Với sự
giúp đỡ có hạn từ bên ngoài, "quân đoàn tác chiến" (corps de
bataille) của đối phương sẽ không vượt qua con số 6 đại đoàn bộ binh đơn
thuần.
(Võ Nguyên
Giáp – Điểm hẹn lịch sử)
Không phải
cứ chỗ nào người Pháp viết corps là chỗ đó người Việt phải dịch thành quân
đoàn.
Từ corps
trong tiếng Pháp lĩnh vực quân sự có nghĩa là quân đoàn (corps d’armée)
chỉ khi nói về một đại đơn vị gồm nhiều sư đoàn. Đây chỉ là một trường
hợp riêng của nghĩa lực lượng (được đoàn ngũ hóa).
Corps
de garnison là lực lượng / đơn vị
đồn trú. Nếu căn cứ nhỏ thì lực lượng này có thể chỉ ở cấp đại đội, tiểu
đoàn.
Corps
de bataille là lực lượng tác chiến,
tiếng Anh là field forces. Hồi mới kháng chiến chống Pháp corps de
bataille của Việt Minh chỉ có mấy trung đoàn chủ lực. Đến tháng 4 năm 1975
lực lượng đó đã có nhiều quân đoàn. Nói Quân đoàn tác chiến của ta khi đó có
quân đoàn 1, quân đoàn 2, quân đoàn 3, quân đoàn 4, binh đoàn 232... là ngớ
ngẩn.
Coprs
de réserve là lực lượng / quân dự
bị, khác với corps actif là lực lượng hiện dịch / quân
thường trực. Tương tự, corps d'artillerie không phải là quân
đoàn pháo binh mà chỉ toàn bộ quân nhân thuộc lực lượng / binh chủng
pháo binh. Corps d'infanterie không phải là quân đoàn bộ binh.
Corps sanitaire hay corps de santé chỉ toàn bộ lực lượng /
ngành quân y.
Corps des auxiliaires féminins chỉ toàn bộ nữ trợ tá trong quân đội, thời Bảo Đại gọi là đoàn nữ trợ tá / phụ tá, sang thời Việt Nam Cộng Hòa là đoàn nữ quân nhân.
Corps expéditionnaire là lực lượng / đạo quân / đoàn quân viễn chinh. Quy mô của đoàn quân này có thể là một quân đoàn, nhưng cũng có thể chỉ chừng một vài nghìn người như hồi giữa thế kỷ 19 ở Gia Định.
Corps de garde là đội vệ binh / lính canh, không phải quân đoàn vệ binh nào cả.
Corps
des officiers là bộ khung sĩ quan.
Cũng có thể dịch là đội ngũ sĩ quan.
Corps
[des officiers] de l'Intendance là bộ
khung / đội ngũ cán bộ của cục quân nhu.
Toàn bộ sĩ
quan trong ban tham mưu của một sĩ quan cao cấp được gọi là corps d’état
major.
Sau cùng vì việc phong tướng của Pháp rất
chặt chẽ, đâu ra đó cho nên người ta có thể nói về đội ngũ tướng lĩnh
trong quân đội Pháp (corps des officers généraux) có quy củ, có tổ
chức.
No comments:
Post a Comment