các ngành nghề khác. Bởi thế… “các vị (các tác giả trên VN TP.HCM) không có cùng một nền tảng kiến thức, lại khác xa nhau về phương pháp tiếp cận, nên làm sao có thể cùng nhau đi đến ngọn nguồn của vấn đề” (Xưa & Nay, sđd, trg.190), cũng là dễ hiểu.
Đây là một ngộ nhận rất lớn của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự mà chúng tôi sẽ trao đổi dưới đây.
Thông thường trong sự biện luận, các yếu điểm của đối phương được khai thác để tạo ra hiệu ứng đôminô, tựa như lấy đoản binh để thắng trường trận. Song, với nhà học thuật chân chính và cầu thị, thì bỏ qua những bắt bẻ vụn vặt, xem cái đại ý của người trao đổi có điều gì cần làm sáng tỏ, để nhân với một hay một số người mà làm sáng tỏ cho đông đảo bạn đọc. Tìm đến cái đại ý đại cục, bỏ qua cái tiểu tiết tiểu khí là một sự rất khó trong học giới từ xưa tới nay. Chúng tôi theo gương đó mà có lời thỉnh đáp với GS. Phan Huy Lê, qua đó với các vị học giả có nền tảng kiến thức cao sâu, chỉ vì một khao khát đến nền sử học khoa học và dân tộc ngày một tinh túy hơn lên. Nếu có phải dẫn đến các tiểu tiết là để làm rõ cái đại cục.
Chúng tôi xem quan niệm của GS. Hà Văn Tấn có tầm quan trọng hàng đầu cho nghiên cứu lịch sử: “Muốn viết sử, phải biết phương pháp Sử học, và trước hết, phải là người trung thực, chứ không phải là tên cơ hội” (Lịch sử, sự thật & sử học. 1999. Trg.15. Dẫn theo Nguyễn Thị Đông Thái, Tạp chí Hồn Việt số 33 (tháng 3-2010, trg.16).
Trung thực là khát vọng chung của nhân loại từ xưa tới nay. Nó dễ nói mà khó làm nên luôn luôn là vấn đề thời sự của học thuật. Trung thực như thế nào thể hiện ở việc làm cụ thể.
GS. Phan Huy Lê có quan điểm rất không đúng khi ông nói: “Phải vượt qua rào cản ý thức hệ để có cái nhìn khách quan trung thực”.
Tư tưởng này ông đưa ra vào tối ngày 22-10-2011 và được thuật lại trên báo Tuổi trẻ ngày 23-10-2011.
Nhưng vượt qua rào cản ý thức hệ nào, vượt qua rồi thì đứng ở đâu để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi và nhiều bạn viết khác đã nêu ra vấn đề này nhưng GS. Lê không đáp lại, cho đến hôm nay, trong công trình đã dẫn trên.
Đây là vấn đề tiên quyết cho sử học nói riêng và khoa học – xã hội nói chung. Lẩn tránh nó tức là đã có một chỗ để lẩn tránh; cái chỗ đó không nói ra nhưng ai cũng hiểu được, qua đối chiếu với thực hành, thực tiễn.

