Showing posts with label từ nguyên dân gian. Show all posts
Showing posts with label từ nguyên dân gian. Show all posts

Monday 5 December 2022

Sao gọi là "công tử bột"? (Lê Minh Quốc - Người Lao Động)

28-11-2021 - 07:19 | Văn nghệ
(https://nld.com.vn/van-nghe/sao-goi-la-cong-tu-bot-20211127192813731.htm)

Kho tàng thành ngữ tiếng Việt có câu: "Công tử bột". "Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ" của Viện Ngôn ngữ học (NXB Khoa học Xã hội - 1999) giải thích: "Công tử bột là ai mà hễ chàng nào ít am hiểu xã hội, vẻ béo tốt, trắng trẻo, ăn mặc sạch sẽ cứ ngơ ngơ ngác ngác trước cuộc sống, vụng về trong công việc, thích ăn chơi, lười biếng hoặc yếu ớt trong lao động đều bị liệt vào hạng người này" (tr.104).

Tại sao thành ngữ này xuất hiện? Cũng theo "Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ": 1. "Chính là các công chức ngành dây thép (bưu điện) trong thời Pháp. Thuở ấy các quan chức này thường ăn diện quần áo trắng, bảnh bao, chạy như cờ lông công trên các đường phố ở thành phố lớn"; 2. "Và từ bột là cách đọc chệch âm từ poste trong tiếng Pháp, có nghĩa là bưu điện (dây thép)" (tr. 105).

Tuy nhiên, theo "Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp" của Nguyễn Quảng Tuân - Nguyễn Đức Dân (Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP HCM - 1992): "Chữ poste nếu có phiên sang tiếng Việt thì cũng đọc là "bót", bốt" chứ không ai đọc là "bột" cả"; và cho rằng: "Có thể "công tử bột" chỉ được dùng để chế nhạo các anh chàng nhà giàu làm dáng cũng thoa phấn lên mặt. Phấn được làm bằng một thứ bột mịn. Thế thì chữ "bột" ở đây chỉ là một danh từ chung nên người ta mới đem "công tử bột" để đối với "tiểu thư vôi" (tr. 85).

Trước hết, xin nói ngay 2 điều:

1. Nếu "các anh chàng nhà giàu làm dáng cũng đem phấn thoa lên mặt" ắt phải gọi "công tử phấn". Vì phấn là phấn; bột là bột. Phấn và bột không thể hoán đổi cho nhau, nhất là khi nó gắn với từ mặt. "Biết thân chạy chẳng khỏi trời/Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh" (Truyện Kiều); "Cô kia đen thủi đen thui/Phấn đánh vô hồi, đen vẫn hoàn đen"; Mặt hoa da phấn; Má phấn môi son... Không thể đổi phấn qua bột trong ngữ cảnh này - cho dù phấn trong chừng mực nào đó cũng là loại bột dùng trang điểm nhưng người ta vẫn gọi đánh phấn, phấn trang điểm chứ chẳng thể nào nói bột!

2. Nếu nói so sánh với "tiểu thư vôi", người ta không dùng "công tử bột" mà phải là "công tử vỏ". Ta hãy đọc lại câu văn trên báo chí thập niên 1930 do nhà nghiên cứu Trần Đức Anh sưu tập: "Không những thế, chúng ta lại còn vẽ vời đi đền kia phủ nọ, nói rằng năm mới đi lễ cầu phúc cầu tài; nhưng xem ra số người thành tâm đi lễ thì ít, còn phần đông là bọn công tử vỏ, tiểu thư vôi giả dạng đi lễ cầu lộc cầu tài mà kỳ thực chỉ để khoe giòn, khoe đẹp" ("Bàn về chơi xuân trên báo xưa", Báo Ngày Nay ra ngày 26-2-2012). Rõ ràng, đã công tử vỏ ắt "sánh duyên" tiểu thư vôi. Vỏ và vôi hàm nghĩa giả dạng hình thức, chưng diện, tô phết cái mã bề ngoài - nói như Tú Mỡ là "Để che đậy cái sơ sài bên trong".

