Chân dung | |
Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Việt nam - Trương Văn Bền (1884-1956) Nguyễn Đức Hiệp | |
(http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=12827) | |
Tôi
sinh ra đúng vào năm ông Trương Văn Bền mất. Khi lớn lên trong tuổi học
trò ở trung học, tôi vẫn còn được nghe nhiều người nhắc đến ông và sản
phẩm xà bông Việt Nam mà công ty ông sản xuất với niềm tự hào kính phục pha lẫn với một sự nuối tiếc. Ký ức sâu xa từ nhỏ đó
Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa là
“chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá,
lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội. Vì thế tôi gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
Đã
có một số bài viết về ông Trương Văn Bền, nhưng hầu hết đều tương tự,
có nhiều thông tin được lập lại. Trong lúc tìm hiểu về cuộc đời và sự
nghiệp của ông Trương Văn Bền, tôi đã có may mắn là liên lạc được với
một người cháu nội của Trương Văn Bền là anh Phillipe Trương, hiện sống ở
Pháp. Qua điện thư, anh Phillippe đã cho tôi biết được nhiều thông tin
thêm về ông Trương Văn Bền. Một số thông tin mới về ông, tôi cũng tìm
được qua các biên bản chính thức của các buổi họp Hội đồng kinh tế lý
tài Đông Dương (Recueil des procès-verbaux des séances plénières du
Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine) mà
ông Trương Văn Bền là một thành viên trong nhiều năm. Tổng hợp các tư
liệu trên, tôi xin trình bày một vài nét phác họa chính về ông.
Theo
các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương
Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng
vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở
Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn.
Tổ
tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của
tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà
Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ
từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế
kỷ 17.
Được
phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn
Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần
Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch
đến vùng nay gọi là Mỹ Tho.
Trương
Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một
người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu
thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá.
Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam
ở tại Chợ Lớn. Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành
một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và
họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ
hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ. Trương Quang Thanh có 8 người
con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành
hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con
trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua
Hàm Nghi, (tháng 12 1884).
Thưở
thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn
Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các
trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée
Chasseloup-Laubat (Saigon). Năm 1889,
chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet
élémentaire (cao đẳng tiểu học), Trương Văn Bền ghi tên và thi đậu dễ
dàng. Ông được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư.
Năm
1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề
buôn bán của cha ông. Lúc đầu ông bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong
một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch
trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho
các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn. Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh
luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một
năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông
cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn. Tuy vậy các cơ sở
này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Năm
1918, ông mở thêm một cơ sở sản xuất dầu nữa ở Chợ Lớn. Xưởng này sản
xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu
castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ.
Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau:
“Ông
Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có
ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem
nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông
gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng,
mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm
được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách
người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp. “
Từ
những thành công ban đầu này, năm 1918, ông bắt đầu tham dự tích cực
vào đời sống kinh tế chính trị trong xã hội. Ông được bầu làm một hội
viên trong Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil Colonial) vào năm 1920, và
sau đó năm 1924 là nghị viên Phòng Thương Mại (Chambre de Commerce). Năm
1932, ông là người Việt nam đầu tiên được bầu làm phó chủ tịch Phòng
Thương Mại và giữ chức này cho đến năm 1941. Ngoài ra ông còn là nghị
viên Phòng Canh Nông (Chambre d’ Agriculture, 1922), thành viên của hội
đồng giám đốc quản trị (board of directors) của Thương cảng Saigon (Port Commerce de Saigon) và ứng viên Hội đồng Quản trị Sở Lúa gạo Đông Dương từ năm 1924.
Trong thập niên 1920, ông nhảy vào lãnh vực canh nông. Lúc đầu ông mua 300 mẫu ruộng
ở Mỹ Tho. Vài năm sau đó, năm 1925, ông cùng một số người khác thành
lập Công ty canh nông Tháp Mười (Société Rizicolte du Tháp Mười). Công
ty có hơn 10 000 mẫu và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn nhân sự ở
miền Tây Nam bộ. Ông làm Tổng giám đốc và là thành viên của hội đồng quản trị công ty. Ông giữ chức vị Tổng giám đốc cho đến năm 1931.
Vai trò quan trọng của ông trong địa hạt phát triển canh nông, kỹ nghệ, kinh tế tài chính được đánh giá cao trong xã hội. Ông
được bầu làm hội viên của Đại hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương (Grand
Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine) năm
1929. Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương được thành lập năm 1928 để
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề
Thí
dụ trong quyển báo cáo phát hành năm 1939 về các đề tài tranh luận bỏ
phiếu ở Đại hội đồng năm 1938, có viết một đoạn như sau (5):
“...
Ông Trương Văn Bền đọc một đề nghị như sau và đặt ra trước Đại Hội đồng để được biểu quyết với sự đa số tuyệt đối
Đại hội đồng
Chiếu
rằng trong dự án tổng ngân sách năm 1939, chính phủ có nhiệm vụ thi
hành những công trình mới (thủy lợi và vét kinh) từ quỹ trương mục Nam
kỳ một số tiền là 724000 đồng;
Chiếu
rằng những công trình này cho tới nay được thực hiện mà không lấy ý
kiến từ các thành viên của Nam kỳ được bầu vào Hội đồng;
Chiều
rằng trong năm 1938, Sở Công chánh chỉ chi tiêu trong các chương trình
trên một số tiền 470000 đồng so với ngân sách tiên đoán cho dự án là
745000 đồng;
Chiếu
rằng làm các kênh đào ở Nam kỳ thường luôn có kết quả tốt trên phương
diện thoát nước, cải tiến đất cũng như làm giảm mực nước sông Cửu Long
trong mùa lũ;
Chiếu rằng các công trình này được trả từ các quỷ đã có;
Trên cơ sở tiền thâu được từ thuế (*) trên xuất cảng gạo và dịch vụ liên quan vào khoảng 6000000 đồng;
Đề nghị sau đây được đưa ra biểu quyết
1.- Các điều được xóa bỏ là điều 122, điều thứ nhất (các công trình thoát nước và thủy lợi ở Nam kỳ);
2.-
Hoàn lại 0$50 trên mỗi đồng tiền thuế xuất cảng gạo và các dịch vụ liên
quan thâu được ở Nam kỳ. Tiền hoàn lại sẽ được ghi vào Chương 9, điều 8
Số tiền hoàn là 1500000 x 0.50 = 750000 đồng
((* ) ở toàn Đông Dương, chú thích của tác giả)
Đại biểu ông Marinetti chú thích là trong số lượng gạo xuất cảng ở cảng Saigon có 200000 tấn là từ Cam Bốt.
