Showing posts with label vẹt. Show all posts
Showing posts with label vẹt. Show all posts

Wednesday 23 October 2019

Về vụ án Nguyễn Hữu Đang, Thụy An (Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê) (Nguyễn Xuân Đức - Hồn Việt Quốc Học)

Trước hết, xin thổ lộ đôi điều về duyên cớ có bài viết này. Tôi sinh gần như cùng thời với bà Thụy Khuê ở một tỉnh miền Trung xa xôi. Khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xảy ra, có lẽ cũng như bà Thụy Khuê, tôi còn nhỏ chẳng biết gì. Lớn lên, học đại học khoa văn mới được biết về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua bài giảng của thầy giáo, dĩ nhiên theo quan điểm chính thống của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng rồi nghề mọn văn chương không thuộc khu vực này nên dù về sau có tiếp xúc với một số tài liệu viết về trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, tôi cũng đọc cho biết rồi bỏ đó.
Ông Nguyễn Hữu Đang
Đầu năm 2007, “sự kiện” đầu tiên làm tôi chú ý là sau khi bác Nguyễn Hữu Đang mất, tôi được đọc 2 bài viết: một của bác Phùng Quán nhan đề Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, do báo Tuổi Trẻ đăng lại và bài Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập của nhà sử học Dương Trung Quốc, đăng trên báo Người Lao Động. Hai bài báo này đã đem lại những thông tin mới, thậm chí trái ngược với những gì tôi được học trước đây về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy vậy, nghĩ những vấn đề đó không thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình nên đọc rồi, tôi cũng bỏ đó. Năm 2012, ở cái tuổi nghỉ ngơi, tình cờ tôi được đọc cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của bà Thụy Khuê (ngay từ những chương phát trên mạng), thì sự tò mò trong tôi trỗi dậy. Bằng cách tập hợp, phân tích một khối lượng tư liệu khá lớn, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về nhiều con người liên quan đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nếu tính về thời gian thì cuốn sách này được viết từng phần, đã công bố dần trên đài RFI từ hàng chục năm trước, nay được tập hợp lại, in thành sách dưới một tên chung Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Nói điều này tôi vừa muốn ghi nhận công thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng và suy ngẫm suốt một quá trình dài như một nhà khoa học của tác giả về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nhưng cũng muốn nói về những gì thiếu nhất quán, thiếu tập trung, là sự gán ghép chẳng ăn nhập nhau lắm giữa các mảng nội dung của cuốn sách. Đặc biệt, dường như bị mục tiêu phê phán Nhà nước Cộng sản Việt Nam chi phối, nên tác giả đã sử dụng sai lệch nhiều tư liệu có được, làm giảm đi tính khách quan, khoa học của công trình. Thiết nghĩ, dù phê phán hay bênh vực bên nào thì làm khoa học cũng cần sự sòng phẳng, sòng phẳng trong sử dụng tài liệu và cũng sòng phẳng cả trong cách tiếp cận vấn đề. Trong bài viết này tôi muốn trao đổi cùng bà Thụy Khuê đôi điều chung quanh vụ án nhà hoạt động văn hóa Nguyễn Hữu Đang và nhà báo Thụy An. Bài viết của tôi xin được sử dụng những tài liệu do chính bà Thụy Khuê cung cấp trong cuốn sách nêu trên, dù rằng trong tay tôi hiện đã có trên 50 tài liệu khác nhau về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
1. Nguyễn Hữu Đang - công và tội
a) Nguyễn Hữu Đang - những đóng góp thời kỳ 1949 về trước
Lấy mốc 1949 về trước để chỉ thời kỳ Nguyễn Hữu Đang được Cụ Hồ trọng dụng và việc ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thời gian đó như là lời khẳng định về những đóng góp của ông cho đất nước. Tuy từ năm 1950, Nguyễn Hữu Đang vẫn giữ chức Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ nhưng thực chất ông đã bỏ Hà Nội về Thanh Hóa làm việc cho nhà in Minh Đức. Có thể tóm tắt công trạng của ông trong thời gian từ 1949 về trước như sau:
- Là người có năng lực tổ chức, có tư tưởng đổi mới; đã tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc; có đóng góp lớn trong Hội Truyền bá quốc ngữ và phong trào văn hóa cứu quốc, chống nạn mù chữ.