Nói tóm lại, sự ra đời của thành ngữ "công tử bột" không liên quan gì đến những cách giải thích vừa nêu.

Căn cứ vào "Hát bội Théâtre traditionnel du Viet Nam" (NXB Nam Chi tùng thư - 1970) của Huỳnh Khắc Dụng, "Bến Nghé xưa" của Sơn Nam (NXB Văn Nghệ - 1981), ta biết cụm từ này gắn liền với hát bội. Trước đó nữa, trong bài khảo cứu "Hát bội" in trong Tạp chí Phổ Thông số 35 (15-6-1960), nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Quý cho biết trong hát bội có điệu hát tên gọi là "Bài thằng Bột": "Dân gian thường gọi con quan ở trong triều là công tử bột, học hành chẳng ra hình, ở không nên nết, tụ năm tụ ba, hiếp kẻ cô đơn, nịnh người quyền thế, có một tài chim gái mà thôi, không giúp ích cho gia đình, chẳng làm lợi cho xã hội. Sân khấu cổ truyền trình diễn những nhân vật đó làm trò cười cho khán giả, cho nói giọng trọ trẹ, đầu bịt khăn gò, mặt cho giồi phấn mốc, mắt mang kiếng giọng vàng, chơn đi giày Tàu, tay cầm quạt lông, mình mặc áo gấm, ra vẻ sang trọng, có nét ăn chơi, ăn nói ngược ngạo láo xấc".

Rất khó giải thích vì sao dân gian lại gọi con cái hư đốn của nhà quan là bột? Theo nhà văn Sơn Nam, Hoa Bột, Ba Bột là tên riêng của nhân vật trong tuồng hát xưa. "Đại Nam quấc âm tự vị" (1895) cũng ghi rõ: "Hoa Bột, Ba Bột - tên riêng. Người không biết điều mà hay nói phách, hay ỷ thị cũng gọi thằng bột".
(https://nld.com.vn/van-nghe/sao-goi-la-cong-tu-bot-20211127192813731.htm)

Sunday 1 August 2021

Những suy diễn không cần thiết trong tập “Trời cao đất thấp chúng ta thì…” (Phan Chính - Báo Bình Thuận)

 

Những suy diễn không cần thiết trong tập “Trời cao đất thấp chúng ta thì…”

BT- Đây là tập tùy bút của tác giả Trần Hữu Ngư, dày 340 trang, phụ bản Đỗ Hồng Ngọc do nhà xuất bản Mỹ thuật ấn hành tháng 12.2015. Nội dung gồm các bài viết ngắn, tản mạn về tình yêu âm nhạc nhiều hơn cả. Trong đó có một vài bài mang nỗi niềm ký ức của tác giả qua một thời với quê hương La Gi, Hàm Tân, Tân Thành (Bình Thuận)… cũng là điều đáng quý. Nhưng rất tiếc, qua đó tác giả đã bộc lộ sự vội vàng và sa vào những vấn đề tưởng là phát hiện độc đáo. Do giới hạn của một bài báo, chỉ xin giới thiệu một vài chỗ dễ gây nhầm lẫn cho người đọc.

