Các chiến sĩ tổ mũi nhọn đánh sân bay Gia Lâm đêm 3 rạng sáng 4-3-1954
Trường bay bốc cháy
Mồ côi mẹ khi mới lên 4 tuổi ở quê hương Đông Khúc, tổng Xuân Cầu,
nay là xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, Hưng Yên, cậu bé Đặng Văn Nguyên
được đưa lên Hà Nội. Tuổi thơ của Nguyên trôi đi với những năm tháng đi
ở ẵm em, đội than trong nhà máy điện Yên Phụ vẫn không đủ ăn, lại đi
bán kem, đánh giầy khắp các ngõ phố Hà thành. Nguyên kiếm sống nhọc
nhằn, và vì thế, anh đến với cách mạng như một lẽ tất nhiên.
Tiểu đội của Nguyên có đủ các gương mặt học sinh công tử bột, đàn
hát rất giỏi, thanh niên làm đủ nghề ở các khu phố, do anh Thuỵ ứng
làm Tiểu đội trưởng (sau này, Thuỵ ứng là dịch giả dịch nhiều tác phẩm
văn học Nga, trong đó có “Sông Đông êm đềm” của Sôlôkhốp). Trấn giữ khu
vực chợ Đồng Xuân, các chiến sĩ tiểu đội dựa vào địa hình địa vật có lợi
thế như chùa Huyền Thiên để khắc phục khoảng trống trước cửa chợ và
bãi Lepage sau chợ. Những trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở Hàng
Khoai, Hàng Giấy, chùa Huyền Thiên, trường Hàng Cót trong suốt những
ngày đông 1946 “sống mãi với Thủ đô”.
Sau một tháng bám trụ chiến đấu ở phía bắc liên khu, Đặng Văn Nguyên
cùng nhiều đồng đội ra hậu phương theo đường công khai ngày 15-1-1947,
theo thoả thuận giữa ta và Pháp. Năm 1949, khi Hà Nội thực hiện chỉ thị
của Trung ương chuẩn bị chiến trường, tiến tới Tổng phản công, lực lượng
vũ trang ở căn cứ gấp rút được củng cố lại thành tiểu đoàn 108. Sau
khi nhận được tin tức và sơ đồ cống ngầm do đồng chí Hải cóc (tức Chu
Duy Kính) làm “cỏ vê” trong sân bay thoát ra báo cáo lại Chỉ huy trưởng
Mặt trận Phùng Thế Tài quyết định chọn lựa những chiến sĩ gan dạ, quả
cảm, mưu trí để tập dượt đánh mục tiêu quân sự quan trọng trong nội
thành-sân bay Bạch Mai.
Về trận đánh cách đây 64 năm, ông Nguyên còn nhớ rõ: “Chiều
17-1-1950 bắt đầu hành quân, chúng tôi đánh bộ quần áo nâu, khoác bị
đựng mìn và lựu đạn… mọi. Nhờ du kích địa phương dẫn đường, chúng tôi
chia làm ba mũi tập kết gần sân bay và đột kích theo ba hướng khác nhau.
Mũi 1 có 18 chiến sĩ và một du kích xã do anh Hà Giáp chỉ huy chui
đường cống ngầm lên. Mũi 2 có 8 chiến sĩ và 2 du kích do anh Trần Thành
chỉ huy theo bờ đầm vào sân bay. Mũi 3 có 6 chiến sĩ và xã đội phó du
kích do Trung đội trưởng Tráng chỉ huy theo hướng bắc có nhiệm vụ đốt
kho xăng. Cũng rất may là đêm đó, sương mù dày đặc nên chúng tôi trèo
lên máy bay gài mìn mà đèn pha của địch không phát hiện được. Anh Khang
“cà phê” khi trèo lên đặt mìn bị ngã trẹo chân rồi lạc đường không ra
được, đã hi sinh, nhưng chúng ta thắng ròn rã: 25 máy bay bị tiêu diệt,
hàng chục vạn lít xăng bốc cháy. Ngay đêm đó, chúng tôi cấp tốc hành
quân về chợ Cháy. Trên đường rút ra bà con đã chuẩn bị sẵn xôi, cơm nắm
cho chúng tôi rất chu đáo. Toàn đội được Chính phủ tặng thưởng ngay Huân
chương chiến công Hạng Ba. Anh Ngô Duy Biên rất phấn khởi sáng tác luôn
bài hát “Trường bay bốc cháy”, được anh em cả mặt trận Hà Nội hát say
sưa khi sinh hoạt văn hoá văn nghệ”.
Sau trận này tiểu đoàn 108 phân tán đi các địa phương để bảo tồn lực
lượng trước sức tấn công dữ dội của Pháp ở Hà Nội và cả đồng bằng Bắc
bộ. Riêng ông làm quân báo, trở vào nội thành, đóng vai người bán kem,
đánh giày để đưa đường cho cán bộ từ nội thành ra đến Nhị Khê-Đồng
Quan-Vân Đình an toàn rồi quay vào. Như con thoi ra vào nhờ cái “tít”
sống công khai trong nội thành, ông lọt qua mắt cú vọ của bọn địch.
Nhiều cơ sở bị vỡ nhưng ông vẫn qua mắt địch cho đến giữa năm 1953 nhận
nhiệm vụ mới.
