Monday, 23 July 2018

Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa Phần 1 (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm)

Chợ LớnLịch sử địa lý, kinh tế và văn hóaPhần 1


Nguyễn Đức Hiệp


Chợ Lớn, cách Sài Gòn khoảng 6km, trước đây từng được coi là thủ đô lúa gạo của toàn Đông Dương. Vai trò của Chợ Lớn là cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế Nam Kỳ xưa kia và ngay cả ngày nay. Lịch sử Sài Gòn gắn liền với lịch sử Chợ Lớn. Chợ Lớn được thành lập trước Sài Gòn. Sài Gòn thật ra là tên trước đây đặt cho khu Chợ Lớn và chính tên Sài Gòn có thể có nguồn gốc từ “Tai Ngon” hoặc ‘Tin-Gan” (Hán Việt là Đề Ngạn, chỉ thành phố gần đê dọc kênh tàu Hủ) mà người Quảng Đông đọc là “Thầy Ngòn” hay “Thì Ngòn” (4).

Bài này có mục đích giới thiệu lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa thành phố Chợ Lớn trong hơn 200 năm qua từ lúc người Hoa đến định cư đông đảo từ Cù Lao phố, Biên Hòa. Sự thăng trầm của Chợ Lớn trực tiếp gắn liền với lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ đã qua. Chủ yếu là trung tâm thương mại, không có quyền lực và ảnh hưởng chính trị, Chợ Lớn không được đánh giá đúng mức về tiềm lực văn hóa, kinh tế trong các nỗ lực ưu tiên đầu tư để phát triển kinh tế, hạ tầng cơ sở xứng đáng với tầm vóc của thành phố này, cũng như phát triển văn hóa và bảo tồn các đặc trưng mà con người, trong đó người Hoa và Minh hương là chủ đạo, đã góp phần tạo thành đặc tính con người văn hóa Nam bộ.

Trong các năm gần đây, cảnh quan đô thị thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đã thay đổi thật nhanh chóng qua sự bùng nổ dân số và kinh tế cùng các cơ sở hạ tầng và sự phình rộng đô thị với nhiều quận mới được thành lập. Không cần một bản báo cáo nghiêm túc về tình hình phát triển và quản lý đô thị vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, hỏi bất cứ cư dân và của những khách viếng thăm về tổng quan về môi trường sinh thái, văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì tất cả đều có cùng nhận xét như người viết :

- Phát triển thiếu bền vững : quá tải, ô nhiểm môi trường khí, nước, vấn đề xử lý chất thải rắn. Giao thông ùn tắc, thiếu cây xanh, nước ngập do lấp kênh rạch (Sài Gòn - Chợ Lớn lịch sử là thành phố sông nước)

- Bảo tồn di sản và phát huy giá trị văn hóa lịch sử : sự biến mất gần đây của nhiều kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử (Bến Bình Đông, Chương Dương, Hàm Tử) qua lợi ích trước mắt chứ không đặt trên cơ sở tìềm năng lâu dài.

Phong thái, phong cách kiến trúc, cảnh quan văn hóa và sinh thái của một thành phố làm nên cá tính của thành phố ấy. Chưa nói đến vấn đề sinh thái, cây xanh (đứng trên tòa nhà cao tầng ở quận 4, chỉ thấy nhà là nhà mới mọc chen chúc mà không có cây xanh nào trong toàn quận), tác giả đã đi qua và ghi lại những gì đã thay đổi trong các năm qua và qua bài này dóng lên tiếng báo động về sự biến mất của những khu phố cổ, những cảnh quan đô thị có giá trị văn hóa được thay bằng những tòa nhà không đồng bộ, nhếch nhác không có đặc thù kiến trúc qua sự thiếu hoạch định các khu phố của chính quyền địa phương.

Đặc biệt nhất là dọc theo rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ trên đại lộ Đông Tây vừa xây và các đường tiếp cận gần đại lộ đi Chợ Lớn. Những nơi này là nơi mà sự thay đổi đã làm các khu phố thay đổi hầu như toàn diện. Các hình ảnh xưa trong bài có nguồn từ (6) và hình ảnh gần đây là của tác giả và nhiếp ảnh gia Kinh Luân, báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn.



Sự thành lập và phát triển Chợ Lớn



Người Hoa, từ Cù Lao phố, Biên Hòa, đã kéo về đây thành lập khu định cư mới vào năm 1778 sau khi Cù Lao phố bị Tây Sơn đánh phá. Họ là hậu duệ những người theo nhà Minh chạy khỏi Trung Hoa thời nhà Thanh đến miền Nam lập nghiệp ở Cù Lao Phố và Mỹ Tho vào năm 1680 sau khi được chúa Nguyễn cho phép.

Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (1) nói về vùng Chợ Lớn là nơi phố thị buôn bán sầm uất, sinh hoạt văn hóa, kinh tế nhộn nhịp cuối thế kỷ 18 như sau :

“ Phố chợ Sài Gòn :

Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có : gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán : Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu ; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán ”.

Khi từ Cù Lao Phố đến vùng nay gọi là Chợ Lớn cũ, đã có làng Minh Hương của người Việt gốc Hoa thành lập trước từ năm 1698 cũng do người Hoa nhà Minh đến định cư. Nhưng chỉ 4 năm sau, năm 1782, Tây Sơn Nguyễn Nhạc vào trở lại đánh thành Phan Yên (Phiên An, thành Sài Gòn sau này) ở Gia Định và sau đó đánh luôn Chợ Lớn khu người Hoa ở, tàn sát họ rất nhiều.

