Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc.
(http://phunuonline.com.vn/gia-dinh/su-that-o-truong-bon-lich-su-khong-the-lam-gia-duoc-106321/)
1. Từ nhà lên xã. Xã lên huyện. Tập trung hai đêm
lại đi. Đường đi thăm thẳm, cây cối lút mặt người. Cứ tưởng đi đâu hóa
ra là lên Tân Kỳ. Dọc đường, các anh không xưng tên mà cứ một hai gọi cô
là “con o”. Bảy thanh niên của xã cùng đi đợt này chỉ mình cô là nữ. Mẹ
không cho cô đi. Mẹ khóc. Con là chị cả, sau còn bốn đứa em ngơ ngơ. Cô
bảo, con là đoàn viên, phải gương mẫu. Xã mình chưa có ai là nữ xung
phong đi cả.
Cha ra cửa hàng nhờ may cho cô
chiếc túi xách màu nâu để mang bên người, đựng hai bộ quần áo. Thanh
niên cộng sản không được khóc. Khóc là yếu đuối. Cha chúc cô lên đường
khỏe mạnh. Mẹ của anh cũng sang khuyên cô ở lại. Con đi lỡ nó về thì
sao? Anh đã chết một năm rồi. Chưa có giấy báo tử nên gia đình vẫn nuôi
hy vọng.
Cô
Trần Thị Thông, tiểu đội trưởng đội 2 - đại đội 317, là người nhất duy
nhất sống sót trong trận bom dội xuống cung đường 15A sáng 31/10/1968
tại Truông Bồn, xã Sơn Mỹ, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trận bom đã vùi
lấp 13 thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ, trong đó có 11 cô gái
và 2 chàng trai. Hiện cô đang sống tại thành phố Vinh.
Đi
thanh niên xung phong là đi làm đường. Mở đường, san lấp đường cho xe
vào Nam đánh giặc. Công việc có lẽ bình yên vì không phải vào trong Nam.
Cô lên được ít hôm thì một bữa chợt có người nhắn ra gặp mẹ. Sao mẹ
biết con ở đây mà thăm? Thì nghe mấy người đi buôn nói trên Tân Kỳ có
đoàn thanh niên xung phong, toàn người Yên Thành, mẹ đoán có con nên đi
thử xem có gặp không.
Lên mà thấy có con thì về,
sao đâu. Thấy con sống và công tác thế này, mẹ yên tâm rồi. Mẹ vừa lên
đã về ngay. Gần hai tháng nấu ăn thì được chuyển lên tổ làm đường. Nghe
mà phấn khởi. Nấu ăn mãi thì chán chết, cứ có cảm giác tù túng. Anh em
lại mỗi người mỗi ý, không biết nấu thế nào cho vừa.
2.
Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong Nam. Cô nhận ra điều đó khi lần
đầu chứng kiến cảnh máy bay ném bom hàng loạt xuống ven rừng vào một
buổi chiều. Truông Bồn chiều hè. Gió lào khô khốc. Mùi khét của bom.
không một tiếng chim. Sáng đi làm, thấy một dãy dài xe chở hàng cháy
khét, lửa vẫn còn âm ỉ.
Chỉ thấy những hình
người lái. không thể nhận ra các anh là ai. Nhìn rồi đi tiếp. Lại thấy
hai chị em. Con chị độ mười tuổi, bế con em chắc chưa đầy tuổi, cánh tay
sắp đứt lìa khỏi cơ thể vì mảnh đạn. Đứa em không khóc. Con chị mặt
không chút cảm xúc. Sao mọi người cũng chỉ nhìn mà chẳng ai làm gì, nói
gì?
Tiểu đội mười bốn người. Mười hai nữ, hai
nam. Đang bữa cơm, con Vinh khuỳnh tay chỉ hướng sang mâm bên kia. Khuy
quần anh Hạp bị tuột. Anh vẫn tỉnh bơ ăn, không biết bốn đứa con gái bên
này đang không nhịn được cười. Thương anh quần đùi cũng không có mà
mặc. Con Đang đẹp nhất đội. Có nụ cười rất tươi.
Một
anh cùng đơn vị yêu thầm, dù biết nó đã có người yêu ở nhà. Vác xẻng ra
san đường, nó kể, hôm qua anh ấy lại gửi trộm thư cho em. Đã đọc chưa?
