Wednesday 15 December 2021

Tây viết hay Việt viết?

 


Báo chí bây giờ thượng vàng hạ cám. Đây là cám:

Người đàn ông đã bị kéo khỏi xe bởi những người đi đường và đưa đến bệnh viện với vết thương nhẹ ở chân và đầu, Seven News đưa tin.
(Adelaide Tuần Báo số 972 ra ngày 25 tháng 3 năm 2021, trang 14)

Còn đây mới là vàng:
Người đàn ông được những người đi đường kéo ra khỏi xe. Nạn nhân được đưa đến bệnh viện với vết thương nhẹ ở đầu và chân (Seven News).

 

Muốn viết báo phải học cách viết câu trước đã.

 



 

Tuesday 14 December 2021

'Vụ án gián điệp' 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan (Phạm Xuân Dũng & Trần Tuấn - Tiền Phong)

 

'Vụ án gián điệp' 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan

Ông Nguyễn Thúc Tuân.
Ông Nguyễn Thúc Tuân.
TP - Ông Nguyễn Thúc Tuân (sinh năm 1914, hiện sống ở thành phố Huế) đã kêu oan suốt mấy mươi năm nhưng hầu như vô vọng. Tội danh “gián điệp” CIA của Mỹ “chui sâu, leo cao” nặng như đá núi đeo đẳng ông Tuân cùng với cả gia đình qua bao nhiêu năm tháng.

Bài 1: Phiên tòa không nhân chứng

Ngày 11/12/1980, tại hội trường Ba Đình, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, các đại biểu được nghe báo cáo về một vụ án gián điệp gây rúng động cả nước, mà tội phạm là một đại biểu Quốc hội, một đảng viên, cán bộ cách mạng lâu năm, Trưởng ty Thể dục Thể thao tỉnh Bình Trị Thiên. Người đó tên là Nguyễn Thúc Tuân, “can tội gián điệp, đã bị tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kết án 18 năm tù. Vì vậy, đương nhiên Nguyễn Thúc Tuân mất tư cách đại biểu Quốc hội” (theo biên bản ngày 11/12/1980, tài liệu lưu trữ của Quốc hội khóa 6, kỳ họp thứ VII).

Từ đó đến nay đã hơn 35 năm, ông Nguyễn Thúc Tuân vẫn nhất mực kêu oan.

'Vụ án gián điệp' 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan ảnh 1 Bức thư ông Tư Minh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế , cấp trên ông Tuân, đề nghị minh oan cho ông Tuân.

Kể sao hết cay đắng cuộc đời

Theo bản án ngày 22/1/1980 về vụ án “Nguyễn Thúc can tội gián điệp” của phiên tòa sơ thẩm TAND tỉnh Bình Trị Thiên: Bị cáo sinh năm 1914, quê quán thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên, trú quán TP Huế. Nguyễn Thúc Tuân vốn là cán bộ Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp, sau 1954 tiếp tục hoạt động bí mật trong vùng hậu địch ở địa bàn Thừa Thiên-Huế. 

Năm 1958 chế độ Ngô Đình Diệm mở đợt bắt bớ nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng, trong đó có những người kháng chiến cũ từng tham gia Việt Minh trước 1954. Nguyễn Thúc Tuân bị cảnh sát chế độ Ngô Đình Diệm bắt giam. Bản án nói rằng dù chưa bị tra tấn nhưng Nguyễn Thúc Tuân đã  khai báo và hợp tác với địch trở thành nội gián trong hàng ngũ cách mạng, làm điệp viên nhị trùng, chui sâu leo cao, đánh phá cách mạng.

Bản án còn nói thêm: “Ngoài việc khai cho địch những bí mật của cách mạng, bị cáo Tuân đã giúp cho chúng tìm cách đối phó, y còn thường xuyên theo dõi, thu thập, cung cấp nhiều tin tức tình báo về những hoạt động chính trị của những cá nhân, tổ chức xã hội đối lập với Mỹ-ngụy như học sinh, sinh viên, hướng đạo sinh, Phật giáov.v… đã cho chúng tìm cách đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng yêu nước… 

Trong quá trình khai báo cũng như tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thúc Tuân có những điểm nhìn biện bạch cho mình. Y thừa nhận có đầu hàng, khai báo, nhận một số nhiệm vụ do địch giao giai đoạn đầu, còn về sau thì không liên hệ với chúng nữa và đã thực sự trở về với đội ngũ cách mạng… và nói chung y tự cho mình là người có công nhiều hơn có tội”.