Theo Vương Hồng Sển (4) :

“ Sau trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hóa các tiệm buôn Tàu như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị tuôn ra bỏ bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai dám rớ dám mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hóa vụt lên mà ngợp : kim may mỗi cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân,... Còn nói chi số binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước, xác ma da, thằng chỗng kẹo lềnh một khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc mà ớn xương sống không dám rớ đến miếng thịt xương thịt cá ! Nhưng người Tàu quả là giống dân giàu tính nhẫn nại nhất thế giới : tính coi họ thất bại to tát làm vậy mà họ không bỏ cơ sở làm ăn. Ít lâu sau họ gầy dựng lại cơ sở Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn trước bá bội.

Họ lấy đất đắp thêm bờ kinh chỗ mới tạo lập, cẩn đá thêm cao ráo và kiên cố. Và có lẽ để ghi nhớ công trạng này họ đặt tên chỗ mới là “Tai-Ngon”, hoặc “Tin-Gan”, mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra “Thầy Ngồn” hay “Thì Ngòn”. Xét theo mặt chữ, thì “Tai-Ngon”, “Tin-Gan”, “Thầy Ngồn”, “Thì Ngòn” đọc theo giọng Việt là “Đề Ngạn” :

Đề, Đê :  là cái bờ, cái đê ngăn nước.

Đề : cũng có nghĩa là nắm lấy (Đề cương khiết lãnh là nắm lấy cái dây lớn của cái lưới, tức nhiên cả cái lưới sẽ trương ra ; kéo cái cổ áo thì cả chiếc áo nhấc lên. Nghĩa bóng : nắm lấy chỗ chủ yếu. Kể ra khi đi lựa địa thế, đã là đặt cả một hy vọng lớn rồi.)

Ngạn : bờ sông cao dốc.

Đề Ngạn là vùng Chợ Lớn cũ ngày nay vậy (truy ra là xóm Quảng Đông Nhai chỗ miếu Quan Đế, miếu Tam Hội) ”.

Khu cổ nhất ở vùng Chợ Lớn là xóm người Khmer chung quanh chùa Cây Mai và Phú Lâm. Chùa Cây mai, sau này thành đồn Cây Mai từ lúc Pháp đến đánh Sài Gòn đến ngày nay, nằm ở khu vưc gần các đường Nguyễn Trãi, Hồng Bàng và Nguyễn Thị Nhỏ. Chợ Lớn lúc đầu chỉ là tập hợp của nhiều làng, xóm chung quanh các kinh rạch. Nhiều làng xóm chuyên làm những nghề thủ công nghệ, sản xuất,.. mang tên đặc trưng của xóm đó như Xóm Dầu (sản xuất dầu dừa, dầu đậu phọng), Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Lò Gốm,…

Ta hãy đọc tiếp theo, trên đường đi từ Sài Gòn đến Chợ Lớn, đoạn Trương Vĩnh Ký viết về Chợ Lớn (2) :

“ Chợ ở Chợ Lớn xưa là chợ ở vùng Chợ Rẫy ngày nay. Vùng ở giữa đường Đồng Khánh (rue des Marins) cho đến rạch Chợ Lớn (arroyo de Cholon) là nơi cư ngụ của người Minh hương, người Hoa lai Việt, mặc đồ như người Việt và có làng được đặc quyền riêng. (Chú thích : khu này gọi là làng Minh Hương, hiện nay còn lại ngôi nhà xưa nhất Sài Gòn-Chợ Lớn gọi là Minh Hương Gia Thạnh xây năm 1789. Làng Minh Hương đã có từ năm 1698. Ở Phú Thọ Hòa còn có chùa Giác Lâm, ngôi chùa cổ xây năm 1744).

Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là những nhà kho lớn xây bằng gạch, gọi là "Tàu khậu". Những "Tàu khậu" này được cho những người Hoa từ Trung Quốc đến mướn. Họ đến một lần mỗi năm trên những ghe thuyền vượt biển. Họ mang và chứa những hàng vào các kho này. Từ những kho này, họ bán sỉ hay lẻ trong lúc họ tạm trú ở Sài Gòn. Cầu dẫn đến khu chợ lớn (Chợ Rẫy ngày nay) gọi là "Cầu đường", gọi vậy là vì tại đây họ bán đủ loại đường như viên, hủ đường etc..

Trên bờ của rạch chảy qua trước nhà của ông tổng đốc (tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một người Minh hương) là con đường "Phố xếp" (rạch này cũng gọi là rạch Phố xếp sau này được lấp đi thành đường Tổng đốc Phương, nay gọi là Châu Văn Liêm), và cây cầu trên đường đi Cây Mai có tên là "Cầu phố". Ở góc hai kinh (Chợ Lớn và Phố xếp), từ chợ cho đến cầu sắt, là làng Quới đước và chợ "Chợ kinh".