Dài lắm, mới đọc sơ sơ. Tối về ta cùng đọc. Tối về đã rất khuya. Vừa rửa
tay rửa chân, thay quần áo xong lại có lệnh ra làm tiếp. Chờ đoàn xe đi
qua thì cào đất lấp dấu bánh xe. Đi làm còn cố chọn quần chọn áo cho
vừa, cho đẹp.
3. Tỉnh dậy trong trạng thái mơ
màng. Lại thiếp đi suốt hai ngày nữa. Ngày thứ ba cô mới ngồi dậy được.
Chuyện gì vậy? O may mắn lắm. Bọn nớ chết cả rồi. Người mẹ - người cả
tiểu đội đang ở nhờ trong nhà kể. Có hai anh bộ đội đưa o về. Một anh
mang xách y tá, một anh mang xách cán bộ. Họ hô hấp nhân tạo rồi mần đủ
mọi chuyện cho o tỉnh lại. Lần mò ba lô từng đứa. Cái giường này bốn đứa
nằm chung. Cô, con Nhung, con Vinh, con Đang. Giờ chỉ còn mình cô.
Máy
bay nha, tất cả chui vô hầm nha. Mọi lần máy bay dạo một vòng rồi mới
thả bom. Lần này phát hiện máy bay là đã thấy bom rơi. Mười ba người
cùng chết. Không biết lúc đó họ có kịp cảm nhận cái chết không? Họ có
đau đớn không? Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong B. Đi thanh niên
xung phong cũng có thể không trở về.
Đó là những
điều bốn năm trước cô không thể ngờ tới, không tưởng tượng ra. Tiểu đội
chỉ còn mình cô. Được gom về đội thu dung. Lý do sức khỏe yếu. Cô không
muốn về đó. Về đó là nhận mình có tư tưởng buông xuôi. Cô không buông
xuôi. Vậy là được ghép vào một tiểu đội khác.
4.
Chẳng ai biết đến cô cho đến 29 năm sau. Hôm đó, cô bế thằng con út đi
xem ké ti vi nhà hàng xóm. Đang phát chương trình thời sự. Cô nhìn lên
thấy dòng chữ “Hướng về Truông Bồn”, nói về một đơn vị anh hùng, một
tiểu đội có 10 cô gái đã hy sinh.
Một phụ nữ
được giới thiệu là người sống sót duy nhất, là tiểu đội trưởng. Cô ấy
mặc bộ quần áo thanh niên xung phong, đội mũ tai bèo, tay cầm một nắm
hương to, thắp cho từng ngôi mộ có tên từng người, đến mộ nào cũng khóc
nức nở, nước mắt đầm đìa. Cô phát hoảng, bật kêu to “Ôi trời ơi!”. Những
người cùng ngồi xem giật mình, quay nhìn cô. Chuyện gì vậy? Không,
không có gì. Cô bế con về. Cô kể với chồng đoạn phim vừa xem. Chú sửng
sốt. Hỏi đi hỏi lại xem có thật vậy không? Sao lại vậy?
Chồng
cô chiến đấu trong chiến trường Quảng Trị. Một lần, xe qua chỗ bọn cô
thì bị lầy. Trong khi chờ dọn đường cho xe qua, chợt có tiếng hỏi thăm ở
đây có ai đồng hương Hưng Nguyên không, cho gửi nhờ lá thư về nhà. Cô
gọi con Hoài lại. Rồi Hoài cầm thư nhờ người chuyển về giúp. Hết nhiệm
kỳ thanh niên xung phong, đầu năm 1970 cô về làm việc ở một nhà máy,
được phân ở nhờ nhà một người dân Hưng Nguyên.
Con
trai nhà ấy từ chiến trường về thăm bố ốm nặng. Thấy có cô gái ở nhờ
nhà mình thì hỏi chuyện. Hóa ra, hai người từng gặp nhau năm 1968. Anh
chính là người hôm ấy nhờ đưa thư về cho bố mẹ. Mấy mươi phút ngắn ngủi
trong bóng tối nhập nhòe nên chẳng rõ mặt nhau. Chú hỏi thăm cô gái đồng
hương. Cô kể lại chuyện đã xảy ra với tiểu đội mình.
Sao
em thoát được khi cả mười ba người đều chết? Em là tiểu đội trưởng.
Tiểu đội trưởng được mang súng trường. Khi anh Hạp hô to máy bay nha, em
quay lại nhặt súng khoác vào người rồi mới nhảy xuống hầm. Em nhảy
xuống cuối cùng. Có lẽ nhờ đầu ruồi súng nhô lên mặt đất, người ta phát
hiện đến lay lay thì nghe tiếng rên.