- Đã giữ các chức vụ cao trong hệ thống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hóa, Trưởng ban tuyên truyền xung phong Trung ương, Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ…
- Từng được Hồ Chí Minh trọng dụng, trong đó có việc giao phó nhiệm vụ khó khăn - làm Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên bố Độc lập ngày 2-9-1945.
Những đóng góp nêu trên rất to lớn cần được ghi nhận và chính là cơ sở để sau này ông được xem xét phục hồi những quyền lợi vật chất như cấp lương hưu, cấp nhà ở Hà Nội cùng nhiều đồ dùng sinh hoạt khác.
b) Nguyễn Hữu Đang và vai trò tổ chức chống đối qua Nhân Văn
Nguyễn Hữu Đang là người có tài và có cơ mưu chính trị. Về cá tính, ông là người khó khép mình vào khuôn phép của tổ chức. Ông từng có mối quan hệ tự do với các tổ chức, phe nhóm chính trị khác nhau trong và ngoài nước, điều mà thời kỳ đó kỷ luật Đảng không cho phép. Vì thế, mặc dù lúc 16 tuổi ông đã tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông Dương Cộng sản đảng, là đối tượng kết nạp Đảng từ năm 1929, nhưng đến năm 1947 mới được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong tài liệu viết tay của mình, sau đoạn “Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang cũng thừa nhận: “Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức”.
Năng lực và cá tính ấy đã tạo ra bước rẽ lớn của Nguyễn Hữu Đang khi ông bất đồng ý kiến với ông Trường Chinh, người đang giữ chức vụ cao trong Đảng, trong đó có vai trò lãnh đạo văn nghệ. Chính Thụy Khuê đã nhận rõ vấn đề này trong khi viết về Nguyễn Hữu Đang.
Ngay từ thời kỳ theo cách mạng, Nguyễn Hữu Đang đã có tư tưởng khác, không nhận đường lối văn hóa xã hội chủ nghĩa, tự đi ra ngoài trật tự của Đảng, muốn lập một đảng riêng (đảng Nhân văn) với một thể chế chính trị riêng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng rời khỏi hàng ngũ của Đảng và tổ chức lực lượng chống đối.
Ở chương viết về Nguyễn Hữu Đang trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê khẳng định: “Trong 6 năm từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành Nhà xuất bản Minh Đức, in lại các sách giá trị thời tiền chiến đã bị cách mạng lên án, hoặc cấm lưu hành của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng v.v…” [Thụy Khuê, sđd, tr.204].
Tuy có những hành động như vậy, nhưng tôn trọng tài năng và đóng góp của ông, nên khi hòa bình vừa lập lại, năm 1954, thực hiện ý kiến của Trường Chinh, Tố Hữu đã mời Nguyễn Hữu Đang ra làm Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang đã từ chối và yêu cầu được làm biên tập báo Văn Nghệ cùng với Lê Đạt [lời chứng của Lê Đạt với RFI và lời Nguyễn Huy Tưởng ghi trong Nhật ký. Nhưng khi trở lại báo Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang lại tiếp tục bộc lộ quan điểm riêng của mình, gây khó khăn cho những người lãnh đạo, kể cả những người bạn thân. Nguyễn Huy Tưởng đã ghi trong Nhật ký: “Ở đâu cũng thấy không vừa ý, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em tòa soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn” (Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 21-4-1955. NXB Thanh Niên, 2006).
Cho đến nay, không ít người vẫn nghĩ rằng Nguyễn Hữu Đang bị oan trong vụ án xử năm 1960. Có bài báo đã khẳng định Nguyễn Hữu Đang là “vị cách mạng lão thành”, “là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng” và để tránh nói về việc Nguyễn Hữu Đang bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phạt tù, bài báo chỉ hạ một câu: “có cuộc đời long đong…” (Dương Trung Quốc: Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập, báo Người Lao Động 25-2-2007).