So-499--Anh-minh-hoa---Phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo---Anh-1
Theo chúng tôi, nhân loại cho đến hôm nay vẫn bị chi phối bởi các hệ tư tưởng khác nhau, dù có ý thức hay không. Ngay trong đời sống thường nhật nó hiện ra rất rõ ràng, đa dạng. Chỉ là có chú ý hay bỏ qua. Ta thường thấy nhiều đồng bào rất tự đắc khi bế con mèo, hôn hít con chó, vỗ về âu yếm như bé cưng. Và rất khinh bỉ những đồng bào đang lam lũ kiếm sống một cách cơ cực trên các bãi rác, hè phố… Họ lại rất “thông minh ý thức hệ” khi xua mèo xua chó ra phóng uế ngoài đường phố, ngõ phố, ở đâu cũng được, miễn đừng ở trong nhà họ. Yêu chó nuôi chó một cách chó như thế, có phải là tư tưởng chung của một giai tầng nào đó, có là biểu hiện của một ý thức hệ hay do một ý thức hệ nào đó chi phối hay không? Các đại gia tỉ phú bài bạc cá độ hàng ngàn tỉ đồng, biệt thự biệt phủ như lãnh chúa… có là biểu hiện của một ý thức hệ nào đó hay không? Nhà làm sử đứng ở đâu giữa các thái cực đó. Lịm chết theo người ở thế giới bên kia để “khách quan trung thực” hay đứng giữa cuộc đời hôm nay để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi đã nói, lịch sử là cái đã qua, nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu về cái quá khứ. Nhưng con người làm sử, nghiên cứu lịch sử lại thuộc về hiện tại, đang là… Cái đang là hay thuộc về cái đang là quyết định sự nghiên cứu chứ không phải vượt qua rào cản ý thức hệ quyết định. Chừng nào nhân loại vượt thoát sự tha hóa một cách triệt để, tứ hải giai huynh đệ, không còn các vấn đề Trung Đông, Biển Đông, Hai miền Triều Tiên, các đợt giải cứu lợn, gà, thanh long, dưa hấu… thì mới hết rào cản ý thức hệ, vì không còn ý thức hệ nào để phải vượt qua; khi Nhà nước của các quốc gia tự tiêu vong trở thành Nhà nước tự quản và loài người chỉ còn quan hệ duy nhất giữa các dân tộc trong tình hữu nghị mà nền tảng là chủ nghĩa nhân bản, nhân văn, nhân đạo. Chưa đến hay không đến được đoạn đó thì GS. Lê chỉ có thể thoát khỏi vỏ dưa lại gặp vỏ dừa mà thôi. Nôm na như thế, nhưng lẩn tránh nó thì không còn khoa học lịch sử, chỉ có thể là các dạng khác nhau của khoa học không khoa học mà thôi. Bảy năm qua (tháng 10-2011 đến nay), GS. Lê lẩn tránh sự chỉ nghị của bạn đọc về vấn đề cốt lõi này nhưng thực hành thì vẫn không thay đổi mà chúng tôi sẽ nói.
Về phương pháp tiếp cận toàn diện, toàn bộ lịch sử Việt Nam (Sđd. Trg.190) được xem là phương pháp luận tối ưu duy nhất để nhìn nhận và đánh giá lịch sử Việt Nam là chuyện rất mông lung, như đem tấm voan che phủ lên thực tế lịch sử. Chúng tôi đã nhiều lần nói đến. Nay Quí vị vẫn khẳng định lại thì chúng tôi xin nhắc lại.
Nhìn toàn diện là yêu cầu sơ đẳng của nghiên cứu khoa học, đâu phải thành tựu. Phát kiến mới. Không cần phải biện luận gì nhiều. Chỉ một chuyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi đủ biết trí tuệ dân gian Việt Nam đã phê phán cái nhìn không toàn diện từ xưa lắm rồi.
Cái quan trọng nhất là trên cái toàn diện đó, nhìn ra cái gì là chính, là bản chất, nếu trưng toàn bộ cái toàn diện ra thì là chụp ảnh lịch sử, đâu phải nghiên cứu lịch sử.
Cái nhìn toàn bộ chỉ có giới hạn. Ở cấp vi mô, như với con voi, hay cơ thể con người cụ thể đối với cuộc hội chẩn, thì có thể thực hiện được, tuy rằng cũng chỉ là tương đối, vì mỗi con người là một thế giới, nhân thân tiểu thiên địa, cho đến nay khoa học vẫn chưa khám phá hết.