Phiên tòa không hề có nhân chứng các bên, không có những người từng là cấp trên hoặc đồng chí đồng đội của ông Tuân (đã được cơ quan chức năng liên hệ làm việc để làm rõ nội dung liên quan đến vụ án này). Ông Tuân cũng không có luật sư bào chữa.

“Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất. Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”.  Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói.

Kết thúc, phiên tòa sơ thẩm tuyên Nguyễn Thúc Tuân phạm tội “gián điệp” và phạt 18 năm tù giam. Sáu năm sau, ngày 16/11/1986, ông Tuân được ra khỏi trại cải tạo. Đến ngày 29/11/2001, Chánh án TAND Thừa Thiên-Huế ra quyết định (số 02/QĐ/XA) “xóa án” cho ông Nguyễn Thúc Tuân. Đây là hình thức xóa án tích của tòa án, căn cứ Điều 63, 65 Bộ luật hình sự (1999), và Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự.  

Đến nhà ông Nguyễn Thúc Tuân những ngày này, sẽ thấy một ông lão nhỏ nhắn đã ngoài trăm tuổi, người bị buộc tội làm gián điệp CIA, phản bội cách mạng. Ông còn khá minh mẫn, nói trong đau xót: “Tôi bị oan, hãy giúp tôi minh oan”.  Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thuyền, một cơ sở cách mạng trung kiên, cựu tù chính trị Côn Đảo đang dưỡng bệnh. Trên bàn thờ, di ảnh con trai ông, liệt sĩ Nguyễn Thúc Lư như đang nhìn xuống những người đang sống. 

Chưa kể em ruột, cháu ruột, cháu dâu của ông đều tham gia cách mạng, có người là liệt sĩ. Bà Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói trong tiếng thở dài: “Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất. Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”.

'Vụ án gián điệp' 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan ảnh 2 Vợ ông Tuân, bà Nguyễn Thị Thuyền - cựu tù chính trị Côn Đảo, dù bệnh tật vẫn gắng chờ ngày chồng được giải tiếng oan.

Không phải người của địch

Tường trình với cơ quan điều tra, ông Nguyễn Thúc Tuân khẳng định việc ông viết cam kết làm việc cho địch chỉ là một thủ tục để sớm thoát ra khỏi nhà tù của địch mà thôi. Sau khi ra tù, ông đã trở lại hoạt động cách mạng và được tổ chức móc nối với phong trào đô thị Huế, vào năm 1965. Ông làm nhiệm vụ giao liên đưa đón cán bộ lãnh đạo ra vào hoạt động nội thành, tham gia khuôn hội Phật giáo… 

Lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân giai đoạn này là ông Nguyễn Hữu Hường (thường gọi là Hường Thọ), cán bộ Thành ủy Huế. Ông Tuân cam đoan chưa hề làm điều gì có hại cho cách mạng và nhân dân. Trong đơn kêu oan, ông nói rằng có thể kiểm chứng điều này từ những người từng là cấp trên hoặc đồng chí, đồng đội biết rõ ông như ông Lê Minh, ông Hường Thọ, ông Lê Phương Thảo, ông Nguyễn Đắc Xuân… Những điều này ông cũng đã nói rõ trước tòa.

Ông Lê Minh (còn có tên Lê Tư Minh), người lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân trong nhiều năm, nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên thời kỳ 1945-1950, Bí thư Thành ủy Huế 1954-1973; sau ngày thống nhất, ông là Phó trưởng ban Nông nghiệp trung ương cho đến khi nghỉ hưu 1978. Ông Minh đã viết tờ xác nhận ông Tuân là cơ sở cách mạng, không phải là nội gián của địch. 