Bài “Gió Tết” trang 126, tác giả viết về địa danh La Gi mượn từ một giai thoại: “…trong thời Pháp thuộc, người Pháp đến Lagi, lúc bấy giờ vùng đất này còn hoang vu, người Pháp hỏi thông ngôn: Nơi đây tên là gì? (dịch). Người thông ngôn nghe không rõ hỏi lại người bên cạnh: Là gì? Thằng Pháp “quất” vào “Là gì”. Và nó chết tên từ đó”. Tiếp đến là: “Trước 1975, La Gi viết dính liền nhau (Lagi), nay không hiểu dựa vào đâu mà người ta viết Lagi rời nhau thành hai chữ”. Thật ra, tác giả nên chịu khó tìm hiểu về quá trình hình thành một địa danh, nhất là một địa danh hành chánh của một địa phương phải dựa trên nhiều cơ sở vì đó là một phạm trù lịch sử, có tính khoa học. Không thể nào từ thái độ “lấc cấc” của một anh thông ngôn mà tên lính Tây lấy đó đặt tên cho vùng đất đã định danh trên bản đồ từ dưới thời phong kiến. Vậy người Pháp đặt chân đến La Gi đầu tiên là khoảng thời gian nào để tác giả coi đó là cái mốc ra đời địa danh La Gi. Nếu đọc Đại Nam nhất thống chí quyển 12 (Bình Thuận) do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1882 và được Tu Trai Nguyễn Tạo dịch vào năm 1963, thì địa danh La Gi đã có rồi và được dịch từ chữ Hán ra quốc ngữ là La Di. Kể cả trên “Bình Thuận toàn đồ”, phần Nam phủ Hàm Thuận, vẽ sau năm 1832 ghi bằng chữ Hán tên hai con sông là Maly (Sông Phan) và Sông La Di (Sông Dinh). Hoặc qua biểu dâng vua của Nguyễn Thông trong châu bản “Doanh điền biểu văn” năm 1877 cũng nêu rõ vị trí quan trọng của cửa tấn La Di trên đường vận chuyển sản vật rừng, lúa gạo phía Nam của tỉnh ra Phan Thiết. Do cách ghi chép theo phiên âm nên các văn bản hành chánh thời Pháp lúc là La Di, lúc là Lagi nhưng vẫn cho thấy địa danh La Gi đã có từ lâu trước khi dấu chân người Pháp đến đây. Địa danh La Gi trở thành thiêng liêng, máu thịt của một địa phương không thể nào được khai sinh từ một câu chuyện “hề” vô vị. Thêm nữa, đến bây giờ mà tác giả còn thắc mắc và lại khẳng định trước 1975 địa danh La Gi đều viết liền nhau (Lagi) mà nay lại viết rời ra. Là một địa danh hành chánh, dù tên gọi xuất xứ, nguồn gốc thế nào, nhưng khi được Việt hóa phải viết đúng với âm ngữ đó. Các văn tự, địa chí, chứng thư dưới chế độ cũ trước 1975 khá kỹ càng đều ghi La Gi rời ra, lại còn có cả gạch nối đối với những danh từ kép và nhất là cách viết về địa danh (La-Gi). Tất nhiên cũng có một vài văn bản, bài báo viết như tác giả làm căn cứ, kể cả bây giờ nhưng không phải phổ biến.

Ở bài “Ngày ấy, Phan Thiết” trang 213, tác giả Trần Hữu Ngư viết: “Đi cho đến hừng đông thì Camp Edépic đã hiện ra trên một động cát có doi đất chòi ra phía biển. Ngày đó dân làng tôi đâu biết chữ tây chữ u gì, nghe Cam Edépic thì đọc Căn a-sơ-bíc”. Rồi còn giải thích rất tự tin “Người ta bỏ chữ Ed- épic đằng sau mà chỉ đọc đơn giản là Căn”. Đó là tác giả viết về trại lính Pháp đóng trên phi trường Phan Thiết và cũng là một địa danh gắn với lịch sử chiến tranh nổi tiếng của Bình Thuận mà lại viết không chính xác và không hiểu nghĩa của từ đó là gì? Thực ra căn cứ này thường được viết tắt và gọi là Camp ESEPIC (tức gồm các chữ đầu của Ecole Superieure d’Education Physique de Indo-Chine (Trường cao đẳng Thể dục thể thao Đông Dương) và Camp có nghĩa là trại (lính), đồn (binh). Như vậy không biết tác giả dựa vào đâu để có “Camp Edépic” ? Cũng không thể đổ cho lỗi bản in vì được lặp lại nhiều lần. Không những chừng đó mà còn dễ gặp trong tập sách nhiều “lợn cợn” khác.