Ghi nhận công lao đóng góp to lớn cho cách mạng của Nguyễn Hữu Đang giai đoạn 1949 về trước là đúng, nhưng không thể không nhìn thấy mưu đồ riêng của ông đã manh nha từ khi theo cách mạng và được bộc lộ qua hành động chống đối vào những năm sau đó.
Tội của Nguyễn Hữu Đang đã được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai trong phiên tòa mở ngày 19 tới 21-1-1960, có tranh tụng và bào chữa cho bị cáo của luật sư Đỗ Xuân Sảng, có phát biểu nhận tội của Nguyễn Hữu Đang.
Lần lại hồ sơ, nhân chứng… liên quan đến Nguyễn Hữu Đang, có thể thấy: thái độ chống đối của ông bộc lộ rõ rệt từ tháng 8-1956. Vào ngày cuối cùng của lớp học tập dân chủ do ông tổ chức (từ 8-8 đến 26-8-1956), Nguyễn Hữu Đang đã có bài tham luận chỉ trích gay gắt đường lối văn nghệ của Đảng và những người lãnh đạo văn nghệ, được một số trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến hưởng ứng. Nhà thơ Lê Đạt kể lại: “Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (…) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi - Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ - Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm” [Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI, Thụy Khuê thực hiện]. Tờ báo này chính là tờ Nhân Văn, và kết quả tờ Nhân Văn số 1 đã ra vào ngày 20-9-1956 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy làm Thư ký tòa soạn, với một loạt bài của: Phan Khôi, Hoàng Cầm, XYZ, Lê Đạt, Trần Dần…
Rõ ràng manh nha từ trong ý thức, Nguyễn Hữu Đang đã có âm mưu sử dụng người của nhóm Giai Phẩm làm báo Nhân Văn và trong đó không ít tiếng nói trái với đường lối văn nghệ của Đảng. Báo Nhân Văn, vì thế, ra được từ số 1 đến số 5, số 6 định ra vào tháng 12-1956 thì bị đình bản.
Hành động tổ chức chống đối của Nguyễn Hữu Đang, chính những người cùng sống và làm việc với Nguyễn Hữu Đang đều thừa nhận:
+ Về vai trò tổ chức, tập hợp của Nguyễn Hữu Đang đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhà thơ Trần Dần khẳng định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn” [Trần Dần, Tự thú - tài liệu do Phạm Thị Hoài biên tập và xuất bản tại Paris].
+ Về hành động khuynh loát báo Nhân Văn hướng về mục tiêu chính trị kích động chống đối xã hội của Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy - nguyên Thư ký tòa soạn báo Nhân Văn, thuật lại: “Số văn nghệ sĩ tham gia Nhân Văn hầu như không có mấy quyền hạn với tờ báo, nên các việc của tờ báo là do Đang và Đạt quyết định”.
Vì thế, khi thấy tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang đã tự thay đổi nội dung báo Nhân Văn số 6, hướng về những vấn đề ở Ba Lan, Đông Âu… để kích động phong trào chống đối Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trần Duy kể lại:
“Đến khi chuẩn bị làm số 6, tôi và Lê Đạt, Văn Cao bàn đổi hướng để tờ báo nói về hội họa, nên đã chuẩn bị cho số báo chuyên về tranh áp phích của Ba Lan. Tôi đến làm việc với sứ quán Ba Lan và có đủ tài liệu về tranh áp phích của Ba Lan. Ngay ngày hôm sau đó có giấy của Thủ tướng triệu tập… (về việc này tôi đã viết trong bài tưởng niệm ông Phan Khôi năm 2007). Tôi được mọi người cử đi và đã gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi về nói lại với Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang những điều căn dặn của Thủ tướng. Nguyễn Hữu Đang bỏ cuộc họp tự động đến nhà in. Văn Cao và Lê Đạt cùng nói với tôi:
- Thế là Đang sẽ thay đổi nội dung tờ báo, sẽ hướng về tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan, Tiệp Khắc…”. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293]
Sau khi đã trực tiếp viết luôn mấy bài xã luận chuẩn bị trước cho tư tưởng chống lại chế độ, trong số 6 báo Nhân Văn, Nguyễn Hữu Đang đã viết một bài kêu gọi biểu tình. Trần Duy khai: “Chúng tôi tưởng rằng số 6 Nhân Văn ra được thì bọn gián điệp sẽ ngóc đầu dậy, bọn chiến tranh tâm lý sẽ có đất hoạt động…, sẽ có biểu tình, súng nổ…, tiếp theo đó là những mưu đồ lật đổ” [Bọn gián điệp mà Trần Duy nói tới ở đây là Trần Minh Châu, Nguyễn Quang Hải… bị xử án trước đó, đã có điều kiện hoạt động ráo riết trở lại trong thời gian này - NXĐ].
Tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… lúc đó là gì?
Tháng 6-1956 có cuộc nổi dậy chống nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Poznan, Ba Lan. Chính cuộc nổi dậy ở Ba Lan đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn vũ trang ở Hungary vào tháng 10, 11-1956.
+ Về âm mưu của Nguyễn Hữu Đang lợi dụng thời cơ chính trị trong và ngoài nước… để tổ chức chống đối, chính bà Thụy Khuê nhận xét:
“Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ. Trong nước, vị thế của Trường Chinh và Đảng Cộng sản yếu đi sau chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm cơ hội, đứng ra tổ chức Nhân Văn Giai Phẩm với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân” [Thụy Khuê, sđd, tr.208].
+ Về hành động che giấu âm mưu thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang theo kiểu “ném đá giấu tay”, Thụy Khuê viết: “Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn: Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ do Nguyễn Hữu Đang thực hiện” [Thụy Khuê, sđd, tr.209].
Lời thuật của Trần Duy sau đây về cuộc đàm thoại với cụ Phan Khôi, càng cho thấy đầy đủ hơn mưu mô thủ đoạn chính trị của Nguyễn Hữu Đang. Trần Duy viết:
“Nhân bài viết Trả lời ông Nguyễn Chính(**) trên báo Nhân Văn tác giả ký tên bốn người: Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Ông Phan tìm hỏi tôi:
- Anh có biết ông Nguyễn Chính không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông hỏi tiếp:
- Anh có đọc bài viết của ông Nguyễn Chính trong báo Nhân Dân không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông Phan Khôi nói:
- Anh không biết người ta, anh không đọc bài người ta viết mà anh dám ký tên vào bài người khác viết để đả kích người ta.
Tôi không trả lời - ông nói tiếp:
- Anh làm ăn kiểu gì lạ vậy? Mục đích khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị, chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng đấy!!!
Sau cùng ông hỏi:
- Thật ra bài ấy của ai?
Tôi trả lời:
- Của Nguyễn Hữu Đang.
Ông khó chịu nói:
- Ông Đang có đủ chữ để viết một bài như vậy mà lại không đủ can đảm để nhận là tác giả của bài viết ấy, lại còn gắp lửa bỏ tay người, làm việc cách này dễ dắt nhau vào tù lắm!!!”.
[Tưởng niệm về nhà văn Phan Khôi. Bài do Trần Duy gửi Ban tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm nhà văn - nhà báo Phan Khôi (1887-1959) nhân 120 năm sinh, do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tạp chí Xưa và Nay và gia đình đồng tổ chức (Hà Nội, 5-10-2007)].
Đoạn đàm thoại trên cho thấy chính cụ Phan Khôi đã vạch thói “gắp lửa bỏ tay người” của Nguyễn Hữu Đang, đồng thời khẳng định thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang chuyển mục đích của báo Nhân Văn “khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị” - “chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng”.