Trong lá thư ngày 19/10/1988 gửi cho ông Tuân, ông Tư Minh cũng nói rõ: “Tôi đã nhận được thư anh do anh Hường chuyển, nói về việc kêu oan về vụ án của anh. Theo tôi thấy thì anh nên viết tờ trình kiện lên Tỉnh ủy, Quốc hội và Viện kiểm sát tỉnh, gởi cho tất cả những nơi cần gởi. Tôi hứa với anh là một trong những người làm chứng anh không phải là người của địch mà là của ta. Chú ý trong tờ trình anh viết, có thể viết cả tên tôi và anh Hường Thọ là người biết sự việc. Mọi công việc anh làm trong tờ trình phải nói rất thật, kể cả việc anh đã hứa với địch mà không làm cho nó, mục đích chỉ để thoát khỏi nhà lao”.

Monday 13 December 2021

Vạch trần “những con cờ đen”: Bắt tên nội gián Nguyễn Thúc Tuân (Khổng Hà - Công An Nhân Dân)

 

Vạch trần “những con cờ đen”: Bắt tên nội gián Nguyễn Thúc Tuân

14:15 28/08/2015
Từ kết quả phong trào quần chúng Bảo vệ an ninh Tổ quốc, đầu năm 1977, Công an Bình Trị Thiên nhận được một số thông tin về hoạt động mờ ám của một cán bộ đầu ngành trong tỉnh - một người từng hoạt động Cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V, trở thành kẻ đầu hàng, phản bội, làm tay sai cho địch. Đó là Nguyễn Thúc Tuân (từ đây gọi tắt là T.), vào thời điểm đó đang giữ chức vụ Trưởng ty Thể dục Thể thao, đại biểu Quốc hội khóa IV.

Khẩn trương khai thác hồ sơ địch để lại và số đối tượng bị bắt kết hợp với công tác trinh sát nghiệp vụ, các đơn vị chức năng tỉnh Bình Trị Thiên (cũ), mà chủ yếu là lực lượng Công an, đã từng bước làm rõ về kẻ phản bội, tên nội gián nguy hiểm này.

Từ năm 1955, ngay sau khi thiết lập tổ chức mang tên Đoàn công tác đặc biệt miền Trung (ĐCTĐBMT), Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương sử dụng một số cán bộ của ta bị bắt nhằm âm mưu tiếp tục chống phá Cách mạng. Trong số đầu hàng phản bội có Lê Văn Tu, tức Hoàng Nguyên, đã khai báo chi tiết về T., cán bộ hoạt động tình báo Liên khu V trong phong trào hướng đạo tại Thừa Thiên Huế. ĐCTĐBMT đã cho nhận diện và bố trí giám sát mọi quan hệ, hoạt động của T..

Ngày 2//958, chúng đã bố trí bắt T. tại nhà thuốc Ngọc Diệp trên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế. Trưởng Cơ quan Đặc biệt Huế Lê Văn Dư cùng hai phụ tá là Lê Khắc Lự và Lê Phước Thưởng (đều là cán bộ Cách mạng đã đầu hàng, phản bội) liên tục thẩm vấn T.. T. đã khai báo hoạt động của mình và nhận công tác với địch chống lại Cách mạng.

Sinh ngày 1//914 tại Thừa Thiên Huế, T. xuất thân trong một gia đình quan lại Nam Triều (cũ), tham gia Cách mạng và được vào Đảng Cộng sản. Từ tháng 8/1945, hoạt động trong cơ quan tình báo Liên khu V tại Huế. Đã được Cách mạng cho dự học các lớp chính trị, nghiệp vụ. Nội dung thể hiện trong các tài liệu lưu trữ cho thấy T. đã khai chi tiết toàn bộ hệ thống tổ chức của Ủy ban Kháng chiến Liên khu V, số lượng và tình hình đảng viên trong chi bộ, cấp ủy và các cơ quan khác mà y biết. Đặc biệt nghiêm trọng là T. đã khai toàn bộ kế hoạch tình báo của Liên khu V giao cho y thực hiện, gồm nhiệm vụ, ý đồ chiến lược, thời gian tiến hành và nội dung, phương châm, phương pháp hoạt động trong lòng địch.