Ông Tổng thư ký phủ nhận những phê bình về vấn nạn của Sở thủy lợi mà sự thành lập được đòi hỏi tức thì cách đây không lâu.
Trái
với những điều mà ông đại biểu Trương Văn Bền nêu lên, phương thức tín
dụng mỗi năm được chi tiêu trong giai đoạn thi hành hợp đồng với Công ty
Đào vét (Société des Dragages) nói chung phù hợp với số lượng tiền ghi
trong ngân sách. Ông tổng thư ký kêu gọi sự chú ý của Đại hội đồng về
tính cách đặc biệt của các công trình thủy lợi cần thời gian dài thực
hiện và vì thế cần thiết một sự liên tục dựa trên kỹ thuật chuyên biệt.
Ông Trương Văn Bền đòi hỏi lần nữa là có sự biểu quyết qua lá phiếu đề nghị của ông, và sự đào kênh lại.
Ông
Combot ủng hộ đề nghị của ông Trương Văn Bền, và bày tỏ sự ngạc nhiên
là các công trình thủy lợi đã được thực hiện mà không có sự đòi hỏi, yêu
cầu nào của dân chúng ở các vùng liên hệ.
Ông giám đốc tài chánh cho hội đồng biết là sự bỏ phiếu của đề nghị sẽ không có ảnh hưởng đến tài chánh năm 1939.
Sau khi đọc, đề nghị của ông Trương Văn Bền được chấp thuận với 25 phiếu thuận và 5 phiếu chống.
“
Một
thí dụ khác như trong quyển báo cáo năm 1940 về các đề tài tranh luận
bỏ phiếu ở Đại hội đồng năm 1939 có đoạn nói về quản lý tiêu chuẩn dược
phẩm. Trong cuộc tranh luận giữa các thành viên về thuốc cổ truyền đông
y, ông Trương Văn Bền cũng phát biểu phản đối đạo luật của chính phủ ban
hành ngày 24/10/1939 hạn chế và quản lý chặt chẽ sự sử dụng thuốc bắc
cổ truyền trong quần chúng. Ông nói lên sự bất bình của đa số quần chúng
về đạo luật trên.
Ông
phàn nàn là Đại hội đồng, các công dân bảo hộ và nhiều nhân vật người
An Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau đã không được hỏi ý kiến trước
khi có quyết định và đòi hỏi là đạo luật được đình chỉ, chờ sự thành lập
một ủy ban để quản lý vấn đề thuốc ta cổ truyền và thuốc tây một cách
hợp lý và hài hòa. Đa số người dân không có khả năng mua thuốc tây và do
đó họ đều dùng thuốc ta cổ truyền, mặc dầu có sự lạm dụng của một số
đông y sĩ. Một số thành viên trong Đại hội
đồng như ông Thương Công Thuận, Trần Văn Kha, Tôn Thất Viên Đề ủng hộ ý
kiến của ông Trương Văn Bền. Ông Tổng thư ký Đại hội đồng tán thành
nhưng cho rằng phải có một sự quản lý nào đó ít nhất để tránh lạm dụng
toa thuốc độc hại. Về phương diện thực tiễn thì khó có thể quản lý được
vì người chẩn bệnh cũng là người làm và chế thuốc.
Ông
Phan Văn Giao ủng hộ đạo luật của chính phủ để quản lý thuốc ta. Ông
Tôn Thất Viên Đề còn đặt ra câu hỏi là tại sao thuốc Tây lại rất đắt qua
đó ông Giao cho là vì những người trung gian đã lợi dụng kiếm lời quá
cao nên mới có sự thể như vậy. Ông Baffeleuf, chủ tịch Đại hội đồng nói
rõ cho ông Đề là ông (Baffeleuf) cũng là thành viên trong Ủy ban trung
ương kiểm soát nên ông bảo đảm với ông Đề là sự tăng giá thuốc chỉ có
được phép sau khi có sự điều nghiên kỹ lưỡng. Ông Baffeleuf đồng ý là
luật mới đã gặp nhiều phản ứng bất lợi và đưa ra đề nghị của Đại hội đồng
là luật mới ra quá sớm và cần có sự nghiên cứu lại kỹ lưỡng trong quản
lý để áp dụng từ từ và đúng mức trong giai đoạn chuyển tiếp (4).
Đáng
để ý là trước đó vào năm 1931, bác sĩ Yersin cũng đã trình bày trước
Đại hội đồng về sự cần thiết trồng cây quinine làm thuốc chống sốt rét ở
Đông Dương và sự liên hệ hợp tác giữa viện Pasteur Saigon và các cơ
quan liên hệ của phòng canh nông ở Đông Dương. Từ năm 1923, bác sĩ
Yersin cho biết là ông đã nghiên cứu các mẫu vỏ cây quinine từ các cây
được thử trồng sao cho thích hợp với khí hậu ở một số đồn điền ở Đà Rằng
(Dran) và Di Linh (Djiring) trên Tây Nguyên với độ cao như các cây
quinine trồng thành công ở Java khoảng 1500 m. Trước đó năm 1917, Yersin
đã thử ở Hòn Bà gần Nha Trang. Bác sĩ Yersin hy vọng là sẽ thành công
phát triển cây quinine và kỹ nghệ chế biến thuốc chống sốt rét cho toàn
cõi Đông Dương với sự trợ giúp của Đại hội đồng.
Theo
quyển « Tự Điển Tác Giả Việt Nam » của ông Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn
Hóa, 1999) thì ông Trương Văn Bền cũng có viết 3 tác phẩm: Phương pháp
chế tạo xà phòng (1918), Phương pháp cải tạo các giống lúa (1932) và
Phương pháp lấy dầu thông (1932) (2).
Ở
Nam Kỳ, các cơ quan tư vấn tối cao, phụ tá cho Thống đốc như Hội đồng
Quản hạt Nam Kỳ, Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, Hội đồng Canh
nông, và Phòng thương mại, đều có ông Bền là hội viên.
Mặc
dầu ở địa vị cao và có thế trong xã hội, ông không bao giờ khoe khoang
tự mãn, trái lại ông rất khiêm tốn, tập trung vào công việc phát triển
kỹ nghệ, kinh tế, kinh doanh mang đến phúc lợi cho quần chúng.