Chiến thắng ở cửa ngõ Thủ đô
Hè 1953, chiến cuộc đã dần thay đổi có lợi cho ta; vùng du kích của
Bắc Ninh, Hưng Yên-những tỉnh giáp với Hà Nội đã mở rộng hơn trước.
Nhằm phối hợp với chiến trường toàn quốc, Đảng bộ Hà Nội chủ trương đưa
lực lượng vũ trang về sát thành phố, chuẩn bị đánh sân bay Gia Lâm, cầu
hàng không quan trọng của Pháp tiếp tế cho các chiến trường.
Nhận lệnh của Mặt trận Hà Nội, một tổ tiền trạm gồm 5 người, trong
đó có ông Đặng Văn Nguyên do ông Lê Ninh làm tổ trưởng đi vào trước. Từ
căn cứ ở Thạch Thành (Thanh Hoá), các ông xuyên rừng, cắt đường, sang
tỉnh đội Hưng Yên đang đóng ở Ân Thi đặt vấn đề nhờ Tỉnh đội bạn cho
giao liên dẫn lên Bát Tràng. Riêng tổ quân báo vẫn bám trụ ở Thạch Cầu,
Ái Mộ, Trạm, Nha để điều tra đường vào, hiện trạng sân bay, các loại máy
bay, từ đó mới tìm ra cách đánh có hiệu quả. Nhớ lại ngày tháng ba cùng
với dân địa phương, ông Nguyên cười rất vui: “Tôi bị anh em đặt biệt
hiệu “Nguyên Toét” và gán ghép với cô du kích làm công tác địch vận
huyện Gia Lâm, lại còn đặt thành vè, chính là từ việc đi trinh sát địa
hình, hoặc tránh những lần chúng đi kiểm tra dân trong làng nên tôi phải
bôi nhọ nhem mặt mũi cho chúng không nhận mặt được. Hồ Lâm Du ở sát sân
bay, tôi phải bơi rất nhiều lần để tìm cách vào sân bay an toàn. Điều
tra thật kỹ rồi mới lên sa bàn để anh em luyện tập ở xã Từ Hồ và xã
Đông Cảo (huyện Khoái Châu).
Sau 9 tháng luyện tập, 16 chiến sĩ và 3 du kích địa phương do ông
Vũ Văn Sự, cán bộ đại đội 8 chỉ huy xung trận đêm 3 rạng sáng 4-3-1954.
Từ nơi đóng quân ở Từ Hồ và Đông Cảo, các chiến sĩ hành quân lên Văn
Đức, Bát Tràng rồi tập kết ở làng Thạch Cầu. Ở đây đã có sẵn hầm bí mật
chữ A cho các chiến sĩ nghỉ ngơi cải trang và uống nước mắm để bơi qua
hồ Lâm Du. 19 chiến sĩ chia làm 3 tổ mũi nhọn tiến vào vị trí chiến đấu.
Họ bơi qua hồ Lâm Du lạnh buốt để tiếp cận sân bay, cắt hàng rào.
Dẫn đầu một tổ mũi nhọn, ông Nguyên vẫn nhớ phải dùng kìm cộng lực
cắt rào sao cho đèn pha của địch không phát hiện được: “Hàng rào của sân
bay Gia Lâm hiện đại hơn sân bay Bạch Mai nhiều. Nó treo mìn trên hàng
rào, mình chạm vào là sáng lên ngay. Tôi và anh Chiến tháo kíp để mìn
không phát sáng nữa, sau đó cắt hàng rào theo hình chữ chi cho anh em
chui rào. Mìn đánh đợt này là loại TNT, 2 bánh ép làm một để tạo sức
công phá lớn. Theo hiệu lệnh, chúng tôi nhanh chóng tiến đến các mục
tiêu đã định, đặt mìn. Trên đường rút ra khỏi sân bay, đã nghe tiếng
mìn, tiếng thủ pháo nổ vang, máy bay bốc cháy sáng rực bầu trời. Anh Ty
hi sinh ngay tại trận đánh, nhưng 18 máy bay các loại và kho xăng đã bị
đốt cháy, 16 tên địch bị tiêu diệt, góp phần quan trọng cùng quân dân
cả nước trên các chiến trường phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ”.
Ông giở cái túi “đại tướng”, trong đó là ảnh các chiến sĩ chụp ngay
sau trận thắng và bảo: “Tôi phóng to thế này, kỷ niệm cho anh em. Ai đã
mất thì con cháu sẽ giữ làm kỷ niệm, tự hào về cha ông mình”. 30 năm
nay, sau khi nghỉ hưu, ông Nguyên làm ông lang vườn cứu chữa bệnh cho
làng xóm, vui vầy với cháu con.
Từ một chiến sĩ quân báo của Mặt trận Hà Nội trở thành cán bộ của
Mặt trận và sau này là của Thành đội Hà Nội, trưởng thành qua hai cuộc
kháng chiến, giờ ông sống thanh bạch với mảnh vườn nhà. Nhìn những cây
thuốc nam trong vườn ông chăm bón, tôi cảm nhận dòng chảy không ngừng
của cuộc sống tiềm ẩn trong mỗi cuộc đời thật giản dị lặng lẽ nhưng cũng
vô cùng cao quý, thiêng liêng.