    
Hình 1: Chợ Lớn 1874 – Cho thấy rõ, Kênh Tàu hủ, rạch Bãi sậy
và rạch Chợ Lớn chảy qua khắp khu vực thành phố Chợ Lớn 
(ngày nay rạch Chợ Lớn đã lấp)

Hình 2 : Bản đồ Chợ Lớn 1893 (nguồn : Tour du Monde 1893)
Các rạch ở trung tâm Chợ Lớn đều còn (rạch Chợ Lớn, rạch Lò Gốm)

Hai bên rạch Chợ Lớn từ Cầu Đường cho đến Cầu Khâm Sai và Lò Gốm là nhà cửa san sát nhau. Chợ Lò rèn, ngay tại nhà thờ Chợ Lớn ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký, tức nhà thờ Cha Tam ngày nay) là nơi ở của các thợ rèn và những thợ làm thanh sắt (Quân mậu tài). Trong lúc đi đến chùa Cây Mai, người ta gặp một cầu gọi là Cầu Ông Tiều.



Hình 3 : Canal Bonard trong Chợ Lớn
(rạch Bãi Sậy hay còn gọi là kinh Hàng Bàng)


Hình 4 : Thành phố Chợ Lớn - 1930

Chùa Cây Mai ngày xưa là chùa Cao Miên, bao bọc tứ phía bởi đầm lầy. Trong các đầm này có các cuộc đua thuyền trong ngày lể Phật. Chùa này đã được người Việt phục hồi lại. Dưới thời Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương đến Nam Kỳ cùng với Phan Thanh Giản, đã cho xây một tầng nhà cảnh. Tên chùa và đồi nhỏ ở đây là từ cây mai, một loại cây có bông trắng rất được ưa chuộng và cho là quý bởi người Hoa và người Việt.

Nhà kiểm tra (tòa hành chánh) ở Chợ Lớn trước kia là nơi ở của tri huyện Tân Long ”.



Hình 5 : Nhà người Hoa ở Chợ Lớn 1872
nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (6) (7)
(Đây có thể là khu gần chùa Cây Mai vì kiến trúc nhà
là Khmer có mái cong, không phải là nhà theo kiến trúc người Hoa)


Hình 6 : Phòng thanh tra (Bureau de l’Inspection) Chợ Lớn 1910.
Kế bên trái Phòng thanh tra là Tòa đô chánh (Hotel de ville) Chợ Lớn.
Chợ Lớn lúc này là tỉnh lỵ của tỉnh Chợ Lớn.


Hình 7 : Nhà hát Trung hoa – đường Phùng Hưng (rue de Paris) – Chợ Lớn.
Trên đường Phùng Hưng, chủ yếu là người gốc Phúc Kiến ở,
cũng có một nhà thờ đầu tiên xây năm 1866 dành cho người Hoa,
nay là văn phòng báo Sài Gòn Giải phóng.

Trong thời gian Pháp còn đang đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn, chuẩn đề đốc (contre-amiral) Page đã nhanh chóng cho xây dựng các kho hàng và mở cửa cảng Sài Gòn-Chợ Lớn cho việc buôn bán với bên ngoài. Chợ Lớn trở thành trung tâm thương mại, tiếp viện hàng, thực phẩm cho quân Pháp. Cũng chính vì yếu tố này mà Nguyễn Tri Phương từ đồn Kỳ Hòa đã cho quân đánh cắt đường của Pháp từ đồn Cây Mai vào Chợ Lớn, những trận chiến lớn ban đầu là giữa đồn Cây Mai, đồn clochetons (hình tháp chuông) và chiến tuyến chiến hào mà người Pháp gọi là đồn Redoute của quân triều đình cách đó không xa khoảng 400 hay 500m giữa đầm ruộng đầy mồ mả quanh đồn (chùa) Cây Mai (17).

Nắm được Chợ Lớn là nắm vị trí chiến lược. Rạch trong Chợ Lớn chằng chịt và vì thế các tàu chiến Pháp đều đến án trong các rạch. Tàu Jaccaréo, một loại chiến thuyền “Lorcha” gốc Bồ Đào Nha của hải quân Pháp đã tải súng đạn và tiếp viện cho đồn Cây Mai. Sau này trong Chợ Lớn, người Pháp đặt tên con đường Jaccaréo nơi chiến hạm Jaccaréo đã vào án ngự (Tản Đà ngày nay). Theo Leopold Pallu (17), trong khi đoàn quân Pháp đánh Sài Gòn thì người Pháp đã mở cảng, buôn bán với người Hoa trong Chợ Lớn trong giai đoạn này và đã thu được lợi nhuận khổng lồ :

“ Bảy mươi tàu và một trăm ghe thuyền chuyên chở sáu mươi ngàn tấn gạo trong vòng bốn tháng cho thị trường Hồng Kông và Singapore, đem đến một lợi tức khổng lồ cho ta. Đồn Cây Mai giúp cho việc buôn bán dễ dàng, người ở một số làng đổ đến vì thấy cái lợi lớn mà người Pháp đã đem tới cho họ ; số người Pháp trong đồn ít và không làm khó dễ họ gì cả. Người Hoa tiếp tục theo tính cách của họ, tìm cách bảo vệ việc buôn bán bằng cách lấy lòng cả hai bên An Nam và Pháp. ”

“ Thành phố người Hoa (tức Chợ Lớn, ghi chú người dịch) là chìa khóa của tất cả thương mại ở Nam Kỳ miền dưới (basse Cochinchine) (tức miền Tây, ghi chú người dịch). Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt của người dân trong phần đất An Nam này ”.