Xin lưu ý thêm rằng, cuối năm 1956, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Hữu Đang, các ấn phẩm Nhân Văn, Giai Phẩm đồng loạt được tung ra đều nằm trong mục đích “quay mũi nhọn sang chính trị” như nhận xét của cụ Phan Khôi. Chỉ từ tháng 9 đến tháng 12-1956, 6 số Nhân Văn được xuất bản (trong đó số 6 bị đình bản) và đồng loạt Giai Phẩm Mùa Xuân (tái bản), Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Đông ra mắt bạn đọc với nhiều tập khác nhau. Đặc biệt, nếu trong 4 số Nhân Văn đầu đang có chuyên mục “Địa ngục miền Nam”, thì từ số 5 trở đi, chuyên mục này đã bị bỏ.
Những chứng cứ nêu trên (phần nhiều do Thụy Khuê thu thập) cho thấy: tội tổ chức chống phá cách mạng của Nguyễn Hữu Đang là sự thật. Trong trả lời phỏng vấn đài RFI, ông cũng thừa nhận: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không có bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”. Chắc chắn trên thế giới này không một nhà nước non trẻ nào, dù cộng sản hay không cộng sản, có thể bỏ qua những hành động chống đối như vậy.
2. Bị xử án cùng một phiên tòa với Nguyễn Hữu Đang còn có nhân vật quan trọng thứ hai là nhà báo Thụy An - Lưu Thị Yến. Trong phiên tòa mở ngày 19-1-1960 Thụy An và Phan Tại không thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tuy nhiên bà rất thân và có ảnh hưởng rất sâu rộng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm[Lê Đạt, Tự thú].
 Bà Thụy An
Về hành động chống phá Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Thụy An, cho đến nay, một số người vẫn còn hoài nghi về tội danh của bà, rằng Thụy An không phải là một gián điệp, không phải là người tổ chức chống phá chính quyền… Ngay trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tác giả cũng đòi hỏi: “Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn Bà Mới tại Sài Gòn, từ 1934, và Đàn Bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn, một cái án 15 năm phi lý, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự” [Thụy Khuê, sđd, tr.170].
Thế nhưng, chính ông Nguyễn Hữu Đang thừa nhận: “Bà Thụy An bị cơ quan an ninh nghi bà ấy làm gián điệp cho Pháp, vì thời tạm chiếm, bà ấy có quan hệ với nhiều người Pháp. Đến lúc đi, người ta sắp cử bà ấy làm giám đốc đài phát thanh cơ mà! Như thế là bà ấy cũng có địa vị, có uy tín, thì đáng nhẽ là bà ấy phải theo chính quyền Ngụy vào trong Nam chứ, bà ấy lại không theo vào”(?), và ông biện hộ: “bà ấy ở lại vì lý do chuyện cá nhân của bà”(!) [Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn RFI]. Lời của Nguyễn Hữu Đang cho thấy Thụy An không chỉ là người “có quan hệ với nhiều người Pháp” mà còn là người “có địa vị, có uy tín” với chính phủ Pháp, “sắp được cử làm giám đốc đài phát thanh”, “đáng nhẽ phải theo chính quyền Ngụy vào Nam”, nhưng “bà ấy ở lại vì lý do cá nhân”. Đó là lý do gì? Chính bà Thụy Khuê đã trả lời hộ: “Thụy An là người có liên hệ chặt chẽ với những người Quốc dân đảng như Đỗ Đình Đạo (Giám đốc Quân thứ lưu động của Việt Nam Quốc dân đảng) và người Pháp như Đại sứ Sainteny, các tướng Tassigny, Cogny…”. Còn chứng cứ về mối quan hệ ở mức “Nghĩa tử quốc gia” giữa Thụy An với nước Pháp thời kỳ đó thì chính Bùi Thư Linh (con gái Thụy An) xác nhận với Thụy Khuê trong cuộc điện đàm giữa hai người ngày 17-10-2009:
“- Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?
- Tôi bị bệnh lao xương, mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20-5-1954.
- Gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghĩa tử quốc gia), chính phủ Pháp lo hết”.
[Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hòa Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác do thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẩn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: - Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hòa Xá - chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16-12-2004 - Thụy Khuê, sđd, tr.179].
Những chứng cứ trên cho thấy Thụy An là “Nghĩa tử quốc gia” của Pháp, là người đã có những hoạt động và tổ chức hoạt động chống lại chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Vậy là tội trạng của Thụy An đã quá rõ, còn mục tiêu sâu xa của bà trong việc gây ảnh hưởng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm(như lời của nhà thơ Lê Đạt) cũng không hẳn là việc làm ngẫu nhiên.