Nói
về kinh nghiệm trong thương trường và bí quyết thành công, ông Trương
Văn Bền có cho biết một số ý kiến như sau (trích nguồn (3))
“…
Đầu
những năm 1930 trong dịp Tết Nguyên đán, các báo Sài Gòn thường đăng
phỏng vấn quảng cáo thương mại. Những bài này thường rất ăn khách do
người đọc thích tìm hiểu bí quyết thành công của các nhà kinh doanh nổi
tiếng. Trong đó có bài phỏng vấn ông Trương Văn Bền đăng trên báo Sài
Gòn Xuân 1939 đã thu hút rất nhiều độc giả thời bấy giờ quan tâm. Mặc dù
thời đó không có những khái niệm chuyên môn như tiếp thị, đầu tư,
thương hiệu... Nhưng nội dung chủ yếu của bài báo lại xoay quanh những
vấn đề này. Có thể nói, bài phóng sự đó đã có ý nghĩa cần thiết không
những đối với những nhà kinh doanh cùng thời mà còn là con đường sáng
cho doanh nhân ngày nay suy ngẫm và so sánh.
Trong
bài báo phóng viên hỏi tại sao người Việt thường thất bại trong thương
mại và kỹ nghệ. Không cần suy nghĩ lâu, ông Trương Văn Bền trả lời: “
Tại người mình ưa bắt cá hai tay, ưa làm nhiều việc quá. Việc này chưa
xong, họ đã xoay qua làm việc khác, thành thử không việc nào vẹn toàn.
Rốt cuộc hỏng cả”. ông nói tiếp: “Lý do thứ nhì là do không thông thạo
việc nên thất bại. Bất cứ việc gì, trước khi làm mình phải biết rõ việc
ấy. Phải học, phải nghiên cứu kỹ càng mới được. Người Tây trước khi làm
việc gì họ cũng học trước cả. Cho đến một việc đứng bán hàng, ta cho là
tầm thường và tưởng ai ai cũng có thể làm được. Nhưng đối với họ đó là
việc quan trọng cũng có sách có trường dạy hẳn hoi, dạy từ cách tiếp
khách, khoe hàng làm sao cho người khách mua rồi thì còn trở lại. Người
mình có một cái rất bậy là chỉ thấy cái lợi trước mắt, chỉ cốt làm sao
bán được món hàng lúc ấy mà thôi, không chịu hiểu rằng người khách thấy
mình bị tiếp đãi không được như ý, hoặc bị lừa gạt mua nhầm hàng xấu, về
sau không thèm trở lại nữa, vì vậy mà ế ẩm. Như tôi đây cơ sở đã vững
vàng rồi mà ngày nào cũng tìm sách, tìm báo đọc thêm”.
Khi
được hỏi về bí quyết thành công, ông Bền nói: “ở xứ mình, trong giới kỹ
nghệ còn trống chỗ nhiều, muốn lập kỹ nghệ nào cũng dễ lắm. Không cần
phải có vốn nhiều. Vốn ít, càng tốt hơn. Ban đầu không nên làm rình
rang, đã vô ích mà còn có hại, cứ khởi sự nho nhỏ, đi lần lần từng bước.
Cần nhất phải có chí nhẫn nại. Như tôi đây bị thất bại đã mấy phen,
nhưng có thất bại mới có thêm kinh nghiệm. Thứ nhất là bền chí. Thứ hai
là phải có sức khỏe, làm gì thì làm mỗi buổi sáng tôi cũng dậy sớm tập
nửa giờ thể dục. Không có sức khỏe, hay đau ốm thì dẫu tài giỏi đến bực
nào cũng thành vô dụng. Tóm lại sức khỏe, sự học hỏi, sự bền chí là
những điều kiện của sự thành công”.
…
“
Trương
Văn Bền cũng là hội viên của hội đồng quản trị Sở lúa gạo Đông Dương
khi sở này được thành lập năm 1924, chủ tịch Liên hiệp canh nông (Union
d’Agriculture), chủ tịch nhà băng Tín dụng Canh nông Chợ Lớn (Caisse de
Crédit Agricole du Cholon) năm 1932, phó chủ tịch Phòng Canh nông
(Chambre d’ Agriculture) trong thời gian 1932-1941 và là thành viên của
Hội đồng sản xuất kỹ nghệ Đông Dương (Conseil de production industriel
d’ Indochine) khi được thành lập vào năm 1941. Ông thành lập năm 1941
hai nhà máy xay lúa sản xuất hơn 100 tấn gạo mỗi ngày.
Trong
bài diễn văn của ông Henri Maspéro (nhà sử học chuyên về Trung Hoa, anh
của George Maspero, tác giả sách “Vương quốc Champa”) đọc nhân dịp khai
hoạt của Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) ngày 12 tháng 02 năm
1920, nói về ông Trương Văn Bền như sau (2):
«.. Cuối cùng, ông Bền đủ tất cả điều kiện và khả năng đại diện ở Hội đồng này các kỳ vọng mới của đồng bào ông. Trong thời điểm mà người An Nam không còn nghĩ đến việc đóng
vai trò tích cực vào sự phát triển kinh tế ở Nam kỳ, ông đã, bằng
phương tiện sức của chính mình, tạo ra một kỹ nghệ mà ông biết rõ, bằng
sự bền chí, ý chí, thông minh sáng tạo và làm việc, đã đặt ông vào hàng
quan trọng bậc nhất. Những đồng bào của ông khi bầu ông vào đây, đã cho
thấy từ đây họ chú ý và tham dự vào đời sống kinh tế của thuộc địa, và
sự nhận hiểu mà họ có với các đồng bào của họ, đã mở đường và là một
gương mẫu tốt cho họ.”
Tuy
là trong hội đồng quản hạt Nam Kỳ, ông không hoàn toàn theo Pháp. Ông
Ngo Van trong « Vietnam 1920-1940 révolution et contre-révolution sous
la domination coloniale » có ghi: « Quelques autres conseillers, dont
l’avocat Gallet, défenseur de Nguyên An Ninh, et Truong Van Bên, le
(Nguyên Tan Duoc) suivirent dans la voie de la critique » (p.54) (2)
(“Những thành viên khác trong hội đồng, trong đó có luật sư Gallet,
người bảo vệ Nguyễn An Ninh, và ông Trương Văn Bền đã theo ông Nguyễn Tấn Dược trong đường lối chỉ trích”)
Ngày
21 tháng 03 năm 1926, theo lời kêu gọi của ông Dejean de la Bâtie và
Nguyễn An Ninh để chống sự trục xuất nhà báo Trương Cao Dong ra Annam
ông Trương Văn Bền đã có mặt tại vườn Xoài. Theo
bài báo của ông Dejean de la Bâti trong La Cloche Fêlée (23.03.1926) : «
Président : M Le Quang Lien dit Bay, constitutionnaliste, assisté de M.
