Monday, 5 May 2014

Âu Phi hay Âu Phi Á?



Sách vở của ta thường phân loại quân địch trên chiến trường Đông Dương theo chủng tộc thành lính Âu Phi (từ châu Âu hoặc từ châu Phi đến) và lính ngụy (người bản xứ).

TRƯỚC khi vào mùa khô 1953-1954, so sánh lực lượng về quân số, địch đã vượt lên ta khá xa. Tổng quân số của địch là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân ngụy (67%). Tổng quân số của ta là 252.000 người. Như vậy, quân địch đông hơn ta: 193.000 người. Riêng quân ngụy cũng đã đông hơn ta: 47.000 người.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Theo cách phân loại này, Điện Biên Phủ chỉ có vỏn vẹn ba tiểu đoàn người bản xứ:

Trừ 2 tiểu đoàn bộ binh Thái và 1 tiểu đoàn dù ngụy là người bản xứ, do những sĩ quan Pháp chỉ huy, số còn lại đều là những đơn vị Âu Phi được lựa chọn trong các binh đoàn cơ động, gồm 5 tiểu đoàn bộ binh và dù lê dương, 4 tiểu đoàn Bắc Phi. Tất cả đều là những đơn vị. có truyền thống lâu đời hoặc đã được thử thách nhiều trong chiến đấu và có chỉ huy tốt.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Thực ra thì trong các đơn vị gọi là Âu Phi lúc nào cũng có người Việt làm nhiệm vụ thông ngôn, dẫn đường và nhiều việc linh tinh khác. Số này không nhiều nên các đơn vị được gọi là Âu Phi trông đúng là Âu Phi. Tuy nhiên, từ năm 1949 trở đi, ngoài số lính Việt đỡ đần chân tay đó ra, trong biên chế của các tiểu đoàn tác chiến (gọi là) Âu Phi đều có 1-2 đại đội người Việt.

Ngày 18 tháng 3 năm 1951, tiểu đoàn nhảy dù lê dương số 1 (1er BEP) số 1 được tái lập tại Hà Nội với đủ 3 đại đội tác chiến, trong đó có 1 đại đội Đông Dương gọi là CIP (compagnie indochinoise parachutiste).

Tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa số 6 (6e BPC) của Bigeard khi xuống tàu ở Pháp (tháng 7-1952) chỉ có 352 người, chủ yếu là khung cán bộ, chỉ có một đại đội chỉ huy và một đại đội tác chiến hoàn chỉnh. Khi sang đến Đông Dương nhận 318 lính Việt bổ sung mới hình thành tiểu đoàn có khả năng chiến đấu, trong đó có một đại đội CIP (đại đội 6). Tháng 10-1953 thành lập thêm một đại đội CIP nữa (đại đội 26), tức là trong số bốn đại đội tác chiến của tiểu đoàn này đã có hai đại đội người Đông Dương.

Do việc xin tăng viện từ chính quốc có khó khăn, bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải tăng tỷ trọng lính bản xứ trong các đơn vị (gọi là Âu Phi). Tháng 5-1953, tiểu đoàn 2 nhảy dù lê dương có biên chế 980 quân thì số lính bản xứ đã là 481 (về lý thuyết, tiểu đoàn này chỉ được phép có 439 lính bản xứ). Bán lữ đoàn lê dương số 13 (13e DBLE) vào năm 1953 phình ra bằng một lữ đoàn nhờ mộ thêm được lính bản xứ. (Michel Bodin, 2003:11-27).
Tất cả các đơn vị vừa kể trên đều có mặt ở Điện Biên Phủ và được tướng Giáp gọi là các tiểu đoàn Âu Phi.

Tiểu đoàn 1 nhảy dù thuộc địa (thiếu một đại đội), đơn vị cuối cùng được ném xuống Điện Biên Phủ vào cuối tháng 4, đầu tháng 5-1954, có thành phần như sau:
-ban tham mưu và đại đội chỉ huy: 48 người (12 Việt);
-đại đội 2: 3 sĩ quan, 17 hạ sĩ quan (1 Việt) và 102 lính (47 Việt);
-đại đội 3: 4 sĩ quan, 16 hạ sĩ quan (2 Việt) và 101 lính (49 Việt);
-đại đội 4: 3 sĩ quan, 11 hạ sĩ quan  và 64 lính (43 Việt);

Các tiểu đoàn (toàn) Phi như Ma-rốc, An-giê-ri, Xê-nê-ga-le... có lẽ vì đặc điểm văn hóa, ban đầu không lập đại đội người bản xứ nhưng rồi vì quân số hao hụt nên đành nhận các đại đội phụ lực. Quân chính quy người bản xứ chỉ dành cho các đơn vị dữ dằn (lê dương, dù...).

Bộ tham mưu liên quân  (EMIFT) đã dự trù đến cuối năm 1953 lực lượng bộ chiến có 158.566 quân (con số thực tế ngày 1/11/1953 là 182.424, chia làm 100 tiểu đoàn bộ binh, 17 pháo đoàn, 40 chi đoàn kỵ binh, 8 tiểu đoàn công binh và một số đại đội binh chủng khác) trong đó số người bản xứ là 53.870  chính quy và 52-58.000 quân phụ lực. Một phần số này là do quân đội quốc gia Việt Nam chuyển qua cho quân liên hiệp Pháp (Lê Văn Dương, 1972:196).


Trong khi đó các đơn vị gọi là ngụy cũng không hoàn toàn là người bản xứ. Cuối năm 1952  (Lê Văn Dương, 1972:226) có 4568 người Pháp (718 sĩ quan) phục vụ trong quân đội quốc gia Việt Nam: 2011 vệ binh cộng hòa (người Pháp) chỉ huy 26.000 vệ binh quốc gia (Việt Nam).  Theo thống kê vào ngày 1/11/1953, trong quân đội quốc gia Việt Nam, (151.020 quân chính quy và 47.025 quân phụ lực người bản xứ) có 3.961 sĩ quan, hạ sĩ quan lục quân Pháp được biệt phái qua làm chỉ huy (Lê Văn Dương, 1972:196).
Tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam (5eBPVN) được thành lập ngày 1/9/1953, thực chất chỉ là đổi phiên hiệu của một tiểu đoàn viễn chinh (tiểu đoàn 3 dù thuộc địa - 3e BPC). Tiểu đoàn 3 được giải thể trên giấy tờ trước đó một ngày. Khung cán bộ cùng với hai đại đội CIP số 3 và số 23 được đưa sang cho tiểu đoàn 5 dù Việt Nam. Đây là tiểu đoàn dù ngụy duy nhất có mặt ở Điện Biên Phủ, được tướng Giáp nhắc đến trong đoạn trích hồi ký Điểm Hẹn Lịch Sử đã dẫn ở trên.

No comments:

Post a Comment