T. khai báo tỉ mỉ về các đường dây, cán bộ làm giao liên trong tổ chức và các cơ sở nội tuyến của ta ở Huế. Trong đó có đồng chí Phan Mạnh Lương, cán bộ tình báo được phái từ Hà Nội vào hoạt động tại Huế từ năm 1954 và đang làm việc tại Liên vụ Thông tin Hoa Kỳ (USIS). T. còn chỉ điểm cho địch biết một số cán bộ của ta được phái vào hoạt động tình báo ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…

Từ tin tức khai báo và qua một số thử thách ban đầu, địch đã kết luận: T. "thành khẩn và chuyển hướng tốt", đủ khả năng để chúng thực hiện ý đồ chiến lược "đánh" vào nội bộ "Cộng sản". Theo đó, T. được ĐCTĐBMT xác lập hồ sơ theo đúng thủ tục một mật báo viên quan trọng.

Tháng 2/1958, T. nhận nhiệm vụ của địch và rời trại giam Tòa khâm dưới hình thức "phóng thích", trở lại bình phong hành nghề tại hiệu thuốc Ngọc Diệp và hoạt động trong phong trào hướng đạo của Huế. Mọi hoạt động của T. đều đặt dưới sự điều khiển trực tiếp của các tên Dư, Thưởng, Lự. Do tạo được vỏ bọc hợp pháp và với kinh nghiệm nghề nghiệp đã được trang bị nên T. nhanh chóng gây được ảnh hưởng và uy tín đối với cán bộ cấp trên cũng như trong phong trào của quần chúng Cách mạng.

Cảnh giác với âm mưu của địch và do chủ trương sách lược của ta trong giai đoạn đó nên việc T. tự tìm bắt liên lạc với cán bộ cơ sở của ta đang hoạt động nội thành không thực hiện được. Vì vậy, một mặt T. phải trường kỳ mai phục, chờ thời cơ, đồng thời thực hiện chỉ đạo của địch đi sâu vào tổ chức hướng đạo Huế nắm tình hình các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, nắm xu hướng và tư tưởng của một số trí thức có tên tuổi. T. coi đây là một thử thách nên đã hăng hái hoạt động và đã cung cấp cho địch nhiều tin tức quan trọng để chúng sử dụng đàn áp phong trào Cách mạng, lùng bắt cán bộ, gây nhiều tổn thất cho ta. Mặt khác chúng còn chú ý tạo điều kiện để T. được tiếp xúc với nhiều sĩ quan Mỹ, ngụy để học tập và củng cố tư tưởng chống phá Cách mạng.

Cuối năm 1965, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh và sự mất cảnh giác của ta, T. đã móc nối được với đường dây liên lạc của tổ chức Đảng tại thành nội Huế và trở thành cán bộ của đường dây này. Ngay lập tức, T. thông báo cho Lê Văn Trốn (mới được địch bố trí trực tiếp điều khiển T.) và báo công luôn bằng một số tin tức ban đầu về tình hình đường dây này mà y nắm được. Cũng từ đó, một số chủ trương và chỉ đạo kế hoạch đấu tranh của phong trào Cách mạng đã gặp nhiều khó khăn, có lúc bị tổn thất nặng.

Các chiến sĩ An ninh đang thu thập tài liệu của địch tại chi khu quân sự Gio Linh - Quảng trị, năm 1972. Ảnh: Tư liệu.

Tháng 6/1967, Cố vấn Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) David Hayes từ Sài Gòn ra Thừa Thiên Huế chỉ đạo Ty Cảnh sát Quốc gia nhanh chóng thành lập toán tình báo đặc biệt, lấy bí số là T115, do Trốn làm trưởng toán và T. trở thành một trong 10 đầu mối tình báo viên của toán này. T. được giao nhiệm vụ xâm nhập nội bộ các tổ chức Cách mạng dưới sự điều khiển trực tiếp của cố vấn Mỹ và Trốn, có quy ước liên lạc riêng. Kể từ đây, T. vừa làm việc cho CIA (thông qua T115), vừa làm việc cho cơ quan Cảnh sát Đặc biệt ngụy.

Tuy vậy, ĐCTĐBMT vẫn nuôi ý đồ tình báo chiến lược là đưa T. chui vào đơn vị hoạt động bí mật của ta. Năm 1968, T. được đưa ra khu căn cứ Cách mạng để tham gia thành viên của liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ Huế. Kẻ địch xác định đây là cơ hội để T. trở thành con bài dự trữ nằm trong các ý đồ hậu chiến của chúng sau này. Tháng 9/1968, khi đã được ra Bắc an dưỡng và học tập, T. vẫn tìm mọi cách để ngấm ngầm tạo dựng vỏ bọc kín đáo hơn chờ cơ hội leo cao, chui sâu.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, T. trở lại Huế và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân Cách mạng kiêm Trưởng phòng Thể dục Thể thao Thừa Thiên. Ở cương vị công tác mới, T. càng có điều kiện "đánh bóng" mình, tạo uy tín để củng cố địa vị.