Truong Van Ben, conseil colonial constitutionnaliste, et Phan Van
Truong, avocat et directeur de La Cloche Fêlée… » (p. 60) (2).
Ngoài
lúa gạo, ông nhận thấy nhiều tiềm năng cho các sản phẩm canh nông khác ở
miền Nam như dừa. Từ năm 1928, khi ông thành lập xưởng chế dầu ở Chợ
Lớn sản xuất các loại dầu ăn và dầu công nghiệp và bắt đầu từ năm 1932,
ông mở thêm nhà máy làm xà bông từ dầu nông sản. Vào thời gian này và
trước đó, hầu hết xà bông dùng trong nước và ở Đông Dương là nhập cảng
từ Pháp. Chỉ có một số ít xà bông làm từ các xưởng nhỏ thủ công ở Chợ
Lớn với chất lượng kém nên có giới hạn rất nhỏ và càng không thể cạnh
tranh và so sánh với xà bông nhập từ Marseille, một thành phố Pháp.
Xà
bông là sản phẩm mang lại cho ông nhiều tiếng tăm và tiếp cận mọi người
nhiều nhất. Tên của Trương Văn Bền gắn liền với xà bông Việt Nam, xà
bông “Cô Ba”. Hãng xà bông của ông tọa lạc trên đường Rue de Cambodge
(nay là Chợ Kim Biên, quận 5). Công ty của ông gọi là Trương Văn Bền và
các con – Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils – Huilerie
et Savonnerie Vietnam). Xưởng dầu của ông ở Chợ Lớn mỗi
tháng sản xuất khoảng 1500 tấn dầu dừa và hãng xà bông Trương Văn Bền
sản xuất khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine trong năm 1943, vào
thời kỳ khó khăn ở nhiều nước do chiến tranh đệ nhị thế chiến. Công ty
Trương Văn Bền và các con là công ty quan trọng nhất sản xuất dầu và xà
bông trên toàn cõi Đông Dương.
Xà
bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” được nhiều người ưa chuộng vì
chất lượng tốt và giá phải chăng cho mọi người tiêu dùng. Trên thị
trường, xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” đánh bạt xà bông thơm
“Mac Xây” (Marseille) của Pháp nhập từ chính quốc. Ngoài Việt Nam, xà
bông “cô ba” được dùng rộng rãi ở Lào và Cam Bốt, được xuất khẩu qua
Hong Kong, Tân Đảo (Nouvelle Caledonie) và một số các nước châu Phi.
Trương
Văn Bền là một doanh nhân luôn tìm hiểu với tầm nhìn xa và nhạy bén đến
những áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất thực tiễn và đầu tư
khuếch trương tìm những hướng đi mới. Với đầu óc thoáng và rộng rãi, ông
đã thiết lập thành công cơ sở sản xuất và kinh doanh của công ty ông
rất hữu hiệu và hiện đại. Ông không tự tìm hiểu và học hỏi để trở thành
chuyên viên làm xà bông có chất lượng tốt như nhiều người lầm tưởng. Ban
đầu ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris
để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm
xà bông Mazet. Lúc đó đã có hai nhà máy làm xà bông của Pháp ở Saigon do các ông Mazet và Boris làm chủ.
Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau (2):
“
Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà
chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do
Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn,
đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười
người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to :
“Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế
giới.
Tôi không bỏ lỡ vội
chụp lấy vụ này, lấy tên Việt-Nam đặt cho xà-bông, gọi Savon Việt-Nam
để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà-bông Việt-Nam là của
người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt
Nam”.
Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam
bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của
một người phụ nữ “cô Ba” với nét đẹp có duyên Nam bộ, nhưng biểu tượng
này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện và quen
thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm
của ông được tiếp nhận rộng rãi. Một trong những tin đồn huyền thoại dân
gian kể lại thì “Cô Ba “ chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh,
người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Theo ông Hứa Hoành (1)
thì cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý, đưa hình ảnh
“Cô Ba”, người đẹp huyền thoại trong dân gian làm nhãn hiệu cho sản phẩm
hàng hoá của mình bán chạy. Nhưng các giai thoại và tin đồn như trên về
“Cô Ba” đều không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của
ông. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn
hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền là một. Vả lại, trước kia
trong phong làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tương bằng
đồng đen hình vợ ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông (2).
Với
sự ra đời của hãng xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam
hãnh diện có được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc
phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai.
Trong
sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho
đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn
khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng hiện nay như Bill
Gates của Microsoft. Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam
được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà
bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam”
của Hãng Xà bông Trương Văn Bền. Trong các cuộc triển lãm
được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sài Gòn, bao giờ gian hàng của ông
Bền cũng được thiết kế ấn tượng nhất với mô hình một cục xà bông khổng
lồ gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở
đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn
bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn
Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như
vọng cổ, thơ lục bát đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến
cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của
ông (3).
Sau đây là là vài đoạn trong nhật ký của ông Trương Văn Bền (2):
«
Thấy xà-bông bán chạy tôi làm thêm một chảo nữa. Nay nhiều thêm thì
phải làm quảng cáo dữ mới bán được. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng
tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách
trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt-Nam chế tạo
về bán, chi trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một
mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua. Tôi bèn huy động một tốp người
cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà-bông Việt-Nam
bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu,
bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại
một câu « Sao không buôn xà-bông Việt-Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn
xà-bông khác nhiều ». Hết người này tới người khác, thét rồi chủ tiệm
cũng phải đẻ ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà-bông Việt-Nam, cho
người mua thử về bán. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của
Xà-bông Việt Nam, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu Xà-bông Việt Nam.
Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên
Xà-bông Việt-Nam bán chạy lắm ». (Đoạn này cho biết là năm 1922, ông đã dùng quảng cáo để bán hàng)
«
Nhờ sức mạnh của quảng cáo, xà-bông Việt-Nam tiến phát mau lắm, chỗ nào
cũng buôn xà-bông Việt-Nam, ai nấy chỉ dùng xà-bông Việt-Nam thôi. Thấy
mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà-bông để tranh dành,
như Bà Đốc phủ Mầu ra xà-bông « Con Cọp », Balet ra xà-bông « Nam-Kỳ »
cũng đầu người đờn bà như Việt-Nam,
Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông « 3 sao » ở Cần Thơ, v.v. nhưng tranh đua
không lại Xà-bông Việt-Nam, đều bị thất bại, bỏ cả. Số sản xuất của
Xà-bông Việt-Nam lần lần lên tới 200 tấn, bán cùng Saigon, lục tỉnh,
Trung kỳ, Bắc kỳ, Ai lào, Cao miên. »
«
Năm 1941, tôi chịu cho sở binh lương một ít lợi quyền, nên bán được giá
cao, chở đi Madagascar, Réunion, v.v. Mấy xứ thuộc địa Pháp này vẫn mua
xà-bông Mạc-Sây, nay chiến tranh giao thương bế tắc nên phải mua của
tôi, mà chính là mấy hãng ở Mạc-Sây thiệt thọ mua để bán đi các nơi ».
