Saturday, 4 January 2014

TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công Thư Phòng)


Thứ Năm, ngày 12 tháng 9 năm 2013

TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ


                                            HOÀNG TUẤN CÔNG
        

Ông Đồ và học trò xưa
Trên báo Văn Nghệ (Hội nhà văn Việt Nam) số 22 ngày 31-5-2008, mục “Nói chuyện chữ nghĩa” có bài“Thay từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt” của Phan Điển Ánh. Tác giả đưa ra một số  trường hợp cho rằng không thể thay thế và có thể thay thế từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt. Xin có đôi lời trao đổi:
Từ “cá nhân” Phan Điển Ánh xếp vào những từ “không thể dùng từ nào khác thay thế được” là không đúng. Bởi theo tôi, trong trường hợp cụ thể vẫn có thể thay thế. Ví dụ từ “cá nhân” có thể thay bằng một người/một mình (Câu: Lợi ích cá nhân không thể đặt trên lợi ích tập thể = Lợi ích của một người không thể đặt trên lợi ích của nhiều người, hoặc câu: Cá nhân tôi không thể quyết định = Một mình tôi không thể quyết định, hay câu: Chiếc giường cá nhân = Chiếc giường một (người), v.v…Những từ thay thế từ “cá nhân” đều là từ thuần Việt và có ý nghĩa tương đương, không hề khiên cưỡng.
Với những từ Hán Việt Phan Điển Ánh đề xuất có thể thay thế bằng từ thuần Việt cũng không hợp lý, cho dù tác giả lưu ý “những từ cần thay đi và nhưng từ cần thế vào không hoàn toàn tương đương ở mọi trường hợp”.
Ví dụ:
- Từ “quan sát” không thể thay bằng “xem xét”. Mặc dù khi giải nghĩa từng chữ, quan có nghĩa là xem, sát có nghĩa là xét (như giải thích của Đào Duy Anh trong “Từ điển Hán Việt”). Trong thực tế, từ “quan sát” được hiểu là cách nhìn mang tính đại thể, tổng quát, nhìn từ xa, để thấy được, nắm được tình hình hoạt động hay tình trạng (thường là bề ngoài) của một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong khi từ “xem xét” lại có nghĩa tìm hiểu, xét đoán một cách cặn kẽ, thấu đáo sự việc, bản chất vấn đề nào đó (không đơn thuần là bề ngoài). Ví dụ, ta không thể thay thế từ quan sát trong cụm từ Đài quan sát = Đài xem xét, hoặc Địch quan sát thấy mục tiêu = Địch xem xét thấy mục tiêu.  Ngược lại ta không thể viết: Toà xem xét lá đơn kêu oan của bị can = Toà quan sát lá đơn kêu oan của bị can. Như vậy, “quan sát” và “xem xét” không phải là hai từ có nghĩa từ vựng tương đương, không thể hoán đổi vị trí cho nhau trong mọi trường hợp.
-Từ “khiếm thị” không thể thay thế bằng từ “kém mắt” như Phan Điển Ánh khẳng định. Bởi “khiếm” đây có nghĩa là thiếu (trong từ khiếm khuyết), “thị” có nghĩa là sự cảm nhận của con mắt đối với sự vật (trong từ thị giác).  Từ “khiếm thị” thường chỉ những người thiếu chức năng thị giác do dị tật bẩm sinh, không có khả năng nhìn thấy. Bởi vậy, trong mọi trường hợp, từ “khiếm thị” không thể thay thế bằng  từ “kém mắt”, (hay mắt kém) chỉ có nghĩa thị lực kém hoặc mắt không nhìn thấy rõ. Từ “khiếm thị” có thể thay thế bằng một từ Hán Việt khác, đó là từ  (chỉ chung những người không có, hoặc không còn khả năng nhìn thấy, do dị tật bẩm sinh, do tai nạn hoặc do tuổi già). Cần lưu ý, người ta có thể gọi người khiếm thị là mù, nhưng không phải người mù nào cũng có thể gọi là khiếm thị. 
-Từ “phát biểu” không thể thay thế bằng từ “nói”. Bởi vì, “phát biểu” thường chỉ ý kiến của người nào đó trước một tập thể, hội nghị, buổi toạ đàm hay cuộc họp, nhằm khẳng định, bày tỏ quan điểm chính thức của mình. Trong khi từ “nói” thiên về nghĩa ngôn ngữ giao tiếp thường ngày nói chung. Sẽ là khiên cưỡng nếu thay thế từ “phát biểu” trong câu: Phát biểu ý kiến trước Quốc hội = Nói ý kiến trước Quốc hội.
Ngoài ra, còn rất nhiều từ, cụm từ Phan Điển Ánh đề xuất thay thế bằng từ, cụm từ thuần Việt khác chưa hợp lý. Ví dụ cụm từ“người và phương tiện” không thể thay thế bằng “người và xe”, vì phương tiện không nhất thiết phải hiểu là xe, mà có thể là tàu thuyền, ngư cụ hoạt động trên sông biển. Hoặc cụm từ “người tham gia giao thông” không thể thay thế bằng “người đi đường”, bởi người đi đường có khi không bao hàm ý nghĩa tham gia giao thông, ví dụ người đi đường một mình, đi bộ trên đường vắng vẻ. Trong khi đó, cụm từ người tham gia giao thông được hiểu là đi trên đường có nhiều người và phương tiện giao thông khác, chịu sự ảnh hưởng hoặc tác động qua lại. Hay từ “giải thích” không thể thay bằng “phân bua”, vì phân bua không chỉ có nghĩa giải thích mà còn bao hàm ý thanh minh, phân trần cho một hành động, việc làm hay sự hiểu lầm nào đó. Mặt khác, Phan Điển Ánh “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa” bởi từ “phân bua” không hoàn toàn là từ thuần Việt, nó là sự kết hợp Hán + Việt khá phức tạp, v.v…
Cần thấy rằng, việc thay thế từ Hán Việt bằng từ thuần Việt, hoặc đã được Việt hoá để ngôn ngữ nói và viết hay hơn, phù hợp hơn, dễ hiểu và đại chúng hơn như Bác Hồ từng dạy. Ví dụ thay thế những từ khó hiểu, tạo hiệu quả rõ rệt trong mọi trường hợp như: quầy thu ngân nên thay bằng quầy thu tiền,đáo hạn nên thay bằng đến hạn. Không có lý do gì chúng ta cố tìm từ thuần Việt để thay thế cho từ Hán Việt, ngay cả khi không cần thiết, hoặc khiên cưỡng. Thậm chí thay thế cả những từ đã được Việt hoá như: “cường điệu-thổi phồng, vĩ đại-to lớn, thiếu nhi/nhi đồng-trẻ em/trẻ nhỏ, giải thích-phân bua, chưa chính xác-chưa đúng”, v.v…như cách đề xuất của Phan Điển Ánh. Trong khi đó, những từ thay thế không hay hơn, không ngắn gọn hoặc dễ hiểu hơn, thậm chí trở nên ngô nghê, khó hiểu.

             29/06/2008

No comments:

Post a Comment