Pallu nói về người Hoa ở Chợ Lớn :

“ Nhiều người thật giàu có ; một số trong họ thuê trực tiếp các tàu người Âu để liên hệ với Ấn Độ, đảo Réunion hoặc Trung Quốc. Phải xác nhận là ngày nay tình thế khó khăn do sự chiếm đóng của người Pháp, gây nên sự bất định về thông tin mà các thương gia ở Sài Gòn thì phải dựa vào giá cả ở thị trường HongKong và Thượng Hải, vì thế người Hoa họ đã lập hẳn một hệ thống chuyển thư riêng của họ giữa Sài Gòn và Quảng Châu....

Trung tâm mà người Hoa vào An Nam là thành phố Chợ Lớn, chỉ cách Sài Gòn có hai dặm. Đó là thành phố hoàn toàn người Hoa cư ngụ. Người Hoa ở đây gồm có bảy bang, mỗi bang có một người lãnh đạo gọi là Hong Phoo ; các người Hong Phoo đều đeo một nút màu vàng biểu hiện cho sự khoan dung và uy quyền. Sau trận đánh ở chùa Clochetons vào năm 1860, ta thấy hết sức rõ ràng là thị trường người Hoa sẽ vĩnh viễn lọt vào tay ta, cho nên các người Hong Phoo đều đến xin ta bảo trợ, và ta đã chấp thuận ”.

Chỉ vài năm sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, Chợ Lớn đã thay đổi nhanh chóng. Lúc phái bộ Phan Thanh Giản trở về Sài Gòn năm 1864 sau khi qua Pháp điều đình, đại úy Boresse đã dẫn Phan Thanh Giản và một số tùy tùng đến bến cảng Chợ Lớn dọc kênh Tàu Hủ tham quan. Dưới ô lọng che, Phan Thanh Giảng đã chứng kiến sự biến dạng cảng thương mại to lớn tột cùng. Trong lòng ông, đã thay đổi, nhưng còn triều đình ?

Thị trưởng thành phố Chợ Lớn trong thời gian 1880-1884 là ông Antony Landes. Ông Landes còn là hội viên Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises), tác giả nhiều bài viết và sách về văn hóa, văn minh Việt Nam và Chăm nổi tiếng (như Contes Tjames 1887, 1886, Contes et légendes annamitesNotes sur les moeurs et superstitions populaires annamites 1880, dịch tác phẩm Nhị Độ mai ra tiếng Pháp, Les pruniers refleuris ; poème Tonkinois, 1883). Ông mất lúc còn trẻ cùng với vợ và một cô bạn gái trong một tai nạn đụng tàu trên sông Sài Gòn ngày 23 tháng 2 năm 1893. Tàu Donnai (Đồng Nai) trong chuyến dạo thăm Biên Hòa, lúc trở về vào gần giữa đêm đụng phải tàu hơi nước Le Mouhot của công ty vận tải đường sông (Messageries fluviales), tàu Donnai chìm làm cả ba chết đuối, không tìm được xác (10). Hội nghiên cứu Đông Dương mất đi một nhà nghiên cứu văn hóa xuất sắc. Tất cả sách vở, bản thảo, tư liệu của ông sau này được gia đình người em trai của ông tặng cho Hội Á Châu (Société Asiatique) ở Paris (12). Gần đây, nhà khảo cổ Nguyễn Thị Hậu cho biết là năm 1998, một chiếc tàu chìm được khám phá ở thượng lưu sông Sài Gòn như sau :

“ Một di chỉ khác nằm cách thượng lưu sông Sài Gòn khoảng 1km, có niên đại khá muộn, được Bảo tàng Quân Khu 7 phát hiện năm 1998. Đó là một con tàu đắm có vỏ bọc bằng sắt, bên trong chứa nhiều hiện vật như : thanh gươm có khắc tên chủ nhân là người Pháp ; một chiếc gậy chống bằng gỗ bịt bạc ở đoạn cuối, đoạn tay cầm là một chiếc răng nanh heo rừng nối với thân gậy bởi một khoen bằng bạc chạm hình rồng, một thùng rượu bằng gỗ được ghép bằng vành đai kim loại, một đồng xu lớn đề chữ Indochine Française (Đông Dương thuộc Pháp) phát hành năm 1886, một bình bông treo tường đáy nhỏ, miệng loe bằng gốm men xanh trắng (Phúc Kiến) có đắp nổi hình một ông tiên, trên đầu là hình cây đào, cành mai chạm lộng ; một nồi Supde có đường kính thân 170cm, cao 200cm, bằng sắt đã bị hư hỏng nặng. Theo lời kể của các thợ lặn, còn có 2 sọ người nằm ở vị trí con tàu nhưng không được vớt lên. Vỏ tàu cũng đã bị rỉ sét, mục nát nhiều.

Theo các nhà nghiên cứu, đây có thể là một con tàu tuần tiễu trên sông bằng sắt, chạy bằng hơi nước của chính quyền Pháp tại Sài Gòn. Thời điểm tàu chìm là trong khoảng thời gian từ 1886 đến đầu thế kỷ XX.”

Như vậy khả năng rất lớn là chiếc tàu chìm được khám phá vào năm 1998 chính là tàu Donnai bị chìm năm 1893 mà ông Landes đã đi dạo trên thuyền cùng với vợ và bạn tháng 2 năm 1893.