Ông
cũng cho biết: « Trong 6 năm thế giới chiến tranh (1939-1945) mấy hãng
dầu và xà-bông làm ăn tấn phát lắm, một cơ hội may cho mấy hãng Tây như
Borris, Mattrat và Delaunay, vì chiến tranh, việc xuất nhập cảng khó
khăn. Trong ủy ban giám đốc hầu hết là người Pháp nhưng tôi là nhân viên
Hội đồng quản hạt, hãng xà-bông của tôi lại sản xuất nhiều hơn họ nên
họ phải để tôi làm Chủ tịch ».
Vì thế cũng không lạ gì, tên tuổi và sản phẩm của Trương Văn bền nổi tiếng và là niềm tự hào của nhiều người, nhất là ở trong Nam.
Mặc dầu ông mất từ năm 1956 nhưng cho đến đầu thập niên 1970, nhiều
người vẫn còn nhắc đến ông với sự kính trọng trong tình đồng bào và tình
cảm thân cận gần gũi như trong nhà. Ông đã chỉ ra và làm gương cho
nhiều người đi sau để khuếch trương tiềm năng tháo vát sáng tạo và tinh
thần của người Việt Nam trong kinh tế và thương mại.
Cũng
theo ông Hứa Hoành (1) thì trong bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ
toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng
cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng (trong khi đó, giá vàng
khoảng 60 đồng/lượng). Điều này chứng tỏ công ty Trương Văn Bền và các
con là một trong những công ty làm ăn rất phát đạt ở Đông Dương tạo ra
của cải công ăn việc làm cho bao người và thúc đẩy kinh tế phát triển
trong nhiều lãnh vực.
Sau năm 1948, Trương Văn Bền rời Việt Nam và sống tại Paris.
Ông trở thành hội viên của Phòng thương mại Quốc tế (International
Chamber of Commerce) và đi chu du khắp nơi trên thế giới. Ông viết hồi
ký ở Paris
và khi ông mất, anh Phillipe Trương cho đến nay giữ tập hồi ký này của
ông. Ông Trương Văn Bền cũng là bạn ông Hui Bồng Hỏa (chú Hỏa), gia đình
hai bên thỉnh thoảng thăm viếng ở Saigon và Nước Ngọt nơi hai ông có cư dinh (2).
Ông Bền có nhiều con, trai
lẫn gái. Một người con là ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban
quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (lập năm 1953) tại Sài gòn và là
tổng giám đốc công ty xà-bông Việt Nam
từ 1959 đến 1965. Ông Trương Khắc Huệ, sau khi tốt nghiệp trường đại
học hóa học tại Marseilles, tham gia vào công ty Trương Văn Bền làm giám
đốc kỹ thuật từ năm 1945 đến 1965 và tổng giám đốc từ năm 1965-1970.
Ông Huệ cũng là hội trưởng nghiệp đoàn kỹ nghệ dầu và xà-bông miền Nam
Việt Nam (1965-1975) và là tổng thư ký Tổng Đoàn Công Ty kỹ nghệ Việt Nam
(1969-1975). Trong thời gian này, ông Trương Khắc Huệ là nguời tạo ra
những sản phẩm mới như xà-bông hương ngài và nhứt là bột giặt (2). Người
con trai út, ông Trương Khắc Cần, quản lý công ty từ năm 1970 đến 1975.
Thời
kỳ sau khi Trương Văn Bền mất, từ năm 1959 cũng là thời kỳ nhiều biến
động trong lịch sử Việt Nam. Xà bông Việt Nam của Trương Văn Bền vẫn
chiếm lĩnh phần lớn thị trường cho đến khoảng giữa thập niên 1960, khi
hàng hóa, xà bông, bột giặt Mỹ bắt đầu tràn ngập miền Nam. Các công ty
mới ở Việt Nam
cũng thành lập sản xuất bột giặt thay thế phần lớn nhu cầu dùng xà bông
để giặt giũ. Công ty Trương Văn Bền và các con, lúc đó đã đổi thành
Hãng xà bông Việt Nam, vẫn nỗ lực cạnh tranh, sản xuất thêm sản phẩm bột
giặt Việt Nam cạnh tranh với các loại bột giăt Mỹ và bột giặt Viso của
ông Trương Văn Khôi.
Sau năm 1975, nhà nước mới trưng thu một phần cơ sở của Hãng Xà bông Việt nam để trở thành Nhà máy hợp doanh Xà bông Việt Nam
thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương
Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh
với tập đoàn Proter & Gamble lập một nhà máy mới ở Bình Dương (1).
Một thời quá khứ ngang dọc vang danh của nhà kỹ nghệ và doanh nhân nổi tiếng Việt Nam nay chỉ còn là ký ức. Một nghĩa cử tốt đẹp ít nhất chúng ta nên có để nhớ tới một trang lịch sử doanh nghiệp rất đáng tự hào,
gương sáng cho tương lai và thế hệ mới ngày nay trong thời đại toàn cầu
hóa. Cần ghi lại, phổ biến, khuyến khích học hỏi tinh thần doanh
thương, mạo hiểm trên doanh trường nhưng đầy trách nhiệm với xã hội của
Trương Văn Bền. Công ty Phương Đông ngày nay
cũng nên tự hào ghi vào lịch sử công ty của mình những thành tích đáng
khâm phục của người tiên phong mở đường cho công kỹ nghệ doanh thương
Việt Nam.