Ở cấp vĩ mô của lịch sử, cái nhìn toàn bộ chỉ là một uyển ngữ, một lời nói quen miệng, một câu khẩu đầu (Phạm Thượng Chi). Lịch sử của một cộng đồng dù nhỏ, trong một khoảng thời gian xác định cũng đã khó nắm bắt hết, nói gì đến lịch sử của một dân tộc có đến hàng chục, nay là trăm triệu người, qua rất nhiều biến cố theo thời gian hàng ngàn năm, trên một địa dư hàng vạn, tới cả triệu kilômét vuông đất liền và vùng biển, làm sao một hay một nhóm người có thể thấu thị xuyên tầng được toàn bộ? Các sử gia đâu phải là các vị Bồ Tát có thiên nhãn thông! Đem một câu khẩu đầu, một lời văn nói ra làm phương pháp tiếp cận Sử học thì đó là khoa học gì? Mong Giáo sư và các Giáo sư – Tiến sĩ chỉ giáo cho. Nhìn toàn diện – là một yêu cầu – và nhìn toàn bộ – là một tham vọng – không sai nhưng chưa đủ và chưa phản ánh cái bản chất của phương pháp luận lịch sử. Bởi cái thuật ngữ sáo ngữ này dùng vào đâu cũng được. Khảo sát dân số, kế hoạch hóa gia đình, tình trạng dân cư và chất lượng đời sống cũng phải có cái nhìn “toàn diện toàn bộ”, đâu phải chỉ Sử học mới có. Một trưởng thôn hiện đại (tú tài hay cử nhân) đều nói được câu này, đâu cứ phải các Giáo sư – Tiến sĩ khoa học lịch sử. Đó là cái chỗ mơ hồ không mơ hồ của phương pháp sử học Phan Huy Lê. Bởi trong khoa học – xã hội và nhân văn hiện đại, theo khảo sát của chúng tôi, thì nhãn quan (cái nhìn, cách nhìn, góc nhìn, chỗ đứng để nhìn…) mới là quyết định. Vượt qua rào cản này ắt thuộc về rào cản kia, “chân không đến đất cật không đến giời” thì làm sao thấy được “toàn diện toàn bộ”!
Phải quan sát cái nhìn thực tế để phân định. Xin nêu ba đối tượng để khảo sát cái “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
1/ Nhìn nhận Gia Long và Vương triều Nguyễn.
2/ Nhìn nhận lại một số nhân vật lịch sử như Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh…
3/ Một số sử liệu theo cách khai thác “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
- Về Gia Long và Vương triều Nguyễn đã được nói đến rất nhiều. Chúng tôi tiếp tục khẳng định là GS. Phan Huy Lê đã cắt xén về Gia Long và Vương triều Nguyễn, dương cái phụ ẩn cái chính, làm sáng chỗ mờ, làm mờ chỗ sáng, tự mâu thuẫn với mình. Về Gia Long, chúng tôi đã nói rõ trong bài Sự phủ định của lịch sử – VN TP.HCM, số báo 497 ngày 10-5-2018. Sao lại chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ là sự cầu viện quân Xiêm? Tội cắt đất để cầu viện quân Pháp qua Hiệp ước ủy quyền cho Bá Đa Lộc ký với người Pháp và tội cầu viện quân Xiêm là hai tội lỗi cụ thể, rất nặng nề trên phương diện quốc gia. Nhưng Gia Long mới chính là thủ phạm về tinh thần và tư tưởng đưa đất nước vào con đường bế quan tỏa cảng, bảo thủ lạc hậu, càng ngày càng suy yếu đến chỗ mất nước, chỉ sau 60 năm khi giành lại vương quyền, 1802 – 1862. Đây mới là yếu điểm của Vương triều Nguyễn. Nhưng GS. Lê không nói đến, không đưa ra. Không phải vì không nhìn thấy. Gia Long đã có cơ hội vàng trước người Nhật nửa thế kỷ. Người Nhật mở cửa đón nhận (1854), Gia Long đóng cửa sau khi lên ngôi (1802). Người Nhật lớn mạnh. Con cháu Gia Long lụn bại hết chỗ nói khi Bảo Đại tự nhận: Tôi mới là con điếm đích thực (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam. Daniel Grandclément). Lẩn tránh chỗ tử huyệt này làm sao cắt nghĩa, đánh giá đúng được Vương triều Nguyễn.
GS Phan Huy Lê và cộng sự giành quá nhiều tâm huyết cho công lao thống nhất quốc gia, xây dựng bộ máy quản lý đất nước, để lại di sản văn hóa đồ sộ của Gia Long và Vương triều Nguyễn. Vâng, tất cả đều có như thế, đúng như thế. Nhưng Vương triều Nguyễn có trực tiếp để lại cái “gói thơm thảo” đó cho các thế hệ “thần dân” hay không? Lẩn tránh chỗ này, lịch sử Việt Nam hiện đại là vô nghĩa, nếu không nói là xuyên tạc, giả dối. Bởi từ chỗ tì vết, điểm mờ của Gia Long đến Tuyên ngôn Độc lập ở Thủ đô Hà Nội, giữa thanh thiên bạch nhật, trước toàn thể quốc dân và thế giới, cả dân tộc đã phải trả giá không kể xiết, núi xương sông máu gần trọn trăm năm (1858 – 1945). Kinh tế xã hội cũng do đó mà bị chậm lại rất nhiều. Thế mà cứ khăng khăng tôn vinh công ơn của Gia Long và Vương triều Nguyễn thì có phải là một thứ sử học bất công và vô đạo hay không?