Hình 8 : Tòa đô chánh thành phố Chợ Lớn (ngày nay không còn), trước kia nằm trên khu đất mà ngày nay là khuôn viên Đại học Y Khoa Sài Gòn. Tòa nhà nhìn ra đường Cây Mai (Nguyễn Trãi) và Avenue de Jaccaréo (Tản Đà) (ngay ngã ba đường Cây Mai và Jaccaréo, đường Jaccaréo đâm thẳng vào là đụng tòa đô chánh. Trong bản đồ 1893 Tour du Monde, đường Jaccaréo từ rạch Tàu Hủ đến đường Cây Mai là chấm dứt, chưa thông qua đường Charles Thomson) và đường xe tramway Chợ Lớn - Sài Gòn, bên phải là rue des Clochetons (Phù Đổng Thiên Vương) và phía sau là Boulevard Charles Thomson (Hồng Bàng) và đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Đường Jaccaréo được người Pháp đặt theo tên một chiến hạm Jaccaréo, trong chiến dịch vây đánh Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1859, đã đậu trên con rạch dẫn vào Chợ Lớn và đồn Cây Mai (nay đã lấp trên đường Tản Đà) thông với kênh Tàu Hủ.


Hình 9 : Cây cổ thụ góc đường Tản Đà và Nguyễn Trãi, trong khuôn viên bệnh viện,
là vết tích duy nhất cạnh tòa đô chính Chợ Lớn còn lại.


Hình 10 : Những căn nhà của khu phố cổ còn sót lại ở đường Tản Đà
Từ năm 1889, tỉnh Chợ Lớn được thành lập gồm thành phố Chợ Lớn, huyện Bình Chánh, một phần của tỉnh Long An ngày nay (Gò Đen, Đức Hòa,..) trong khi Sài Gòn thuộc tỉnh Gia Định. Sự độc lập làm thành phố Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ hơn. Sau khi sáp nhập tỉnh sau 1975, thì Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành một phần của địa phận thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Lớn không còn trở thành cái nôi kinh tế như trước đó. Tuy vậy sức mạnh kinh tế trong Chợ Lớn vẫn đa số nằm trong tay người Hoa.

Các thương gia người Hoa ở Chợ Lớn cũng thường tiếp xúc, lên hệ với các người Hoa ở Đông Nam Á : họ đã có những liên hệ thương mại mật thiết với các cộng đồng người Hoa ở Indonesia, Singapore và Mã Lai. Ở Chợ Lớn có hai câu lạc bộ của người Hoa Singapore, một thiết lập năm 1878 tọa lạc ở số 64 đường Paris (Phùng Hưng kế đường Phúc Kiến) và một thành lập năm 1886 ở số 105 đường Rue des marins (Đồng Khánh sau này là Trần Hưng Đạo nối dài) sau khi có sự đòi hỏi từ lãnh sự Anh ở Sài Gòn năm 1885 (5). Chủ yếu họ mua bán lúa gạo, nông phẩm, thầu xây dựng địa ốc, sản xuất thuốc phiện. Lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp từ các tỉnh miền tây mang vào Chợ Lớn - Sài Gòn và xuất khẩu qua nhiều nước ở Đông Nam Á.

Có từ hai mươi đến ba mươi gia đình người Hoa ở Malacca và Singapore trú tại Chợ Lớn, phần lớn trên đường Phúc Kiến, vì thế đường này được họ gọi là “đường Baba” (rue des Baba). Baba là tên những người Hoa ở vùng Strait Settlement (Singapore và Malaysia) tự gọi (5). Qua sự liên hệ thương mại giữa người Hoa ở Chợ Lớn và các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Hong Kong, ta cũng không lạ gì nhiều nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn nhập máy xay bằng hơi nước hiệu “Barley Mill” từ Anh qua Singapore hay Hong Kong mặc dầu có sự phàn nàn từ người Pháp do không mua máy của Pháp (11). Các thương gia nổi tiếng người Hoa từ Singapore là ba anh em Tan Keng Ho (Trần Khánh Hòa), Tan Keng Hoon (Trần Khánh Vân), Tan Keng Sing (Trần Khánh Tinh) và ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) đều có nhà máy xay lúa hay phần hùn trong đó.

Người Pháp gọi ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) bằng tên Ban-hap (Vạn Hòa). Vạn Hòa là tên công ty mà ông Wee Tin lập ra ở các tỉnh miền Nam trồng và buôn bán thuốc phiện, lúa gạo trong các năm ở thập niên 1850, trước khi người Pháp đến (5)(14). Công ty Vạn Hòa sau đó làm ăn phát đạt mở rộng đến Cam Bốt với các đặc quyền từ vua nước này cho phép trồng, sản xuất thuốc phiện năm 1869 và ở Nam Kỳ năm 1869 được chính quyền Pháp tiếp tục cho phép độc quyền mặc đầu bị sức ép của các thương gia và công ty Pháp muốn cạnh tranh ở Cam Bốt. Ban-hap còn có độc quyền ở Cam Bốt sản xuất bán vé số, mở các tiệm cầm đồ, sòng cờ bạc, trại nuôi và bán thịt heo. Ông Trần Khánh Hòa cũng thành công và có thế lực kinh tế không kém ông Vạn Hòa. Ngày 8/7/1869, đề đốc Ohier đổi tên Ủy ban thành phố (Commission municipale) mà trước đó vào năm 1867 thống đốc de la Grandière đã thành lập sau khi Pháp vừa chiếm Sài Gòn, thành tên chính thức Hội đồng thành phố Sài Gòn (Conseil municipal de la ville de Saigon), gồm 1 thị trưởng và 13 hội đồng viên với nhiệm kỳ 2 năm (7 người được bầu và 6 người được thống đốc chọn), trong đó có Trương Vĩnh Ký và Tang keng Ho (Trần Khánh Hòa). Đây là Hội đồng thành phố đầu tiên của Sài Gòn (16).