Tham khảo
(1) Hứa Hoành, Những nhà phú hộ và người lừng danh ở Nam kỳ, http://namkyluctinh.org/a-lichsu/huahoanh/huahoanh-phuho%5B4-kynghe%5D.htm
(2) Phillipe Truong, theo thông tin trong các điện thư do Phillipe gởi cho tác giả
(3) Khuyết danh, Trương Văn Bền (1883-1956), http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=467:truong-van-ben-1883-1956&catid=88:nhung-nha-kinh-te&Itemid=270
(4) Gouvernement
general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances
plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de
l'Indochine, Session ordinaire de 1939, Imprimerie d'extreme-orient,
Hanoi, 1940, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56273414.image.f115.
tableDesMatieres
(5) Gouvernement
general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances
plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de
l'Indochine, Session ordinaire de 1938, Imprimerie d'extreme-orient,
Hanoi, 1939, pp. 201-202, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5453910r.image.f203.
tableDesMatieres và http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5453910r.
image.f000204.tableDesMatieres
|
|
Nguyễn Đức Hiệp | |
Qua các tài liệu cuối thế kỷ 19 có ở Thư viện quốc gia Pháp (Bibliotheque national)
thì ta biết được Wang-Tai là một nhân vật người Hoa kiều sống ở Sài Gòn
trong những năm đầu Pháp chiếm các tỉnh miền Nam sau khi đánh thành Sài
Gòn vào năm 1859. Wang-Tai (Vương Đại) nổi tiếng trong các tác phẩm viết về Sài Gòn trong các thập niên 1880-1890 của các tác giả người Pháp qua ngôi nhà lớn và đẹp nhất Sài Gòn nằm ngay tại bờ sông ở cảng Sài Gòn (nay là bến Bạch Đằng). Maison Wang-Tai đồ sộ xây bằng gạch lớn hơn cả dinh thống đốc lúc bấy giờ vốn chỉ là một ngôi nhà gỗ (cây) mua ở Singapore chở sang Sài Gòn rồi ráp lại.
Từ nhà của ông Vương Đại về hướng cảng thương mại Sài Gòn, dọc theo rạch Bến Nghé (Arroyo chinois) là các xưởng làm gạch và ngói do ông Vương Đại quản lý. Trong các viên ngói đỏ hơn trăm năm trên nóc Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, một số viên làm từ các xưởng gạch này của ông, số còn lại là nhập từ Pháp.
Vậy ông Vương Đại là ai?
Chi
tiết về cuộc đời của ông Vương Đại không để lại trong sử sách hay tư
liệu nào của người Việt, chỉ có một số sự kiện rải rác được ghi trong
các tài liệu tiếng Pháp. Điều
này cũng dễ hiểu vì ông Vương Đại là người Hoa sống trong thời kỳ từ
năm 1827 đến cuối thế kỷ 19 ở miền Nam, một thời kỳ có nhiều thay đổi
lớn khi Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam kỳ. Trí thức, sĩ phu, triều đình
người Việt lúc ấy không để ý đến những vấn đề doanh nghiệp, kinh tế,
thương mại... và vả lại không nhiều
người biết chữ Hán-Nôm, còn chữ quốc ngữ thì chưa được phổ biến trong
quần chúng nên không ai viết và biết về con người ông Vương Đại.
Ông
Vương Đại là thương gia người Hoa, bang trưởng Bang Quảng Đông, rất
giàu có và có thế lực trong thời kỳ đầu khi Pháp chiếm Sài Gòn và các
tỉnh miền Đông Nam Bộ. Chỉ trong vòng hơn 10 năm khi Pháp thiết lập
chính quyền và mở cửa tự do kinh doanh cảng, khuyến khích thương mại,
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các doanh nhân người Hoa ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn đã phát tài vượt bực nhờ truyền thống kinh doanh
nhạy bén và mạo hiểm trên thương trường. Họ đã trở nên giàu có nhanh
chóng, tạo sự khâm phục và ấn tượng đối với người Pháp. Trong số hội
viên của Phòng Thương mại (chambre de commerce) vào lúc sơ khai, năm
1886, ở Sài Gòn, bên cạnh đa số là người Pháp, có hai hội viên người Hoa giàu có là ông Vương Đại và ông Ban-Hap, và một hội viên người Việt duy nhất là ông Nguyễn Trọng Tạo [Annuaire 1888]. Ông Vương Đại có các xưởng làm ngói, làm đồ gốm, ruộng lúa và nhiều nhà cửa, văn phòng ở Sài Gòn - Chợ Lớn đến nỗi chính quyền Pháp phải mướn nhiều nhà của ông để làm trụ sở hành chính.
Qua sự vận động của ông Vương Đại, năm 1880 Toàn quyền Pháp đã đề nghị với giám đốc trường Chasseloup-Laubat (tức Trường PTTH Lê
Quí Đôn ngày nay) mở khóa dạy tiếng Quảng ở trường này. Ông đòi hỏi Hội
đồng Quản hạt trong phiên họp năm 1883 phải bãi bỏ thuế đất 5 chùa
người Hoa trong Chợ Lớn vì đó là những cơ sở tôn giáo, phải được đối xử như các đền thờ tôn giáo khác như Ấn, Hồi, Công Giáo là không phải trả thuế [E. Laffont, J.-B. Fonssagrives 1890].
Năm 1880, ông muốn bán ngôi nhà ông đang ở tại bến Sài Gòn cho chính quyền với giá 45.000 piastres (đồng) tương đương với 225.000
francs. Sau khi xem xét kinh phí mà chính quyền lúc đó đang mướn và
tiền quản lý bảo trì căn nhà đó, cùng với số tiền còn đang nợ chưa trả,
Hội đồng Quản hạt đã đồng ý bỏ ra 254.000 francs để mua lại căn nhà của ông Vương Đại [X. Gaultier de Claubry 1882]. Các xưởng gạch của ông Vương Đại sản xuất ra những viên gạch tốt được dùng ở Sài Gòn và ở nhiều nơi trong Nam kỳ. Trong cuộc triển lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, các sản phẩm gạch của ông giành được huy chương bạc [Excursions 1880]. Ông có đưa các sản phẩm đồ gốm sản xuất ở Chợ Lớn đi tham dự Triển lãm Quốc tế năm 1878 ở Paris [Catalogue 1878].
Ngoài các cơ sở làm gạch và đồ gốm, ông Vương Đại còn có những khu ruộng lúa lớn ở Phước Lộc mới khai hoang để trồng lúa gạo [Hte-. Frédéric-Thomas Caraman 1871]. Theo tư liệu ngân sách do chính phủ Pháp ở Sài Gòn in năm 1876 [Budget 1876]
thì ông có 3 nhà cho chính quyền Pháp ở Sài Gòn mướn: 1 nhà 3 tầng ngay
cảng thương mại (quai de commerce) Sài Gòn (tiền mướn: 6.866 franc/1 năm), 1 nhà ở rue de Canton (đường Triệu Quang Phục) Chợ Lớn làm văn phòng điện tín (1.694 francs), 1 nhà ở Bình Tây (Chợ Lớn) làm trạm cảnh sát (2471.75 francs).