- Một số nhân vật lịch sử văn hóa như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… đúng rằng họ là những người có tài, thậm chí rất tài, có đóng góp ít nhiều cho sự phát triển chữ quốc ngữ, nhưng nếu nhìn toàn diện thì họ đem cái tài để phục vụ cho ngoại bang là chính. Để đồng hóa dân An Nam (Trương Vĩnh Ký), để người nước Nam quên cả Tổ quốc của mình, chấp nhận nền đô hộ của Pháp như một ân huệ của Chúa hay một Thiên Hựu… (Phạm Quỳnh). Cái tài của họ có làm đẹp cho dân cho nước hay làm trở ngại cho công cuộc rửa nỗi nhục mất nước… Lẩn tránh những tử huyệt đó mà toàn diện toàn bộ, thì sẽ hướng đạo tinh thần cho quốc dân đi về đâu?
Lòng yêu nước, hành động xả thân vì nước của Cụ Phan Châu Trinh là vĩ đại, phải kính trọng và noi gương theo Cụ. Nhưng đường lối, chủ trương cứu nước của Cụ không đúng và đã thất bại. Chủ trương “tam dân” của Cụ (khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh) mới chỉ là một giả định lịch sử, một lời hô hào của Cụ. Thực tế nó đã không thành hiện thực được. Phải giành lại độc lập tự do mới có thể khai dân trí, chấn dân khí theo tinh thần dân tộc được. Nếu không chỉ là thứ dân trí nô lệ, tay sai, cao lắm là cố tránh những việc làm có hại cho dân cho nước. Làm sao có được dân trí và dụng dân trí vào sự nghiệp ích nước lợi dân nếu dân tộc còn nằm trong vòng nô lệ. Lịch sử đã hai năm rõ mười như thế mà cứ lặp lại kịch bản Nguyên Ngọc, dẫn lại một học giả Pháp, Daniel Hémery rằng Phan Châu Trinh mới là khuôn mặt chói sáng vĩ đại nhất, lãng quên con người và sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh mà cả thế giới đã tôn vinh là Anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hóa… Thế là toàn diện toàn bộ ư, thưa GS-TS. Nguyễn Văn Khánh?
Cuối cùng xin dẫn ra sự tự mâu thuẫn hay là tính chất “Double mission” (Theo tạp chí Hồn Việt, số 125, bài “Chung quanh vấn đề Phạm Quỳnh”) của GS. Phan Huy Lê.
Ông nói phải vượt thoát rào cản ý thức hệ… nhưng trong thực tế ông không dám rời ý thức hệ nửa bước:
- Ông có Đề án trình lên lãnh đạo Đảng về biên soạn bộ Quốc sử do ông làm Tổng chủ biên. Từ Đề án đến thực tiễn biên soạn là quá nhanh. Các ông đang dồn sức làm cho kỳ được bộ Quốc sử. Nếu các ông tự lo kinh phí biên soạn và xuất bản bộ Quốc sử là một chuyện khác. Còn vẫn phải có câu kinh phí cho Dự án là… thì đâu phải vượt qua rào cản ý thức hệ. Và bạn đọc, và quốc dân, và những người đóng thuế cho Ngân sách quốc gia có quan tâm đến phương pháp sử học “toàn diện toàn bộ Phan Huy Lê” cũng là điều chính đáng, phải không? Vậy thì xin ông nói với các cộng sự, đừng đưa ra cái “nền tảng kiến thức” để hù dọa bạn đọc. Kiến thức của quí vị đã hơn hay bằng với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký chưa? Kiến thức và vận dụng kiến thức đâu phải là đồng nhất!