Nhà máy xay lúa bằng hơi nước đầu tiên ở Việt Nam được thành lập ở Chợ Lớn vào năm 1874. Đó là nhà máy của ông Spooner bỏ tiền ra đầu tư, hầu hết các xưởng nhỏ còn lại dùng cối xay lúa gạo là của người Hoa ở Chợ Lớn.

Nhưng không lâu sau, các người Hoa cũng xây các nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước. Cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Chợ Lớn bắt đầu. Năm 1897, có 9 nhà máy xay lúa (8 ở Chợ Lớn và 1 ở Khánh Hội), trong đó có 7 nhà máy là vốn của người Hoa và 2 nhà máy vốn của người Pháp, Đức và Hoa. Đến đầu thế kỷ 20, năm 1900 thì cả thảy 9 nhà máy ở Chợ Lớn đều là của chủ người Hoa, với giám đốc điều hành là người Pháp (8).



Hình 11 : Nhà máy xay lúa, dọc kênh Tàu Hủ ở Chợ Lớn


Hình 12 : Gạo xay rồi được mang lên tàu ở kênh Tàu Hủ


Hình 13 : Gạo chất ở bến


14 : Một nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn. Hình ảnh của ông Nadal,
nhiếp ảnh người Pháp xuất bản trong sách Album illustré de 456 gravures sur cuivretựa đề La Cochinchine (Nam Kỳ), xuất bản năm 1926, nguồn La Belle Indochine.

Tất cả các nhà máy xay lúa đều ở gần bờ sông rạch để tiện mang lúa xuống từ các ghe, thuyền ở các tỉnh miền Tây đến và để mang gạo mới xay đi xuất cảng ra các nước khác. Nước dùng cho máy xay bằng hơi nước lấy từ nguồn rất thuận lợi ngay tại sông, rạch dọc nhà máy. Nhiên liệu được dùng để đốt chạy máy hơi nước là vỏ trấu.

Có 3 loai gạo : gạo “Baixau” hột dài và thon (giá cao nhất), gạo Vĩnh Long hột dài và to và gạo Gò Công hột ngắn, to mập (11). Bốn nhà máy của người Hoa có bắt điện ban đêm và họ thiết lập các cột đèn (arc lamp) có độ sáng cực mạnh dọc bến tàu để hoạt động và chuyển lúa gạo lên xuống suốt đêm

Nhà máy hoạt động xay lúa cho riêng chủ hay xay lúa cho các nguời khác qua hợp đồng xay. Trong lúc xay riêng, nhà máy mua thẳng lúa từ nông dân vào lúc đầu mùa gặt vào khoảng tháng 12 và tháng 1 và được chứa trong kho để xay khi có nhu cầu xuất khẩu hay mua lúa từ các nhà buôn trong các tháng khác. Vì mua với số lượng nhiều, số vốn của nhà máy vì vậy bỏ ra rất lớn. Một vài nhà máy có trong kho trữ luợng lúa trị giá đến 1,5 triệu dollar (11).

Đường Phùng Hưng (rue de Paris) và đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) là hai con đường chính buôn bán sầm uất, được coi là trung tâm sinh hoạt thương mại và văn hóa chính của người Hoa ở cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Xưa kia ông Vương Thái (Wang-Tai), một triệu phú người Hoa gốc Quảng Đông từ Hồng Kông, có một nhà ở đường Triệu Quang Phục. Hai con đường này nằm ở hai bên khu chợ Chợ Lớn cũ nằm giữa. Sau này chợ Chợ Lớn được dời đến chợ Bình Tây.

Hình 15 : Một góc trên đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) ngày nay.

Nhà văn Marguerite Durras đã có đề cập đến sinh hoạt của người Hoa ở đường Phùng Hưng trong tác phẩm L'Amant của bà. Đường Phùng Hưng là nơi nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến đến định cư. Cũng không lạ gì mà trước đây các thương gia Singapore và Mã Lai gốc Phúc Kiến đã tụ tập ở đường Phùng Hưng. Tại đây ở số 203 Phùng Hưng là tòa nhà lớn của Tổng Thương hội Hoa kiều mà trước đây có đề cập nhiều trong sách Hoa Kiều Chí của các nhà nghiên cứu Đài Loan hồi thập niên 1960s (thông tin do bác Trần Đại Tân ở Hội Văn học Nghệ thuật người Hoa cho tác giả biết). Sau này trong thập niên 1990 là trụ sở của Ngân hàng Việt-Hoa, và ngày nay là trụ sở của báo Sài Gòn Giải Phóng.

Đường Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và được coi là trung tâm Chợ Lớn. Nhà Xã Tây (Hotel de Ville) ở cạnh đây (gọi là Xã Tây vì là tòa nhà hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập, xuất cảnh và giấy tờ). Vùng này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã.



Hình 16 : Chợ Bình Tây – Để ý phía trái, rạch bãi Sậy vẫn còn

Rạch Bãi Sậy (còn gọi là kinh hay rạch Hàng Bàng) xưa rất trù phú, nhà cửa hai bên san sát. Rạch nối với rạch Lò Gốm và xa nữa là Rạch Cát. Rạch Bãi Sậy sau đó (bắt đầu từ năm 1968) dần bị người dân xây lấn nhà quanh rạch, và hiện nay hầu như hoàn toàn bị lấp để trở thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khỏe. Trước đây, dọc theo rạch Bãi Sậy là nhà cửa người Hoa san sát nhau và hai bên có trồng các cây bàng rất đẹp mắt và cho nhiều bóng mát (vì thế gọi là kinh Hàng Bàng). Năm 1945, quân Nhật đã chặt các cây bàng để làm hầm núp phía cầu Bình Điền gần đó (4).