Có lẽ nòng
súng đã tạo kẽ hở cho chút không khí lọt vào nên em không chết. Người ta
đã moi em lên, đầy bùn đất. Giấy tờ ngày đó cô còn giữ. Phòng sau này
chưa già mà đã ốm yếu thì có cái để chứng minh cho con cháu biết vì sao
sức khỏe mẹ như thế. Mẹ tham gia chiến tranh, mẹ bị sức ép của bom.
Giờ
mình phải viết cái đơn. Chú nói sau vài ngày nghĩ ngợi. Cô không ngờ
chuyện đó lại khiến chú mất ngủ suốt mấy đêm. Viết đơn gửi cho ai, viết
thế nào? Nếu họ muốn lấy Truông Bồn làm di tích lịch sử thì phải làm cho
đúng. Mình phải viết đơn xin trình bày rõ sự thật.
Thứ
nhất, số người hy sinh trong trận bom đó không phải 10 người, mà chính
xác là 13 người, 2 nam và 11 nữ. Thứ nhì, nhân chứng sống không phải là
người đã lên ti vi. Một cái đơn chép tay thành bốn bản. Gửi Tỉnh đoàn,
Ty Văn hóa, cơ quan thương binh xã hội và nghĩa trang Truông Bồn. Tên
các cơ quan là chỉ ghi áng chừng, chứ chẳng biết xưng chính xác thế nào.
Một
cuộc họp được tổ chức. Vợ chồng cô cùng có mặt. Khi cô bước vào, hai
người đàn ông đứng đón khách nói nhỏ với nhau “hắn đang còn”. Cô nghe
nhưng làm ngơ. Cuộc họp nêu vấn đề cô chú trình bày trong thư. Mọi người
tranh cãi. Chỉ vậy rồi thôi. Chẳng ai nhắc gì nữa. Phải rất lâu sau,
vào chiều hai chín tết, có người đàn ông tìm đến nhà cô.
Ông
ta đưa một phong bì ba trăm nghìn đồng nói là thăm ốm, tiền của cơ quan
nào đó trong Nam gửi cho Tỉnh đoàn làm từ thiện. Ông dặn cô: Từ nay về
sau o đừng nói chi về Truông Bồn nữa. O không đứng tên ở Truông Bồn thì
rồi sẽ về đứng tên ở Hoàng Mai, Cầu Cấm hoặc Bến Thủy gì đó. Tỉnh đang
làm địa điểm để lấy thành tích, làm mô hình cho thế hệ sau học tập.
Cô
nghe mà không chịu được. Ngứa tai! Cô nói: Bác ạ, tôi là thanh niên
xung phong ở Truông Bồn thì tôi nhận là ở Truông Bồn, tôi ở tiểu đội nào
thì tôi nói ở tiểu đội đó thôi. Ông nói tiếp: Thôi thì có chuyện gì o
cứ trình bày lên Tỉnh, khoan ra Trung ương. Cô nói: Sự việc chưa rõ
ràng, tôi còn phải gửi đơn nữa. Đây là vấn đề lịch sử. Người này không
biết thì người khác biết. Người này không viết thì người người khác
viết.
Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập
cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc. Cô cùng
53 người được mời đi nhận kỷ niệm chương Thanh niên xung phong. Đến nơi,
ai cũng được nhận, cô thì không. Có cái kỷ niệm chương chứng nhận mình
từng là thanh niên xung phong thì cũng vui; mà không có cũng chẳng sao.
Nhưng cô phải hỏi cho biết lý do. Họ nói: “Em còn thắc mắc chi nữa.
Trước sau gì em cũng là tiểu đội trưởng rồi. Bữa nào họ gửi giấy mời làm
lễ đón nhận đơn vị anh hùng thì đi thôi. Thứ Năm này có đợt đi an dưỡng
ở Cửa Lò đấy, em có muốn đi thì sắp xếp luôn”.
Nào cô có đòi hỏi gì đâu. Cô chỉ muốn nói cho đúng sự thật. Đồng đội chết hết cả rồi, mình phải nói thay họ.
Ngày
23/9/2008, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể 14 chiến sĩ TNXP Truông Bồn
thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội TNXP chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ
An. Trong đó, 11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã anh dũng hy sinh. Chỉ
mình cô Trần Thị Thông còn sống.
Thanh Hà
No comments:
Post a Comment