- Ông xin được Báo cáo thành tựu nghiên cứu sử học ở Hội trường Ban Tuyên giáo dưới sự chủ trì của Trưởng Ban Tuyên giáo mà vẫn nói sử học đến nay vẫn theo phương pháp sử học thời quân chủ, đó là lịch sử của các triều đại… còn lịch sử của nhân dân thì rất mờ nhạt… Chỗ này đúng là rối như công múa trong lồng. Không ra cướp diễn đàn cũng không ra mượn gậy ông. Mà sao lại mị dân đến như thế. Hãy đến các nghĩa trang Điện Biên Phủ, Trường Sơn, Bến Dược, Côn Đảo… xem lịch sử của nhân dân mờ nhạt như thế nào? Ông có biết đá cho kiến trúc cố đô Huế, lăng mộ, bia, tượng… là phải đem từ Núi Nhồi (An Hoạch, Đông Sơn – thuộc thành phố Thanh Hóa bây giờ) vào tận Huế hay không? Xương máu của dân ở đâu khi ông cứ một chiều ca ngợi di sản văn hóa đồ sộ mà nhà Nguyễn để lại. Tấm ván chạy ngạch suốt chiều dài cung điện Thái Hòa là một tấm ván lim liền mạch, nó được xẻ ra từ một cây lim phải là cổ thụ siêu trường siêu trọng (theo nhà Huế học Phan Thuận An). Nó ở rừng sâu núi thẳm lam sơn chướng khí nào của đất Thanh – Nghệ (xưa nổi tiếng là nhiều gỗ lim), ông đã thấy lịch sử của nhân dân ở đó chưa? Thế là Giáo sư bộc lộ rằng suốt hàng chục năm nghiên cứu và giảng dạy sử học Giáo sư đã cúc cung cho sử học Triều đại mà nhạt nhẽo với lịch sử của nhân dân. Đến bây giờ mới nhận ra cũng là rất quí, muộn còn hơn không, nhưng chẳng thấy Giáo sư trong dàn sử học thời quá khứ, chỉ thấy Giáo sư tuyên ngôn ở thời Hiện tại, Giáo sư có từ trên trời rơi xuống hay không?
Về tiểu tiết, xin nêu một số:
Giáo sư khai thác thư tay của GS. Trần Huy Liệu (xem trang 164, sách đã dẫn).
Nếu “GS. Trần Huy Liệu có nguyên tắc làm việc là những thư riêng do GS tự viết thì trước khi gửi, Thư ký chép lại một bản để lưu giữ trong hồ sơ” (Mấy tư liệu mới về Lê Văn Tám, Nguyễn Huy, sđd, trg.163). Vậy cần phải đối chiếu bản Thư ký chép lại với bản chính đã gửi đi (tới Ban Khoa giáo TW). Do bản của Thư ký chép lại không có thủ bút của GS. Trần Huy Liệu xác nhận nên cần có bản đã gửi đi để đối chiếu. Nếu không có sự đối chiếu nên xếp vào mục tồn nghi, không thể xem là một bản sao có giá trị. Trong trường hợp này phải chấp nhận tình ngay mà lý chưa ngay. Tư liệu dù rất quan trọng vẫn không có giá trị chính thức. Có thể sử dụng trong nghiên cứu như là một sử liệu còn tồn nghi, chưa thể khai thác như một sử liệu chính thức được. Bài viết của GS về sự tích Lê Văn Tám mới là sự nôn nóng khoe sử liệu, chưa qua hạch sử liệu trên tầm mức của lương tri sử học để tiếp nhận lịch sử.
Nếu đã cho Lê Văn Tám là anh hùng vô danh, là truyền thuyết có cốt lõi sự thật (sau này các ông Lý Hoài Châu và nhiều vị khác ở TP. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, xác nhận là có thực. Xem các số về chủ đề này trên Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh năm 2017 và trước đó), thì không nên khai thác, nhấn mạnh rằng chuyện này là do GS. Trần Huy Liệu, Bộ trưởng phụ trách công tác tuyên truyền lúc đó, bịa ra, sáng tác ra, đặt ra. Thực ra, tên Lê Văn Tám lại xuất phát từ vở kịch của Phan Vũ. Cách khai thác của GS. Phan Huy Lê là hướng người đọc theo chiều tuyên truyền của Cộng sản, của Cách mạng đều là bịa đặt.