Hình 17 : Bến Bãi Sậy và cầu Ba Cẳng (phần phía trên của hình), cầu Palikao ở giữa hình. Ngày nay rạch bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Cầu Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một câu gần Bắc Kinh, gọi là Bát lí kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh. Quân Thanh thua và Bắc Kinh bị chiếm và cung điện mùa hạ bị đốt cháy. Hòa ước Thiên Tân sau đó được ký kết. Lúc này cũng là lúc quân Pháp cùng với đề đốc Page và Charner rút quân chủ lực ở Sài Gòn qua Trung Quốc, chỉ để lại số ít cầm cự với quân triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy ở đại đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa), phản công để lấy lại Sài Gòn-Chợ Lớn.
Theo bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ hoàn toàn.



Hình 18 : Cầu trên rạch bãi Sậy


Hình 19 : Rạch Bãi sậy còn sót lại, trên Đường bến Bãi Sậy ngày nay 
– hình chụp từ trên “cầu Gò Công” (cầu nhỏ chỉ xe gắn máy đi được)


Hình 20 : Tàn dư của Rạch Bãi Sậy ngày nay, hình chụp từ “cầu Gò Công”
Gần cuối rạch bãi Sậy, nơi rạch rẽ quẹo phải vào kênh Tàu Hủ có cầu Ba Cẳng (phía sau chợ Kim Biên), hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập. Gần cầu Ba Cẳng, ở ngã ba rạch Bãi Sậy từ kênh Tàu Hủ và rạch chạy đến đường Kim Biên (tiếng Quảng Đông nghĩa là Cao Miên, vì trước đây gọi là đường Cao Miên hay rue de Cambodge) là đường Gò Công, đây là đường từ Chợ Lớn đi xuống Gò Công (cầu Ba Cẳng có bậc đi xuống đường Gò Công). Trụ sở và xưởng sản xuất “xà bông Việt Nam” nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên.



Hình 21 : Pont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin 
(công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo 
Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.


Hình 22 : Khu vực cầu Ba Cẳng (góc rạch trước kia nối rạch Bãi Sậy ở phía trái và rạch Tàu Hủ). 
Chợ Kim Liên ở đằng sau hình. Nay hoàn toàn nghẽn.

Hình 23 : Đoạn này trên Đại lộ Đông-Tây, trước kia nối kênh Tàu Hủ
với rạch Bãi Sậy qua đoạn cầu Ba Cẳng.

Rạch Chợ Lớn (cũng gọi là rạch Cầu Đường) từ kênh Tàu Hủ đi lên trung tâm Chợ Lớn ngày nay, sau đó lên tận đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai. Khúc gần Cầu Đường là bến Gaudot (quai de Gaudot) nơi có trụ sở nhà buôn Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp, chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn. Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872 (13). Rạch Chợ Lớn chảy từ Kênh Tàu Hủ lên bến Gaudot, kế đó là đến bến Foukien (quai de Foukien, nay là đường Trang Tử - bến xe Chợ Lớn) và cho đến đoạn gần rạch Lò Gốm ngày nay (đoạn này bây giờ là đường Lê Quang Sung).

Sau khi rạch Chợ Lớn bị lấp, bến Gaudot trở thành đường Quai de Gaudot (năm 1955 là đường Khổng Tử, ngày nay là đường Hải Thượng Lãn Ông). Tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là Ecole de Foukien). Trường, nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chổ nghĩ ngơi và tắm ngựa.

Đường Hãi Thượng Lãn Ông, ngày nay bắt đầu từ Đại lộ Đông Tây ở kênh Tàu Hủ, là con đường chính ở Chợ Lớn. Ở đường này vẫn còn một ít các tòa nhà cổ, to lớn và có thể được coi là đẹp nhất ở Chợ Lớn. Xưa kia, trong thập niên 1960, “vua bột ngọt”, ông Trần Thành cư ngụ trên con đường này.



Hình 24 : Tòa nhà cổ vẫn còn ở đường Hãi Thượng Lãn Ông giữa sự thay đổi nhanh chóng
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)


Hình 25 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông đang thay đổi với các tòa nhà cổ bị áp lực
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)


Hình 26 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông


Hình 27 : Nhà cổ trên đường Hãi Thượng Lãn Ông


Hình 28 : Một góc đường trên đường Hãi Thượng Lãn Ông

Từ Sài Gòn vào Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 19 có hai con đường chính : Nguyễn Trãi (route haute) và đường dọc theo rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ (route basse). Sau này đầu thế kỷ 20, con đường Avenue Galliéni (Trần Hưng Đạo) và Rue des Marins (Trần Hưng Đạo nối dài) mới được thành lập nối chợ Sài Gòn vào Chợ Lớn.



Hình 29 : Một góc phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài


Hình 30 : Phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài

Cảnh quan đường Trần Hưng Đạo ngày nay hầu hết đều biến dạng thay đổi. Các tòa nhà đầu thế kỷ 20 gần như biến hết, chỉ còn một số ít cuối đường Trần Hưng Đạo nối dài ở Chợ Lớn.