Ra đời được một tác phẩm phải có sự đầu tư bằng tất cả tâm huyết, niềm đam mê chưa đủ mà còn cần đến những yêu cầu cơ bản khác. Có như vậy mới  mong đem đến người đọc những điều thú vị, bổ ích. Nhưng nếu áp đặt bằng sự chủ quan, thiếu cân nhắc của mình, dù chỉ đôi bài thì chính tác giả tự đánh mất đi giá trị của tác phẩm.

PHAN CHÍNH
(http://www.baobinhthuan.com.vn/van-hoa/nhung-suy-dien-khong-can-thiet-trong-tap-troi-cao-dat-thap-chung-ta-thi%E2%80%A6-84240.html)


Sunday 1 March 2020

Ô có phải là cái vũng?

Trung Hoa (“Từ địa phương chỉ địa hình trong địa danh Nam Bộ”, Tạp Chí Ngôn Ngữ số 4, 2012, tr. 32-38) ở trang 34 giảng ôvũng, bàu rồi cho ví dụ là Ô Môn, Ô Cấp và Ô Ma. Ô Môn thì không biết, nhưng Ô Cấp và Ô Ma  đều là từ mượn âm tiếng Pháp. 



Ô Cáp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[i]

Ô Cắp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[ii]

Ô Cấp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[iii]

Ô Ma aux Mares. nông trại ~  ferme des Mares ; thành lính tập ~ (Sài Gòn xưa) Camp des Mares (*caserne des tirailleurs annamites).[iv]



Ngoài Ô Cấp và Ô Ma còn có Ô Quắn:
Ô Quắn Au Vent. bãi ~ Vũng Tàu {Plage/Pointe} Au Vent.[v]