- Nguyễn Ái Quốc năm 1922 đánh giá Gia Long như thế và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh năm 1947 đánh giá Gia Long hoàn toàn khác. Chúng ta chọn bề nào. Ông Tống Văn Lợi (xem trang 159-160, sđd trên) chọn năm 1922, một đoạn trong truyện ngắn “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, hết lời ca ngợi vua Gia Long. Chúng tôi chọn thời điểm 1947, là phù hợp, khoa học, đúng đắn hơn. Tại sao? Nếu lấy thời điểm 1922 thì tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là bất biến, chỉ dừng lại ở đó. Chúng tôi cho rằng nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ 1922 đến 1947 là một sự phát triển liên tục. Đỉnh cao là Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Nếu so sánh với Bản yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Versailles năm 1919 thì thấy rõ, qua thực tiễn cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người ngày càng sâu sắc hơn. Nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1922 đến nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1947, sau khi đã viết Tuyên ngôn Độc lập (1945), Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (1946) là một sự phát triển rất logic, rất biện chứng. Biện luận của Tống Thạc sĩ rõ ràng là một ngụy biện.
- Về Tuyên bố của Trần Văn Hữu ở Hội nghị San Francisco năm 1951 cần phải vận dụng qui luật phủ định biện chứng mới giải quyết được. Theo đó, không phủ định sạch trơn mà giữ lại những yếu tố tích cực. Lịch sử ghi nhận việc làm của Trần Văn Hữu trong bối cảnh đó và xem là tình tiết giảm khinh cho tội làm tay sai, bù nhìn cho thực dân Pháp. Trần Văn Hữu phải được đối xử như Nguyễn Cao Kỳ hay Phạm Duy sau này. Song không phải lấy tình tiết đó mà khôi phục lại cả thể chế quốc gia Việt Nam. Công, tội phải phân minh cụ thể.
- Về giá trị pháp lý quốc tế của các Hiệp định nhà Nguyễn đã ký với phương Tây của GS-TS. Nguyễn Văn Kim, Phó Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chứng tỏ các vị rất sính các Hiệp định và rất kinh viện. Họ ký Hiệp định như thế, nhưng trên thực tế họ có tôn trọng không và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được hưởng lợi như thế nào từ các Hiệp định đó? Và có thể phủ nhận tuyên bố xóa bỏ mọi quan hệ với thực dân Pháp được nói đến trong Tuyên ngôn Độc lập (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Cũng cần tham khảo, trong Tuyên cáo độc lập của Bảo Đại có mục xóa bỏ mọi Hiệp ước đã ký với Pháp. Cần phải xem Hiệp định và thực tiễn. Nếu phía Pháp và Quốc gia Việt Nam thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ 1954 thì lịch sử đã như thế nào? Cãi lý trên văn bản giấy tờ với quân cướp nước bằng vũ khí hiện đại thì quả là một nền tảng kiến thức cao siêu lắm lắm!
Những điều chúng tôi trình bày trên chứng tỏ quan điểm lịch sử, nhãn quan lịch sử, chỗ đứng để nhìn nhận lịch sử là quyết định chứ không phải cái nhìn toàn diện, toàn bộ quyết định. Rất rõ trong trường hợp Gia Long. Chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ cầu viện quân Xiêm mà không thấy tham vọng vương quyền, tâm lý thỏa mãn khi giành được vương quyền liền đóng cửa quốc gia, củng cố quyền lực thống trị và hưởng thụ cung cấm đền đài lăng tẩm… Cái hãm địa của kinh đô Huế đã kìm hãm lịch sử dân tộc. Vương triều Nguyễn đã không chịu thừa kế Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi)… Họ nhất nhất noi theo Thiên Triều và kết cục ở vị Hoàng đế của săn bắn, sòng bạc, hộp đêm và gái nhảy: Chính tôi (Bảo Đại) mới là con điếm đích thực!
Đó là con đường lịch sử của Vương triều Nguyễn, rất dễ dàng nhận ra, thưa Phan sử gia đáng kính.

Hà Nội, tháng Năm lịch sử,
Năm Mậu Tuất – 2018


Quan Văn Đàn
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 499

No comments:

Post a Comment