Hình 31 : Chợ vùng Chợ Lớn


Hình 32 : Khu chợ, Chợ Lớn


Hình 33 : Chợ Lớn, Nhà máy rượu, đường Gò Công ngày nay


Hình 34 : Xe điện dọc bến rạch Chợ Lớn, nay là bến xe Chợ Lớn
Theo Eugene Bonhoure (8), năm 1900 dân số Chợ Lớn là 121 987 người, trong đó có 41 588 người Hoa, 80 061 người Việt, 166 người Âu (trong đó có 135 người Pháp, số còn lại là người Miên, Ấn, Mã Lai, Nhật và Tagal (gốc Phi Luật Tân)). Lúc này Chợ Lớn thông thương với Sài Gòn qua 1 đường xe lửa chính, 2 đường xe lửa (tram) chạy bằng hơi nước và các đường bộ và có 9 nhà máy xay lúa sản xuất gạo mà chủ là người Hoa. Số lúa xay là 96 000 picul (1 picul, hay tạ Trung quốc là 68kg), sản xuất được 44 000 piculs gạo “cargo” (không trắng và láng) và 24200 piculs gạo trắng.



Hình 35 : Phú Lâm – một góc chợ


Hình 36 : Phú Lâm – đường đi Mỹ Tho, tiệm cầm đồ
Người Hoa nổi tiếng ở Sài Gòn - Chợ Lớn cuối thế kỷ 19 là ông Cheung Ah Lum (Trương Á Lâm, hay Zhang Peilin, Trương Bội Lâm). Cũng như ông Ban-hap (Vạn Hòa, tên thật là Gan Wee Tin hay Nhan Vĩ Thiên), người Pháp gọi ông là Wang-Tai (Vương Thái). Wang-Tai là tên công ty ông lập ở Sài Gòn sau khi ông đến từ Hồng Kông vào năm 1862 để giao các tàu buồm (junks) mà một sĩ quan người Pháp, đại diện cho chính quyền Pháp mới thành lập ở Sài Gòn, đã đến Macao trước đó vào năm 1860 để đặt hàng đóng các tàu từ công ty của ông ở Macao (14). Sau khi giao tàu xong, ông quyết định ở lại định cư hẳn tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Có kinh nghiệm ở Hồng Kông khi người Anh đến ở đó để lập thuộc địa, công ty Wang-Tai đi ngay vào kỹ nghệ xây cất, thiết lập các xưởng gạch và xây các nhà kiểu Âu châu khi người Pháp còn chân ướt chân ráo. Các nhà này được cho mướn cho chính quyền Pháp và Phòng Thương mại mà ông là một hội viên từ lúc ban đầu. Ông trở thành phát đạt và giàu có còn hơn lúc ở Hồng Kông.

Lúc còn ở Hồng Kông, có lần ông suýt bị rơi vào vòng lao lý khi một hôm, vào ngày 15/1/1857, công ty làm bánh mì của ông (Esing Bakery) sản xuất bánh mì có chứa độc tố arsenic làm nhiều người bị ói mửa ngày đó. Trong số rất nhiều thợ mà ông không kiểm soát được, có một số đã bỏ arsenic để đầu độc đa số các người Anh ở Hồng Kông. Ông bị đưa ra tòa, nhưng vì không có chứng cớ và với luật sư giỏi ông được tha bổng, nhưng không được lui tới ở Hồng Kông trong 5 năm. Vì thế ông đến Macao (nơi ông học buôn bán lúc còn nhỏ với chú ông) mở tiệm và xưởng sau biến cố này, và chính ở Macao ông gặp đại diện Pháp nhờ ông đóng tàu (15).

Công ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến các năm của thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Sài Gòn, trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các người di dân Trung quốc đến Sài Gòn - Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (14). Năm 1879, ông gởi con ông và một người Hoa Quảng Đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay “Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang.

Ông Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi (sinh năm 1827). Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc ra bến tàu để tiễn ông.

Sau ông Trương Bội Lâm, ở thế kỷ 20 có nhiều nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp nổi tiếng ở Chợ Lớn và có ảnh hưởng khắp miền Nam như các ông Quách Đàm, Trương Văn Bền, Hứa Văn Bon, Trần Thành, Vương Đạo Nghĩa… Tinh thần thương mại, đầu óc mở đường, kiên trường và gan dạ trong thương trường của những người Hoa và người Việt gốc Hoa đã đóng góp to lớn vào sự hưng thịnh không những cho thành phố Chợ Lớn mà cho cả nền kinh tế Việt Nam trước kia và cho đến ngày nay.

Nguyễn Đức Hiệp

THAM KHẢO : 

(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, (bản điện tử)

(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.

(3) Les colonies françaises : notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.

(4) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.

(5) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Sài Gòn : notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.

(6) Hình ảnh, tư liệu belleindochine 

(7) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, H. Georg (Lyon), 1876.

(8) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.

(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.

(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).

(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du décorticage du riz, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).

(12) Louis Finot, Les papiers de Landes, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.

(13) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935, Contributeur: Cabaton, Antoine (1863-1942). Éditeur scientifique. 

(14) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).

(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7.

(16) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917, 

(17) Léopold Pallu de la Barrière, Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861, Berger-Levrault et Cie, Paris 5 Rue des Beaux-Arts, 1888.

                                                            (Còn tiếp)
http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/cho-lon-lich-su-ia-ly-kinh-te-va-van.html

No comments:

Post a Comment