[i] * Vì nói Hưng-yên (hải cảng Phố-hiến đời hậu Lê) thuộc về thượng du thì cũng chả khác bảo Saigon làm trên núi, hay rủ nhau đi Cà-mâu ăn nem Thụ-đức, hay tắm biển Ô-cáp ở Tây-ninh. Phong Hóa Tuần Báo số 70 (1933:14, Nhát-Dao-Cạo)
* Nói đến đây, ta lại nhớ đến cuộc tập trận Ô CÁP (cap. St Jacques) cách đây mấy năm, khi đô-đốc Godefroy mang hạm-đội tuần-dương từ Pháp sang ghé bến SAIGON. Tri Tân Tạp Chí số 5 (1941:13, Nguyễn Huyền-Tĩnh)
[ii] Trong Nam-kỳ nói đi chơi «  Ô-Cắp » (Au Cap) cũng là một cách phong-lưu lịch-sự như ngoài Bắc nói đi tắm Đồ-sơn vậy. Nam Phong Tạp Chí số 58 (1922:257, Phạm Quỳnh)
[iii] * Khỏi Ô-cấp tàu đi vụt vụt,
Những mênh mông trời nước một màu. Trung Lập Báo số 12 (1924:3, Tứ-Linh)
* Tên gọi “Ô Cấp” để chỉ Vũng Tàu được Việt hóa từ cụm từ Aller au Cap (có nghĩa là đi ra đất mũi để nghỉ mát và tắm biển) được rút gọn lại thành “Au Cap”, có lẽ ra đời cùng với nhu cầu đi nghỉ cuối tuần của người dân Sài Gòn, và rộng hơn cho cả người miền Đông Nam Kỳ và đồng bằng sông Cửu Long. Thạch Phương & Nguyễn Văn Minh (2005:119)
* Rồi đến Ô Cấp vào Sài Gòn lên Tân Đáo ở xóm Chiếu. Tô Hoài (2007:100)
VHS (1999:60)
[iv] * M.... làm quan một, tại đội binh thứ nhứt, lính tập Annam ở tại ô ma (Mares) vào đơn cách vài bữa rày mà thưa một tay anh chị lớn mật dám cỡi xe máy cũa ổng để đâu đó, mà cúc mất. Trung Lập Báo số 61 (1924:4)
* Như hồi ngày hôm qua đây lối ba giờ rưởi chiều tên Trần-Cư là sốp-phơ xe hơi số 1042 của chệt  Trần-Châu bán đồ tạp hóa ở con đường Cách-ti-na đụng đứa nhỏ Nguyển-văn-Cu là enfant de troupe học tại trường Ô-ma, tại nơi góc đường Frère Louis và Nguyển-Tấn-Nghiệm. Trung Lập Báo số 161 (1924:4)
* Vụ lấy trộm 2 cây súng liên-thanh, 4 cây súng trường và đạn ở đồn Ô ma, tháng giêng năm 1930; Nam Phong Tạp Chí số 184 (1933:514)
* Ánh sáng xanh của những nụ đèn điện hai bên đường Frère Louis về vùng Ô-ma đã buồn hơn, và đã lạnh hơn, nhưng thấm xuống từng dưới mặt đường nhựa. Tri Tân Tạp Chí số 175-178 (1945:11, Đông-Hồ)
* Miễu-Hiển-Trung do đức Cao-Hoàng dựng lên để thờ các công-thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài-vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy-binh Pháp matelot Manuel, miễu Hiển-Trung vốn ở trong vòng thành Ô-Ma (camp des mares, nay là trụ sở trung ương Cảnh-sát) Vương Hồng Sển (1969:70)
* Sau năm đảo chính 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô-Ma, và dỡ bỏ miễu Hiển-Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào. Vương Hồng Sển (1969:70)
* Chỗ bán bánh đập ở một khoảng đất trống, bàn ghế kê la liệt ngoài trời, ở cuối đường Frères Louis (nay là Võ Tánh), giáp đường Cây Me (nay là Nguyn Trãi) và gần đồn Ô-Ma của nhà binh Pháp (sau là khu Ủy hội Quốc tế). Nguyễn Vỹ (1970b:334)
* Còn tại thành lính tập Ô Ma (Camp des Mares) thì có miếu thờ các công thần nhà Nguyễn, lập năm 1804, chữ gọi “Hiển Trung Từ”. Vương Hồng Sển (1990:155)
* Miếu Hiển Trung do đức Cao Hoàng dựng lên để thờ các công thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy binh Pháp Matelot Manuel, miễu Hiển Trung vốn ở trong vòng thành Ô Ma (Camp des mares, có lúc là trụ sở trung ương Cảnh sát). Vương Hồng Sển (2004:87)
* Sau năm đảo chánh 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô Ma, và dỡ bỏ miếu Hiển Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào. Vương Hồng Sển (2004:87)
* Chỗ bán bánh đập ở một khoảng đất trống, bàn ghế kê la liệt ngoài trời, ở cuối đường Frères Louis (nay là Võ Tánh), giáp đường Cây Me (nay là Nguyễn Trãi) và gần đồn Ô Ma của nhà binh Pháp (sau là khu ủy Hội Quốc tế). Nguyễn Vỹ (2006:826)
LNT (1993:666)
[v] Lộ trình chuyến đi đã được tính trước, nguyên ngày thứ bảy tắm ở Long Hải và nghỉ ở nhà mát của ngành quan thuế gần Dinh Cô, sang hôm sau qua Vũng Tàu tắm ở bãi Ô Quắn, ăn cơm trưa xong rồi về. Nguyễn Đông Thức (2006:43)
LNT (1993:667)

Thursday 26 September 2019

Về ý nghĩa của danh từ lính Ma Tà là gì ? (Brian - The SaigonPost)


http://www.thesaigonposts.net/2018/11/ve-y-nghia-cua-danh-tu-linh-ma-ta-la-gi.html


Về ý nghĩa của danh từ lính Ma Tà là gì ?