* * *
Từ những chứng cứ vừa nêu trên có thể thấy Thụy An và Nguyễn Hữu Đang không phải là một, nhưng có sự gặp nhau về tư tưởng chống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, và trên thực tế cả hai cũng đã bắt đầu có những động thái địch lại với nhau. Điều này cũng giải thích vì sao Thụy An đã vào miền Nam vẫn ra Bắc (trên danh nghĩa nhà báo), còn Nguyễn Hữu Đang lại tìm đường trốn vào Nam và bị bắt vào tháng 4-1958.
Với những chứng cứ về hoạt động chống đối của mình, trước quan tòa, trước luật sư bào chữa cho mình, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang đã nhận hình phạt 15 năm tù giam, không kháng án.
Trong vụ án này, ngoài Nguyễn Hữu Đang ra, không có ai tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt, bị xử, kể cả Chủ nhiệm báo Nhân Văn là cụ Phan Khôi và Thư ký tòa soạn là họa sĩ Trần Duy. Cả hai vị chủ trương tạp chí Giai Phẩm là Hoàng Cầm và Lê Đạt cũng không bị truy tố. Trong khi, theo Trần Duy, việc mở báo Nhân Văn là mưu đồ của Nguyễn Hữu Đang nhưng được Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm… hưởng ứng. Những người này đều có tên tuổi trên văn đàn, nhưng điều khiến họ không thể đứng tên xin ra báo vì họ là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có thể được cử đến làm ở các tờ báo của Đảng, của các đoàn thể, nhưng lại không thể đứng tên xin ra báo tư nhân. Vì thế họ đã tìm đến cụ Phan Khôi và Trần Duy. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293].
Việc truy tố Nguyễn Hữu Đang, Thụy An mà không truy tố những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chứng tỏ pháp luật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xử đúng người, đúng tội (ở đây tôi không nói tới mức án nặng, nhẹ đối với mỗi người). Có trong tay những tư liệu tôi vừa mượn dẫn vậy mà bà Thụy Khuê lại lờ đi hoặc sử dụng méo mó nhằm biện hộ cho Nguyễn Hữu Đang và Thụy An để kết tội Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Với tôi, cả ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An là những người có tài, thuộc bậc cha chú; họ đã mất sau khi chấp hành án không chống đối, không nên “kết tội” lại. Tuy nhiên, bà Thụy Khuê đã nhân danh một nhà khoa học viết một công trình biên khảo, khảo cứu lại vụ án, rất dễ gây lòng tin đối với độc giả, nhưng cách viết lại thiếu khách quan, khoa học khiến nhiều bạn đọc lầm tưởng. Vậy xin có đôi lời trao đổi lại.
Hà Nội, tiết Thanh minh năm 2013

______
(*) PGS-TS ngành Văn học Dân gian, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Vinh.
(**) Bài này có tên: Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân: Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị (báo Nhân Văn số 2, ngày 30-9-1956).

Tuesday 27 August 2013

Thực hiện nghiêm chỉnh những điều đảng viên không được làm (Trần Hữu Phước - Tạp Chí Cộng Sản)


17:0' 7/8/2012

TCCS - Được rèn luyện và thử thách trong cách mạng dân tộc dân chủ, trong chiến tranh, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước, Đảng ta chẳng những có đường lối đúng mà còn xây dựng được lớp lớp cán bộ đảng viên làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Điều lệ Đảng đã quy định đầy đủ và chặt chẽ mọi tiêu chuẩn và yêu cầu cơ bản cần thiết bắt buộc mọi đảng viên phải tuân thủ và chấp hành. Thế nhưng, tại sao trong Đảng hiện nay vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, yếu kém chưa được ngăn chặn, đẩy lùi? Giải thích thực trạng này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục,lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên”.