Tờ tuần báo “Les tablettes colonials” xuất bản tại Paris ngày 19/12/1888 có đăng một mẩu tin nhỏ về ngày lễ sinh nhật của ông Vương Đại như sau [Les Tablettes 1888]:
“Một ngày lễ rất thành công với
ấn tượng rất lý thú vừa xảy ra ở Sài Gòn, để mừng sinh nhật thứ 61 và
kỷ niệm 30 năm ngày ông thương gia người Hoa tên là Vương Đại đến Sài
Gòn. Những người con trai của ông
Vương Đại và gia đình của họ, những đồng hương và bạn bè của ông trong
dịp lễ này đã mời “quí bà, quí ông người Pháp và người Âu ở Sài Gòn, Chợ
Lớn và các tỉnh”. Cộng đồng người Âu đã đáp lại lời mời ân cần này. Đèn
đuốc, pháo bông, trình diễn kịch, hát tuồng, không thiếu cái gì trong
ngày lễ vui này. Ông Vương Đại là một trong những chức sắc người Hoa
được kính trọng nhất ở Sài Gòn; ông không những đã có những dịch vụ cống
hiến lớn lao cho đồng bào ông mà còn cho chính quyền Pháp. Vì thế đương
nhiên là đúng khi người ta đáp lại tương ứng thông qua việc tham dự hoạt động hòa bình này mà ông là đối tượng.”
Qua mẩu tin này thì ta biết là ông Vương Đại sinh vào tháng 12 năm 1827 ở Trung Quốc, ông đến Sài Gòn - Chợ Lớn lập nghiệp vào năm 1858, một năm trước khi Pháp đánh thành Sài Gòn.
Tư liệu, bút ký của các tác giả Pháp cuối
thế kỷ 19 cho thấy trên khu phố chính Sài Gòn như đường Catinat (Đồng
Khởi), người Hoa đã có nhiều cơ sở doanh thương hơn người Việt. Chung
quanh ngôi biệt thự của ông Vương Đại, trước khi Pháp đến đã có các ca tiệm vải, tiệm may đồ, hàng thủ công, tiệm sửa giày, sửa
đồng hồ, hàng nước ngoài mà ngay cả người Pháp cũng đến mua, chưa kể
ban đêm các nhà trên đường sau biệt thự ông Vương Đại là các sòng đánh
bạc.
Ngoài ông Vương Đại, còn có các doanh nhân người Hoa giàu khác như Apan, Atho, Ban-Hap, v.v. [Anatole Petiton 1883]. Cửa hàng của người Hoa ở đường Catinat, đường Rigault de Genouilly dọc kinh chợ Vải, nối đến đường rue d’Adran, đều mở cửa đến
9 giờ đêm. Đường rue d'Adrian (đường Hồ Tùng Mậu ngày nay) là khu buôn
bán tấp nập có nhiều cửa hàng người Hoa, Ấn nằm kế khu vực Chợ Sài Gòn
cũ. Chợ này nằm dọc kênh Charner (kinh chợ Vải), nay gọi là chợ Cũ.
Sài Gòn - Khách sạn Cosmopolitan Hotel, nhà ông Vantai (Vương Đại) 1872 (nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876]).
Toàn
cảnh Sài Gòn – 1881. Sông Sài Gòn, rạch Bến nghé. Để ý nhà ông Vương
Đại ở ngay góc sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé (arroyo chinois) 2 tầng
(không kể tầng trệt) giống như hình trong sách của bác sĩ Albert Morice [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].
Ông Anatole Petiton đến thăm Sài Gòn, đã viết về đời sống, sinh hoạt của thành phố trong sách “La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage” xuất bản năm 1883 như sau [Anatole Petiton 1883]:
“Khi đi tàu đến cảng Sài Gòn, du khách có thể thấy hai nhà nổi bật là nhà Rồng (messageries maritime) và nhà của ông Vương Đại, xây hầu như ở giữa góc điểm của rạch Bến Nghé và sông Sài Gòn.
Tất
cả Sài Gòn đều biết ông Vương Đại. Nhà của ông rất lớn với cột cửa vòng
cong và mái hiên (portique), có thể nói nhà ông được coi như là trung
tâm Sài Gòn.
Nhà
có ba tầng với sân mái hiên. Đây cũng là tòa đô chánh thành phố Sài Gòn
và là nơi ở của ông thị trưởng. Ông thị trưởng quả là người công chức
được chu cấp chỗ ở tốt nhất.”
Sài Gòn 1872– Bên kia sông Sài Gòn là nhà Rồng (messageries maritime) – nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876]
Cũng theo mô tả của ông Petiton thì kênh Chợ Vải dài khoảng vài trăm thước (gọi là kênh Rigault de Genouilly, sau đổi thành kênh Charner),
bắt đầu từ sông đi vào thì ở phía bên phải là các ngôi nhà của người Âu
và một vài nhà người Hoa và Ấn (người Pháp gọi người Ấn là malabar), bên trái là các ngôi nhà, chợ và những cửa hàng khác của người Hoa.
Kênh chấm dứt ở khoảng nhà thờ. Ở phía trên phần kéo dài của kênh, hai bên có chỗ chơi trò chơi Bowling (một thứ trò chơi của người Anh) rất hợp với việc giải trí lúc chiều tối. Nhà thờ lúc bấy giờ do đô đốc Bonard cho dựng dọc kênh chợ Vải năm 1863 sau khi vừa chiếm xong hoàn toàn Sài Gòn - Gia Định, được làm bằng gỗ hoàn thành năm 1865 chỉ là một nhà thờ tạm thời. Người Pháp
đang xây một thánh đường lớn gần dinh thống đốc mới xây. Trong nhà thờ,
ở gần điện thờ là các ghế ngồi dành cho người Âu, ngoài ra là các bục
bằng gỗ. Người Ấn có ba đền thờ ở Sài Gòn: hai đền thờ Hồi giáo và một đền thờ Ấn giáo (Hindou).
Người
Mã Lai, ít phát tán phân phối rộng nhiều ở Sài Gòn như các dân khác, họ
đa số làm nghề coi sóc ngựa. Ở Singapore thông thường thì những người
chăm sóc ngựa và lái xe ngựa tư nhân hay công cộng đều là người Mã Lai. Ở Sài Gòn, họ thường lái xe ngựa cho chủ mướn họ.
Cảnh
chợ Sài Gòn 1872, để ý có 2 người Ấn (malabar) và một người Hoa trong
chợ - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].