Khi chính thức trở thành đại biểu Quốc hội thống nhất (Khóa VI) và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng ty và Phó bí thư Chi bộ Ty Thể dục Thể thao (thời đó đảng viên còn ít, nhiều cơ quan cấp sở, ty chưa đủ yếu tố thành lập Đảng bộ), T. đã lợi dụng quyền hành để thực hiện một số hoạt động che giấu tội ác quá khứ của bản thân và âm mưu lôi kéo tụ tập tay chân bằng cách chứng nhận lý lịch "có hoạt động Cách mạng" cho một số phần tử địch trước đây để đưa chúng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể Cách mạng…

Sau khi dựng lại quá trình phản bội của T. thông qua các nguồn tài liệu và thẩm tra các đầu mối T. đang củng cố, Cơ quan an ninh đã tập hợp báo cáo kịp thời lên Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 31/8/1978, Công an Bình Trị Thiên (cũ) thực hiện chỉ đạo của Bộ đã thi hành Quyết định số 312/NQ/QH6 ngày 25/8/1978 của Quốc hội, bắt khẩn cấp Nguyễn Thúc T. và công khai mở cuộc điều tra.

Trước những chứng cứ, tài liệu xác đáng, T. đã phải khai báo toàn bộ quá trình làm tay sai cho địch. Ngày 27/4/1980, tại Huế, Tòa án nhân dân mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Thúc T. can tội làm gián điệp cho Mỹ - ngụy, và phạm tội gián điệp (Điều 5 pháp lệnh trừng trị các tội phản Cách mạng). Trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân, Tòa tuyên phạt T. mức án 18 năm tù giam. Đồng bọn của y cũng lần lượt bị bắt và bị xử phạt thích đáng.

Khám phá, triệt tiêu đầu mối nội gián Nguyễn Thúc T. đã góp phần vô hiệu hóa một mũi trong kế hoạch tình báo chiến lược sau chiến tranh của địch. Đó là một chiến công lớn của quân và dân Bình Trị Thiên mà Lực lượng Công an là nòng cốt. Sự kiện trên cũng là bài học xương máu về tinh thần cảnh giác cách mạng trong mọi tình huống - thời chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước. Nếu không, sẽ khó tránh khỏi hậu quả khôn lường.

* Theo lời kể của Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Bảy - tự Bảy Khiêm

Khổng Hà
https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Bai-cuoi-Bat-ten-noi-gian-Nguyen-Truc-Tuan-i362394/

Friday 10 December 2021

Sau hay trước năm 2018?

 


Diễn văn của ông Hoàng Như Tùng đọc ngày 4 tháng 5 năm 2008 ở Houston trong lễ tưởng niệm tướng Nguyễn Khoa Nam có đoạn:

BS trực Trần quốc Đông (hiện ở Úc) làm tờ y chứng. Thủ tục khám nghiệm đã xong, QYV xúc tiến tang lễ. Kiểm điểm tư trang của người quá cố chỉ thấy:

-        Một cuốn kinh Phật nhỏ đựng trong một túi nylon.

-        Một khẩu súng lục hiệu Browning 7.2 mm

-        Một thẻ bài kim khí cá nhân.

Ba món này đã được bỏ vào quan tài để làm vật lưu dấu phòng thất lạc thi hài người chết.

(https://nsvietnam.blogspot.com/2014/05/dien-van-oc-trong-le-tuong-niem-tuong.html)

Không có lý ông Hoàng Như Tùng, chỉ huy trưởng quân y viện Phan Thanh Giản (Cần Thơ, 1975), lại lấy tư liệu từ sách của ông Trần Mai Hạnh. Ông Hoàng Như Tùng nộp diễn văn của ông cho Hội Nhà Văn Việt Nam chưa biết chừng cũng ẵm được giải thưởng văn xuôi.