Sinh thời, Bác Hồ thường căn dặn, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là xây dựng một nền kinh tế mới, một xã hội mới, mà còn là xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa, đem lại giá trị chân chính cho con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể tự giác trong sự sáng tạo lịch sử. Tuy nhiên, việc cải tạo con người, thay đổi ý thức của con người không thể là một quá trình tự phát. Đường lối đúng tự nó chưa đủ để loại trừ mọi sai lầm, hư hỏng của cán bộ, đảng viên, bởi vì đúng, sai, tốt, xấu, tích cực, tiêu cực của đảng viên còn phụ thuộc nhiều nhân tố ngoài đường lối, phụ thuộc vào cả bản thân người đảng viên. Chính vì lẽ ấy, Đảng ta coi công tác xây dựng Đảng là một vấn đề tổng hợp, là sự thống nhất biện chứng giữa giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục đạo đức, coi việc xây dựng thế giới quan khoa học và xây dựng tiêu chuẩn đạo đức cách mạng cho đảng viên là nhiệm vụ trung tâm. Việc ban hành Quyết định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương “Về những điều đảng viên không được làm” xuất phát trên cơ sở tư duy lý luận và sự định hướng đúng đắn đó.
Trong 19 điều đảng viên không được làm, trước hết cần nhấn mạnh 3 điều đầu tiên nhằm ngăn chặn tình trạng suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên; nhằm tạo hành lang an toàn và hệ thống “miễn dịch” ở trong Đảng. Bởi, người đảng viên phải nghiêm túc thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, không được nói và làm trái với nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng, không được viết và tán phát những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gieo rắc “nọc độc” tư tưởng trong quần chúng và gây ảnh hưởng xấu trong xã hội.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cuối những năm 80 - đầu những năm 90 thế kỷ XX nhắc chúng ta không bao giờ quên một điều cay đắng: một Đảng Cộng sản cầm quyền đã tự triệt tiêu mình do xa rời và từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chấp nhận “trọn gói” trào lưu tư tưởng của giai cấp tư sản phương Tây và tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ, đã rơi vào sự hỗn loạn về tư tưởng và đường lối, đã đánh mất trụ cột tinh thần và năng lực tập hợp tư tưởng, đánh mất tính nhạy bén về chính trị và năng lực phân biệt phải trái, đúng sai, mất hết khí phách và bản lĩnh.
Trong chuyến thăm Việt Nam vào hạ tuần tháng 9-2000, Giáo sư, Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Li-lốp, cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Bun-ga-ri, đã nói rõ: “Ở Liên Xô và ở nước chúng tôi, rất nhiều người nói rằng Goóc-ba-chốp là một kẻ phản bội. Trong thời kỳ đó, ở Liên Xô và ở Bun-ga-ri quả thật là có rất nhiều kẻ phản bội. Mà những kẻ phản bội lại thuộc giới lãnh đạo cấp cao, có những kẻ nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên là bộ trưởng. Có lẽ trong lịch sử chưa có thời kỳ nào lại xảy ra hiện tượng phản bội nhiều như vậy”.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là hệ quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu là chiến lược “diễn biến hòa bình” của phương Tây và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, tư tưởng đầu hàng phản bội của những người lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô. Cái thứ nhất là nguyên nhân bên ngoài, cái thứ hai là nguyên nhân bên trong, tất nhiên nguyên nhân bên trong là chủ yếu. Nếu bên trong không có những “con ngựa thành Tơ-roa” thì nhất định trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga không thể xảy ra một “cơn địa chấn” bi thảm về chính trị vào mùa Thu năm 1991. Chúng ta nhớ tình hình ở Cu-ba lúc bấy giờ còn nguy hiểm hơn nhiều so với Liên Xô và Đông Âu. Nhưng một Cu-ba kiên định, không lay chuyển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đến nay vẫn hiên ngang đứng vững, trở thành pháo đài chiến đấu kiên cố của các nước Mỹ La-tinh. Điều đó có nghĩa là mưu đồ thực hiện “diễn biến hòa bình”, xuất khẩu “phản cách mạng”, kích động dư luận núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa là một biện pháp thâm độc không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Nhưng có chấp nhận cấp giấy nhập cảnh, cấp “hộ chiếu đỏ” để cho các thế lực phản động vào thực hiện sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “xuất khẩu phản cách mạng” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin và triệt tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước mình hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngoài nguyên nhân do một số lãnh đạo cấp cao của đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai lầm lớn về đường lối, phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa, còn có một nguyên nhân rất cơ bản là các đảng cộng sản ở đó đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi... Những vết xe đổ đó là bài học nhãn tiền, có tác dụng cảnh báo rất đắt giá đối với chúng ta. Phát biểu khai mạc Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm…”.