Còn
các xe ngựa công cộng thì được điều khiển bởi những người Ấn từ vùng bờ
biển Malabar, Pondichéry (một nhượng địa của Pháp ở Ấn Độ) hay từ
Singapore. Vì người ta thường thấy họ đánh xe ngựa công cộng ở Sài Gòn
nên họ gọi loại xe ngựa này là xe Malabar. Những người malabar chăm sóc
ngựa rất tốt và tài tình, họ có phương pháp độc đáo rất hay để dỗ ngựa. Họ
thường dùng bàn tay vỗ nhẹ vào ngựa, làm như cho ngựa tin rằng họ rất
ganh tị là ngựa có bộ da mà họ muốn lấy. Người Malabar cũng làm nghề
chăn nuôi bò, để lấy và bán sữa (có người xấu miệng nói là sữa bò thật sự là nước từ dừa cái dập nát pha với nước lã). Ở Sài Gòn ngay cả vào những thập niên đầu thế kỷ 20, vẫn còn thấy nhiều con bò ăn cỏ ở một số lề đường công viên gần trung tâm thành phố do người Ấn nuôi.
Vùng Malabar - nhượng địa của Pháp ở Ấn Độ (Nguồn: http://historicalrama.org/historicalrecords.html)
Người
malabar còn có một nghề đặc biệt nữa là đổi tiền. Một đồng (piastre)
theo giá chính phủ đổi là 5 franc 55, nhưng họ đổi được giá cao hơn là 5
fr 65 và đôi khi đổi lên đến khoảng 6 francs. Họ làm dịch vụ thương
mại này với người Hoa ở Chợ Lớn, vì người Hoa thường cần một số lượng
tiền đồng (piastre) lớn để có thể mua nhiều gạo từ các tỉnh. Người
malabar còn một nghề thứ tư ở Sài Gòn - đó là nghề gác-dan và họ cũng được tuyển dụng làm cảnh sát. Cộng đồng người malabar là cộng đồng công nhân làm lụng và rất cần kiệm: tiền họ kiếm được thường được cất dấu và không xuất ra nữa. Họ có thể lực tốt: cao,
khỏe và thon. Họ thường đeo đồ trang trí ở cổ tay, trên cổ, cổ chân,
tất cả đều bằng vàng thật; đối với họ đồ trang trí giả bị cấm dùng.
Thương gia người Hoa 1872 - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].
Lời kết:
Sài Gòn là một thành phố của nhiều lưu dân đến để tạo ra một sắc thái riêng. Ngay từ đầu, Sài Gòn đã là một thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa. Người bản xứ
Mạ, Stieng, người Khmer, người Chăm, người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông,
Triều Châu, người Việt từ các tỉnh miền Trung, và sau này người Pháp, Ấn
độ (Malabar), Phi (Tagal) đến, tất cả đã để lại những sắc thái văn hóa,
kiến trúc, ngôn ngữ, giai thoại… để tạo thành người Sài Gòn với đặc
tính thực dụng, hòa hợp, trọng lẽ phải, tôn trọng sự khác biệt và mang
tính chất “trọng nghĩa khinh tài” của vùng đất Nam Bộ. Sài Gòn từ cuối
thế kỷ 19 đã là thành phố toàn cầu (global city) không phải đợi đến thế
kỷ 21 của thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Albert Morice1876: Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon).
Anatole Petiton 1883: La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille).
Annuaire 1888: Annuaire de la Cochinchine pour l’annee 1886, Saigon imprimerie colonial, Date d'édition: 1865-1888.
Belleindochine 1882: Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
Budget 1876: Budget local: exercice / Gouvernement général de l'Indochine, Cochinchine, Impr. du Gouvernement (Saigon). http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5448883k.image.r=Wang-Tai.f97.langEN.hl
Catalogue 1878: Catalogue officiel.
Tome 5 / Exposition universelle internationale de 1878 à Paris; publié
par le commissariat general, Imprimerie nationale (Paris), http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k90427z.hl.r=Wang-Tai.f175.langEN
Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp 1994: De Batavia à Saigon: notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, Vol. 47, pp. 155-191.
E. Laffont, J.-B. Fonssagrives 1890: Répertoire alphabétique de législation et de réglementation de la Cochinchine: arrêté au 1er janvier 1889. T4 (G-J), A. Rousseau (Paris).
Eugène Bonhoure 1900: Indo-Chine, Challamel (Paris).
Excursions 1880: Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon,. http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination
Honoré Aurillac, Cochinchine. Annamites, Moïs, Cambodgiens, Challamel aîné (Paris), 1870
Hte-. Frédéric-Thomas Caraman 1871: Sept cents millions de revenus en Cochinchine,
mémoire-rapport à M. le Président de la République et à l'Assemblée
nationale, suivi d'une note sur l'Algérie, A. Le Chevalier (Paris).
John Barrow 1806: A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793:
containing a general view of the valuable productions and the political
importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the
Strand, London. online : http://purl.pt/126
John Crawfurd 1830: Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina;
exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John
Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong
Street.
John White 1824: A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London. http://www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up
Jules Blancsubé 1879: Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix).
L. I. 1906: Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Editeur Coudurier et Montégout (Saïgon).
Les Tablettes 1888: Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5512296p.image.r=Wang-Tai.f1.langEN
Marcel Monnier, Le Tour d'Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.
Nguyễn Công Tánh 2009: Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, http://motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon
P. Cultru 1910: Histoire de la Cochinchine française, des origines à 1883. A. Challamel (Paris),.
P. Midan 1934: La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon , Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon).
Paulin Francosi Alexandre Vial 2009: Les premieres années de la Cochinchine, colonie francaise, BiblioBazaar, LLC.
Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda) 1887: Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris).
Trần Nhật Vy 2004: “Bí mật” nhà thờ Đức Bà, Tuổi Trẻ, 30/12/2004, http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/61715/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba.html ; http://vietbao.vn/Phong-su/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba/40061715/263/
Truong Vinh Ky 1885: Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon).
Vương Hồng Sển 1992: Sài gòn năm xưa, , Nxb Trẻ.
X. Gaultier de Claubry 1882: Un Casse-cou, ou le Budget de la Cochinchine en 1882, Impr. de J. Le Clere (Paris).
(http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1688-nguyen-duc-hiep-vuong-dai-wang-tai-va-doi-song-sai-gon-cuoi-tk-xix.html)
(http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1688-nguyen-duc-hiep-vuong-dai-wang-tai-va-doi-song-sai-gon-cuoi-tk-xix.html)