Nếu bạn đọc trên mạng, bạn thấy có vài bài viết phân tích lính ma tà là dạng cảnh sát người Việt thời Pháp thuộc, hoặc lính đánh thuê Mã Lai, hoặc đủ thứ gì đó.

Ví dụ ở đây >> http://tunguyenhoc.blogspot.com/2013/07/linh-ma-ta-khac-gi-la-linh-ma-ta.html hoặc ở đây >> https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/n/nguyen-du/tim-hieu-tu-ma-ta---linh-ma-ta.

Còn mình đọc trong bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ tứ kỷ quyển XXV, năm Tân Dậu Tự Đức 14 [1861], có đoạn giảng nghĩa liên quan đến danh từ ma tà như sau

****

Lĩnh án sát Định Tường là bọn Nguyễn Văn Nhã đánh bại quân Tây ở các xứ Cái Bè, Cai Lậy, được thưởng phẩm hàm kỷ lục và gia cấp, cộng 20 viên nhân. (Từ khi có việc đánh nhau với quân Tây dương, dân đạo theo Tây dương, người Tây dương dồn làm lính ma tà. Lần này bắn chìm 2 chiếc thuyền của lính ma tà, giết chết lính Tây dương và lính ma tà 50 tên).

****

Chữ ma tà ở đây viết theo Hán ngữ là 麻邪.
Như vậy không biết cụ Huỳnh Tịnh Của đã dựa vào đâu mà viết trong bộ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị rằng Ma Tà là chỉ cho "lính canh tuần.  Tiếng Malais, kêu theo đã quen".

Chứ mình đọc trong bộ Đại Nam Thực Lục đoạn văn trên, thì viết rất rõ lính Ma Tà chính là các binh lính họ đạo theo quân Pháp, được tuyển làm lính.  Các dân đạo này có phải 100% là người Việt (người Kinh) không thì chúng ta không rõ, vì có khi có cả người Hoa, người Khmer, người Mã Lai, hoặc những ai đó theo đạo mà theo quân Pháp ở miền Nam Việt Nam cũng nên.  Và họ cùng với các sĩ quan, binh sĩ Pháp ra trận đánh nhau như binh lính ở chiến trường, chứ không phải là lính canh tuần hoặc giả các ông phú lít như những gì người ta đã giảng trên mạng cả.

Như vậy, ít nhất theo bộ Đại Nam Thực Lục, nghĩa của từ Ma Tà 麻邪 là dùng để chỉ cho người họ đạo mà theo quân Pháp làm lính, đi đánh nhau, chứ không là lính canh tuần hay phú lít như người ta thường giảng há bạn. 

Còn sự kết luận trên mạng "Mã tà thời 1861 là một thứ địa phương quân (dân quân thì đúng hơn) kiêm cảnh sát không cần biết chữ." thì mình xin được miễn bàn, vì có khi các ông lớn khi xưa như Tổng đốc Trần Bá Lộc cũng từ hàng lính ma tà mà ra, và chắc vị Tổng đốc Lộc này cũng biết chữ chứ không là dân chăn vịt đâu đúng không bạn ? 

Còn Ma Tà có là từ ngôn ngữ Mã Lai hay Pháp ngữ mata hay không thì lại là một chủ đề khác.  Bạn muốn phân tích, cần dựa sử kiện hay văn bản, chứ không lại đi thực địa hỏi những cụ bô lão ở hóc bà tó nào đó mà kiến thức về lịch sử / ngôn ngữ học của các cụ chưa quá cái ao làng.

Mời bạn tham khảo.

Dĩ nhiên mình có thể sai, nếu có mời bạn lên tiếng để mình cùng học hỏi.

Thanks

Brian 

P.S: Và chưa thấy thầy học giả Việt Nam nào viết chữ Ma Tà trong Hán ngữ ra sao cả, dù họ đoán rất nhiều từ ngôn ngữ Mã Lai qua tới Pháp ngữ.