Mười sáu điều quy định ở phần sau của Quyết định số 47-QĐ/TW “Về những điều đảng viên không được làm” có thể ví như những “biệt dược” giúp chúng ta phòng, chống, ngăn ngừa và đặc trị các loại bệnh tật phát sinh trong cơ thể của Đảng, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên tăng cường sức đề kháng, không bị tha hóa về phẩm chất đạo đức và lối sống. Sở dĩ Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm và đón nhận với một tình cảm hổ hởi, vui mừng là vì Đảng đã đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng giải pháp để tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã vạch rõ: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống xa cách người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L. Phoi-ơ-bắc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”.
Quả là như vậy. Giờ đây, sự phân hóa giàu nghèo không chỉ có trong xã hội, mà còn có cả trong nội bộ Đảng. Dinh cơ, tài sản và cuộc sống của một số gia đình cán bộ lãnh đạo đương chức hoặc đã thôi chức so với của đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động có sự cách biệt quá xa!
Lâu nay trong tâm trạng của đội ngũ cán bộ lão thành và các cựu chiến binh đã từng day dứt với nỗi băn khoăn: Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc của Nhà nước, lại thụ động chịu sự tác động mạnh bởi mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập. Đừng quên rằng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị phát triển thuận chiều với sự suy thoái về đạo đức và lối sống. Và, ngược lại. Đọc thiên hồi ký của Va-le-ri Phu-kin (người đã từng làm trợ lý cho Goóc-ba-chốp) viết về Goóc-ba-chốp khiến chúng ta không khỏi giật mình. V. Phu-kin viết: Goóc-ba-chốp được rất nhiều tiền thưởng, tặng phẩm, nhuận bút của nước ngoài. Trong tài khoản của cá nhân ông ta lúc bấy giờ đã có 1 triệu USD. Trở về từ lần đi thăm Hàn Quốc Goóc-ba-chốp rút ra từ trong ví da của mình một lá thư kèm theo hơn 10 vạn USD do Ro Tae Wu tặng. Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản ở khu vực các nước Đông Âu đã mất đi rất nhiều hình ảnh toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, chí công vô tư trong công chúng. Sự sụp đổ của chính quyền Xê-au-xê-xcu ở Ru-ma-ni cũng là hệ quả của tệ chuyên quyền, độc đoán, xa rời quần chúng, đặc quyền, đặc lợi trong Đảng Cộng sản nước này.
*
Nội dung của Quy định về 19 điều đảng viên không được làm là giải pháp kết hợp đồng bộ, tổng hợp giữa những nhiệm vụ “xây và chống”, “chống và xây”; nhằm phòng, chống sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ đảng viên. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là từng cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải thống nhất cao về ý chí và quyết tâm, nỗ lực nhiệt tình và đóng góp công sức vào việc tổ chức thực hiện với thái độ nhận thức và phương pháp tư duy đúng đắn. Cố nhiên, đây là nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng và là công tác xây dựng con người, nên việc thực hiện không dễ dàng và đơn giản. Nhưng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu: “Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.
Với quyết tâm cao của toàn Đảng, được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân và toàn quân, Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về 19 điều đảng viên không được làm nhất định sẽ góp phần tạo ra bước chuyển biến có tính đột phá trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với danh hiệu vẻ vang là “Đảng của Bác Hồ”./.
Trần Hữu PhướcPhó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn bảo tồn và tôn tạo các khu di tích lịch sử cách mạng